Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Thực trạng và giải pháp về pháp luật chống hàng giả, hàng nhái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.4 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ kinh tế thị trường, với xu hướng hội nhập và phát triển càng
ngày nền kinh tế nước ta càng phát triển hơn với sự tham gia của nhiều doanh
nghiệp và nhiều mặt hàng phong phú về cả mẫu mã lẫn chủng loại. Trong q
trình đó, có loại sản phẩm do nhiều xí nghiệp sản xuất, điều kiện khách quan của
các xí nghiệp khác nhau rất xa, nhưng giá trị hàng hoá tuỳ thuộc vào thời gian
lao động cần thiết, giá cả hàng hoá lại tuỳ thuộc sự biến đổi quan hệ cung cầu thị
trường và dao động xung quanh giá trị. Khi trên thị trường hàng hố mà cung
lớn hơn cầu thì có thể xuất hiện cạnh tranh giữa những người sản xuất, người
tiêu dùng có điều kiện lựa chọn. Để cạnh tranh thu hút khách hàng, người sản
xuất cố gắng nâng cao chất lượng, giảm giá thành, tăng cường dịch vụ, tích cực
tham gia cạnh tranh, cố gắng tạo ra sản phẩm nổi tiếng để phát triển thị trường.
Đồng thời, cũng có những người sản xuất kinh doanh, thực lực cạnh tranh yếu,
lại muốn thu nhiều lợi nhuận, dùng thủ đoạn cạnh tranh không chính đáng, lấy
thứ kém thay tốt, lấy giả thay thật điển hình là hành vi làm hàng giả, hàng nhái .
Cùng với sự bùng nổ cách mạng về khoa học kỹ thuật và giao lưu thơng tin rộng
rãi thì đồng thời tạo điều kiện cho các hoạt động cạnh tranh khơng lành mạnh đó
phát triển tinh vi hơn, làm khơng chỉ các xí nghiệp đứng đắn bị thiệt hại, người
tiêu dùng cũng bị thiệt hại. Nếu không ngăn chặn những nguy cơ nói trên, mọi
nỗ lực sáng tạo sẽ bị vùi dập, môi trường cạnh tranh sẽ trở nên hỗn loạn, tiến
trình phát triển kinh tế sẽ bị kìm hãm. Nghiên cứu để tìm ra một giải pháp thích
hợp để ngăn chặn các hoạt động làm hàng giả, hàng nhái sao cho hiệu quả và
phù hợp với tình hình khách quan của Việt nam đã trở thành đòi hỏi bức bách
của quá trình hội nhập phát triển kinh tế. Từ những suy nghĩ đó, em quyêt định
chọn đề tài : “ Thực trạng và giải pháp về pháp luật chống hàng giả, hàng
nhái ” cho tiểu luận của mình. Em xin chân thành cảm ơn TS Đồng Ngọc Ba đã
giúp đỡ em rất nhiều trong thời gian qua dể em hoàn thành tốt đề tài này.
1


Đè tài gồm có hai chương ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu


tham khảo:
Chương I: Nhận thức chung về cạnh tranh và hiện tượng hàng giả,
hàng nhái
Chương II: Thực trạng pháp luật chống hàng giả và hàng nhái
trong nền kinh tế hiện nay ở nước ta và một số giải pháp
Trong phạm vi đề tài này, em đã cố gắng nghiên cứu nhưng kinh nghiệm
và khả năng nhận thức bản thân hạn chế nên có thể cịn thiếu sót. Rất mong được
sự thơng cảm và góp ý của các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thàn cảm ơn

2


CHƯƠNG I:
NHẬN THỨC CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ HIỆN TƯỢNG HÀNG
GIẢ, HÀNG NHÁI
1.1 Khái niệm cạnh tranh.
Kinh tế thị trường được xem là một trong những thành tựu vĩ đại nhất
trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loaị khi con người đã phải trải qua sự
thống trị của kinh tế tự nhiên làm cho xã hội vận động chậm chạp và sự thống trị
của kinh tế chỉ huy làm mất động lực kinh tế, triệt tiêu tính năng động và sáng
tạo của con người. Cho đến nay chúng ta chưa tìm ra một kiểu tổ chức kinh tế
nào có hiệu quả hơn kinh tế thị trường vì nó ln hàm chứa trong mình những
thách thức đối với sự nhạy bén và sáng tạo của con người thông qua mơi trường
cạnh tranh. Đã là kinh tế thị trường thì đương nhiên có cạnh tranh và cạnh tranh
theo nghĩa là tranh giành khách hàng thì chỉ có trong khn khổ của kinh tế thị
trường.
Phải chăng cạnh tranh bước đầu tiên bao giờ cũng là sự khẳng định vị trí
của các doanh nghiệp trước những đối thủ trên cùng một thương trường và người
tiêu dùng cùng doanh nghiệp tác động qua lại tạo nên những vị trí đó. Vì người

tiêu dùng chính là đối tượng hướng tới của mọi doanh nghiệp hay chính xác hơn
là sự ủng hộ của người tiêu dùng đối với mặt hàng mà doanh nghiệp sản xuất là
điều doanh nghiệp mong muốn. Họ phải làm sao để ngày càng đáp ứng được
những sở thích và thoả mãn được thị hiếu của người tiêu dùng để tìm kiếm số
đông khách hàng đến mua mặt hàng của họ. Khi đó vị trí của họ được hình thành
đó chính là thị phần của doanh nghiệp trong thị trường. Điều này có ý nghĩa
quan trọng cho doanh nghiệp. Vị trí như thế nào thể hiện độ lớn mạnh của doanh
nghiệp như thế đó nên khi có sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp khác cùng sản
xuất một mặt hàng hay dịch vụ thì cạnh tranh xảy ra quyết liệt. Bởi vì lúc này
doanh nghiệp khơng chỉ phải khẳng định vị trí của mình khơng thơi mà cịn phải
3


đưa vị trí đó lên đầu bảng tức là có thị phần nhiều hơn và chiếm sự ủng hộ của
người tiêu dùng đơng hơn. Đó chính là bước cuối của cạnh tranh và bước này lại
chính là khởi đầu mới cho một việc bước chuyển mới của các doanh nghiệp. Nếu
doanh nghiệp biết cách cạnh tranh sẽ giữ mãi được vị trí và phát triển cịn nếu
khơng thì có nghĩa là tự bước chân ra khỏi cuộc chơi. Nhưng thực tế ít có doanh
nghiệp nào bước chân vào thị trường lại có mong muốn mình bị rút lui cả chính
vì vậy dẫn tới nhiều vấn đề thể hiện đúng bản chất của cạnh tranh.
Điều ta có thể khẳng định rằng cạnh tranh đem lại cho doanh nghiệp
nhiều cái mà trong đó điều đầu tiên đó là kinh nghiệm. Kinh nghiệm là cái đáng
quý để tiến tới lợi nhuận trong kinh doanh. Cho nên như là một chuỗi quy luật,
cạnh tranh đem lại cho doanh nghiệp những bài học kinh nghiệm đắt giá rồi
doanh nghiệp lại áp dụng nó vào cạnh tranh.
Doanh nghiệp lúc cạnh tranh với những đối thủ của mình cũng là lúc họ
tạo ra cho cạnh tranh những mặt tốt và mặt xấu. Ta có thể hiểu đó như những ưu
điểm và khuyết điểm.
Ưu điểm của cạnh tranh bộc lộ khá rõ ràng. Doanh nghiệp sẽ thường
xuyên thúc đẩy q trình đổi mới cơng nghệ, đổi mới mẫu mã, chất lượng, chủng

loại sản phẩm để ngày càng đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng. Bên cạnh đó,
để giảm thiểu chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm họ bắt buộc phải sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực của chính mình như vốn, lao động...
Tuy vậy, cạnh tranh cũng có nhiều nhược điểm. Cạnh tranh dễ dẫn tới vi
phạm pháp luật khi có những doanh nghiệp không từ thủ đoạn nào để loại trừ đối
thủ. Điều này làm các doanh nghiệp bị hạ thấp, bị tha hố, mất đi tính cơng bằng
trong mỗi cuộc chơi. Ngồi ra, cạnh tranh còn khiến cho nhiều doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản, trắng tay khiến tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, sự phân biệt
giàu nghèo càng lớn gây mất ổn định xã hội, tạo sức ép lớn đối với chính sách
kinh tế và chính sách xã hội của mỗi quốc gia.
4


Hiện nay có nhiều định nghĩa về cạnh tranh, tuy nhiên định nghĩa phổ
biến nhất thì cạnh tranh chính là một sự chạy đua giữa các doanh nghiệp cùng
sản xuất một mặt hàng trên nền tảng là thị trường hàng hóa, sản phẩm cụ thể để
tiến tới mục tiêu lợi nhuận.
Trong từ điển tiếng Việt, cạnh tranh được hiểu là tranh đua giữa những cá
nhân, tập thể có chức năng như nhau, nhằm giành phần hơn, phần thắng về mình.
Bên cạnh đó, cạnh tranh cịn rất nhiều cách hiểu khác. Từ điển Kinh doanh của
Anh xuất bản năm 1992 đã định nghĩa cạnh tranh như sau: “ Cạnh tranh là sự
ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành
cùng một loại tài nguyên sản xuât hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”
1.2 Hàng giả, hàng nhái, những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh.
Hàng giả, hàng nhái là một trong những hành vi cạnh tranh khơng lành
mạnh, xuất hiện như một khía cạnh vận động của đời sống xã hội. Điều đáng
quan tâm ở đây là với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trong điều kiện kinh
tế thị trường, hàng giả và hàng nhái ngày càng đa dạng hơn về chủng loại và tinh
xảo hơn về kỹ thuật.

Hàng giả trước hết là một loại sản phẩm, thông qua việc trao đổi, mua,
bán nó trở thành hàng hố. Hàng giả theo cách hiểu chung thì có nghĩa là hàng
kém chất lượng, hàng xấu.
Hàng nhái được coi là một bộ phận của hàng giả, tức là nó là một loại
hàng giả, các dấu hiệu của nó là những dấu hiệu nhận dạng hàng giả. Tuy nhiên
các tài liệu, hội thảo luôn nêu hàng giả và hàng nhái song song. Điều này chứng
tỏ hàng nhái vẫn là một khái niệm dường như riêng biệt với hàng giả.
Để hiểu rõ hơn về hai khái niệm hàng giả và hàng nhái, có thể lập
một bảng phân biệt như sau:

5


Các tiêu chí
phân biệt
Dấu hiệu

Hàng nhái

Hàng giả

Những sản phẩm, hàng hoá Những sản phẩm, hàng hoá
bắt chước hay sử dụng tương khơng có giá trị sử dụng đúng
tự tên thương mại, nhãn hiệu với nguồn gốc, bản chất tự
hàng hoá, kiểu dáng hoặc bao nhiên, tên gọi và cơng dụng
bì của những sản phẩm, hàng của nó.
hố được Nhà nước cho phép
sản xuất nhập khẩu và tiêu

Hành vi


thụ trên thị trường.
Chen chân vào thị trường Hưởng lợi nhờ lừa dối khách
nhờ lạm dụng uy tín đối thủ hàng về nguồn gốc, bản chất tự
cạnh tranh để gây nhầm lẫn nhiên, tên gọi và cơng dụng
cho khách hàng

của sản phẩm

Ví dụ: nhãn hiệu nhái là Ví dụ: Sản phẩm bên ngồi in
Cevie khiến cho khách hàng là nước mắm từ cốt cá cơm
nhầm lẫn với nhãn hiệu nước thơm ngon nhưng thực ra bên
khoáng Lavie
Ảnh hưởng

trong chỉ là nước màu pha với

muối
Uy tín và lợi nhuận của doanh Quyền lợi của người tiêu dùng
nghiệp

1.3 Ảnh hưởng của hàng giả, hàng nhái đối với người tiêu dùng, người
sản xuất và nền kinh tế.
1.3.1 Đối với người tiêu dùng
Người tiêu dùng là người bị thiệt hại trực tiếp của hàng giả, hàng nhái.
Để thỗ mãn các nhu cầu trong cuộc sống của mình, người tiêu dùng đã tiêu thụ
một lượng hàng hoá, nhu yếu phẩm, thuốc men...rất lớn. Nhưng bởi vì hàng giả,
6



hàng nhái đều khơng phải là loại hàng hố đảm bảo về mặt chất lượng và an toàn
vệ sinh như người tiêu dùng mong muốn nhất là hàng giả, ví dụ loại nước màu
pha muối giả làm nước mắm ở trên. Những đối tượng sản xuất hàng giả, hàng
nhái vì mục đích lợi nhuận coi thường sự an tồn về sức khoẻ của người tiêu
dùng mà tính mạng, sức khoẻ của con người là vơ giá khơng thể tính thành tiền.
Khi thiệt hại về sức khoẻ, người tiêu dùng có thể bị mất một phần hoặc
hoàn toàn khả năng lao động, do đó dẫn đến việc bị giảm sút thu nhập so với thu
nhập mà người đó đáng ra có được nếu không bị thiệt hại về sức khoẻ.
1.3.2 Đối với người sản xuất
Thiếu nghiêm trọng ý thức trách nhiệm xã hội và đạo đức chung của xã hội,
những đối tượng háo hức làm giàu dùng mọi mưu mô sản xuất và bán hàng giả,
hàng nhái làm thiệt hại đến nhiều người sản xuất chân chính. Kiểu dáng cơng
nghiệp, bao bì, nhãn hiệu... là một yếu tố khơng thể thiếu được và để những
thông tin này được người mua nhận biết thơng thường người sản xuất phải mất
rất nhiều trí tuệ và tiền của. Nhưng khi đã được người tiêu dùng nhận biết bán
chạy trên thị trường thì lại bị làm giả hoặc làm nhái và đến lúc naỳ người sản
xuất khơng hoặc khó có thể làm lại vì thời gian và tiền bạc khơng cho phép.
Thêm vào đó, người mua luôn bị nhầm lẫn giữa hàng nhái và hàng thật trong
khi người sản xuất lại chưa tìm được biện pháp nào để khắc phục hay giúp khách
hàng phân biệt hàng nhái với hàng thật. Người mua đề phòng bằng cách giảm
mua hàng hoặc chuyển sang đối tượng hàng hoá khác.

7


1.3.3 Đối với nền kinh tế nói chung
Hàng giả, hàng nhái làm đảo lộn trật tự thị trường bình thường, phá hoại
cơ cấu kinh tế. Cứ mỗi năm, có hàng trăm vụ hàng giả, hàng nhái bị phát hiện
nhờ kiểm tra, kiểm soát.
Hàng giả, hàng nhái làm cho nền kinh tế quốc dân bị thất thu thuế, ảnh

hưởng đến sản xuất kinh doanh, chất lượng cơng trình xây dựng...Hàng giả, hàng
nhái sản xuất trái pháp luật trốn thuế là điều tất nhiên nhưng hại nhất là nó cịn
làm cho các doanh nghiệp khơng kinh doanh được do mất uy tín, mất lợi nhuận.
Các nhà đầu tư nước ngoài e ngại khi đầu tư vào thị trường Việt nam.

8


CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHỐNG HÀNG GIẢ,
HÀNG NHÁI TRONG NỀN KINH TẾ HIỆN NAY Ở NƯỚC TA VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
2.1 Thực trạng hàng giả, hàng nhái trong nền kinh tế thị trường hiện
nay ở nước ta.
Trong những năm qua hàng giả xuất hiện ở hầu hết các ngành kinh tế,
văn hóa xã hội, an ninh quốc phịng. Hàng giả đa dạng, phong phú về chủng loại,
từ vật tư, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng, thuốc chữa bệnh, tiền, chứng từ hố
đơn, văn bằng, chứng chỉ... Nhìn chung, các mặt hàng có uy tín đều là đối tượng
có nguy cơ bị làm giả.
Một mặt hàng dành được thị phần nhờ chất lượng, uy tín, giá cả. Nhưng
hiện nay, trên thị trường nước ta, một nhãn hiệu hàng hoá ra đời có thị phần thì
khơng lâu, hàng giả, hàng nhái ra theo. Nước Lavie bán chạy thì lập tức có Li Va,
Le Vi... Mì ăn liền Vi Fon thì có Ni Pon, Vi Pon, Li Pon... Hành vi trên không chỉ
làm đau đầu các nhà sản xuất chân chính thơng qua việc trắng trợn chiếm đoạt
tài sản, bản quyền của họ mà còn là sự lừa đảo đối với người tiêu dùng. Trong
nền kinh tế thị trường, thương hiệu chính là tài sản vơ hình mà doanh nghiệp
phải đầu tư. Cho nên vấn đề độc quyền sản phẩm phải được coi trọng, song rất
dễ dàng bị nhái hàng giả làm theo mẫu mã.
Thủ đoạn và kỹ thuật sản xuất ngày càng tinh vi, làm cho người mua dề
nhầm lẫn, cơ quan chức năng khó phát hiện, ngay cả chính nhà sản xuất hàng

thật cũng khó phân biệt.
Các siêu thị trong thành phố Hồ Chí Minh bình thường thu hút được
40% khách mua hàng. Có lẽ con số đó sẽ giảm bởi sự xuất hiện của hàng giả và
hàng nhái. Thậm chí số hàng giả, hàng nhái này có cả hố đơn giả, chứng từ giả.
Các siêu thị Hồ Chí Minh đang cố gắng ngăn chặn nguồn hàng giả, hàng nhái
9


đến từ khắp nơi để tránh làm ảnh hưởng đến người tiêu dùng và các nhà sản xuất
chân chính.
Xuất hiện trên các đường dây liên tỉnh, khép kín từ sản xuất, vận chuyển
tiêu thụ. Địa bàn từ thành phố ra các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Điều này khiến cho quyền lợi của người tiêu dùng ở các vùng xa xôi
chưa được bảo vệ. Hàng giả, hàng nhái và cả hàng kém chất lượng như: hàng
làm hỏng…cũng được chuyển hết về nông thôn hoặc vùng sâu, vùng xa. Các mặt
hàng như: dép, giầy thậm chí cả thực phẩm. Thêm vào đó, những người tiêu
dùng ở đó, mặc dù biết là hàng giả, hàng nhái nhưng vẫn phải chấp nhận. Bởi vì
họ khơng thể vì một hộp cá, một đơi dép, một chai bia.. mà cất công đi tàu, xe cả
ngày lên thành phố khiếu nại.
Vấn đề đặt ra với cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là không chỉ
chờ người tiêu dùng đến khiếu nại mà phải phối hợp cùng quản lý thị trường
kiểm soát chặt chẽ đầu ra của sản phẩm.
Loại hình ngày càng đa dạng: hàng nội giả hàng ngoại và ngược lại, hàng
ngoại giả hàng ngoại, hàng nội giả hàng nội. Trong đó chủ yếu giả vì nhãn hiệu ,
kiểu dáng
Hiện nay đã có nhiều sản phẩm của Việt nam với chất lượng cao đã làm
cho nhiều sản phẩm ngoại phải e ngại. Rõ ràng là sản phẩm của chúng ta đang
dần lấy được thế cạnh tranh. Nhóm quạt điện là một ví dụ sinh động của sự
trưởng thành trong cạnh tranh. Và nhiều ví dụ khác nữa: ngành dệt, mau mặc,
giày dép, gốm sứ, bóng đèn, phích nước, bột giặt, bánh kẹo, dược phẩm...Chính

vì vậy gần đây đã xuất hiện một hiện tượng mới: hàng ngoại giả nội. Một số
hàng nước ngoài do chất lượng thua kém hàng Việt nam đã bị xóa tên để để
mang tên bóng đèn, ruột phích Rạng Đơng, pin Văn Điển... Có nhiều lý do để tin
tưởng rằng trong một thời gian không lâu, nhiều mặt hàng của Việt nam sẽ đủ
sức mạnh cạnh tranh được với hàng ngoại. Tuy nhiên, trước mắt, các nhà sản
10


xuất Việt Nam đang phải đương đầu với cả hai sức ép khá căng thẳng từ hai
phía: hàng ngoại và hàng giả. Bên cạnh đó, hàng kém chất lượng, quá hạn sử
dụng cũng còn nghiêm trọng.
Các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần nhanh chóng phối hợp, xử lý
thích đáng những tập thể, cá nhân có hành vi ăn cắp bản quyền sáng chế của
những người lao động chân chính để làm ra những hàng giả, hàng nhái kém chất
lượng, làm lũng đoạn thị trường và gây tổn hại cho người tiêu dùng...
2.2 Thực trạng pháp luật chống hàng giả, hàng nhái ở nước ta.
Hàng nhái, hàng giả là những hàng hoá được sản xuất ra trái pháp luật, vi
phạm vào quyền sở hữu trí tuệ của người khác, vi phạm vào quản lý nhà nước về
chất lượng hàng hố. Ngồi ra hành vi sản xuất, bn bán hàng giả, hàng nhái
còn được xác định là một hành vi có tính chất và mức độ nguy hiểm cao và được
xử lý bằng pháp luật hình sự. Chính vì vậy việc chống hàng nhái, hàng giả ở
nước ta hiện nay được thực hiện đồng thời bằng cả thủ tục và chế tài dân sự, thủ
tục và chế tài hành chính, thủ tục và chế tài hình sự.
2.2.1 Chống hàng nhái, hàng giả bằng thủ tục và chế tài dân sự:
Hàng giả, hàng nhái vi phạm đến quyền sở hữu công nghiệp sẽ được giải
quyết bằng thủ tục và chế tài dân sự như sau:
Tồ dân sự chỉ mở khi có đơn kiện của các chủ thể có quyền sở hữu trí
tuệ bị xâm phạm do hành vi làm hàng giả, hàng nhái của người khác hoặc những
người được pháp luật cho phép. Sau khi thụ lý, Toà án sẽ tiến hành các thủ tục tố
tụng dân sự để xác định hành vi xâm phạm quyền, ra các quyết định khẩn cấp

tạm thời, các quyết định và bản án giải quyết buộc chấm dứt việc sản xuất hàng
nhái, hàng giả và bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu trí tuệ có quyền lợi bị xâm
hại do hành vi sản xuất buôn bán hàng giả, hàng nhái gây nên. Đương sự có
quyền kháng cáo trong vịng 15 ngày kể từ ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết
định. Thẩm quyền giải quyết các vụ án tranh chấp quyền sở hữu công nghiệp
11


thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh. Khi các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật, nó sẽ được thi hành thông qua cơ quan thi hành án. Nếu người phải thi hành
án không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành án có thể áp dụng các biện
pháp cưỡng chế thi hành án.
Thủ tục tố tụng dân sự được áp dụng giải quyết các vi phạm, chống lại
những người có hàng vi bn bán, sản xuất hàng giả dựa vào các quy định pháp
luật. Theo quy định Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thì các loại
văn bản: Cơng văn, Văn bản tổng kết, lời kết luận của Chánh án Toà án nhân dân
tối cao... khơng có giá trị pháp lý như văn bản quy phạm pháp luật . Tuy nhiên
trong tình hình hiện nay, những loại văn bản này vẫn được áp dụng trong các
công tác xét xử khi các văn bản pháp luật chưa có quy định thay thế.
Đây là một hướng giải quyết đạt hiệu quả cao, có thể bảo vệ được những
lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu trí tuệ, nhưng nhược điểm là rườm rà, tốn
kém cả về vật chất lẫn thời gian và nhất là dễ bị lộ bí mật về kinh doanh. Cho
nên những vụ hàng giả, hàng nhái vi phạm quyền sở hữu cơng nghiệp đưa đến
tồ ngày một giảm.
2.2.2 Chống hàng nhái, hàng giả bằng thủ tục và chế tài hành chính
Việc giải quyết các khiếu nại hàng giả, hàng nhái có liên quan đến vi
phạm quyền sở hữu công nghiệp thông qua các biện pháp hành chính là cơng cụ
được sử dụng phổ biến trên thế giới. Ở nước ta cũng vậy biện pháp hành chính là
cơng cụ quan trọng nhất trong việc chống hàng nhái, hàng giả. Việc xử lý các
hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả bằng biện pháp hành chính có ưu điểm là

nhanh chóng xử lý được các chủ thể và tang vật vi phạm mà lại ít tốn kém, hiệu
quả xử lý cao. Cho đến nay ở nước ta phần lớn các vụ sản xuất, buôn bán hàng
giả đều được xử lý bằng thủ tục và chế tài hành chính.
Việc xử lý hành chính được áp dụng cho các hành vi sản xuất, buôn bán
hàng giả chưa tới mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự được phát hiện ra bởi
12


các cơ quan chức năng khi thực hiện hoạt động thanh tra, kiểm tra hoặc trên cơ
sở tin báo của các tổ chức, cá nhân có quyền lợi liên quan hoặc bất kỳ một tổ
chức, cá nhân nào khác. Khác với trách nhiệm hình sự và dân sự được áp dụng
bởi toà án, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được giao chủ yếu cho các
cơ quan quản lý nhà nước, đó là:
UBND các cấp
Cơ quan quản lý thị trường các cấp
Cơ quan Công an
Cơ quan hải quan
Cơ quan thanh tra nhà nước
Thanh tra chuyên ngành sở hữu công nghiệp
Cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng
Cơ quan quản lý y tế
Các cơ quan này trong phạm vi thẩm quyền của mình khi phát hiện ra
các hành vi sản xuất, bn bán hàng giả thì phải ra lệnh đình chỉ ngay hành vi vi
phạm. Tuỳ theo tính chất và mức độ của hành vi vi phạm, cơ quan có thẩm
quyền phải lập biên bản về hành vi vi phạm. Và trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày lập biên bản về hành vi vi phạm, người có thẩm quyền phải ra quyết định
xử phạt đối với hành vi vi phạm.
Tuy nhiên biện pháp này cũng không tránh khỏi những nhược điểm. Do
hầu hết các vi phạm đều là cố ý, nhằm mục đích vụ lợi, cạnh tranh bất chính mà
việc xử lý bằng biện pháp hành chính nhưng vẫn chưa triệt để, chưa đủ sức ngăn

ngừa, răn đe và giúp các doanh nghiệp yên tâm sản xuất, kinh doanh.
2.2.3 Chống hàng giả, hàng nhái bằng thủ tục và chế tài hình sự
Những hành vi sản xuất, bn bán hàng giả nghiêm trọng gây thiệt hại
tới xã hội, con người hoặc tới an ninh quốc phịng có yếu tố cấu thành tội phạm
đều có thể bị áp dụng các biện pháp chế tài hình sự trên cơ sở quy định của Bộ
13


luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Bộ luật hình sự Việt nam 2009 sửa đổi và bổ sung quy định:
Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả tương đương với số lượng của
hàng thật có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu
đồng hoặc dưới ba mươi triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị
xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều
153, 154, 155, 157, 158, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một
trong các tội này, chưa được xố án tích mà cịn vi phạm, thì bị phạt tù từ sáu
tháng đến năm năm. Trong các trường hợp khác thì có thể bị phạt tù từ ba năm
đến mười lăm năm.
Điều này thể hiện chính sách hình sự mới của nước ta trong việc chống
hàng giả, hàng nhái. Điều đó cũng cho thấy thái độ nghiêm khắc của Nhà nước ta
đối với nạn buôn bán và sản xuất hàng giả, hàng nhái.
Ngồi ba hình thức chống hàng giả, hàng nhái qua thủ tục và chế tài dân
sự, thủ tục và chế tài hành chính, thủ tục và chế tài hình sự trên cịn có một hình
thức nữa đó là xử lý thơng qua đàm phán. Ưu điểm của hình thức xử lý này là
tiết kiệm thời gian và chi phí. Chủ thể vi phạm chấm dứt vi phạm cơ bản và lâu
dài trên cơ sở tự nguyện. Tránh được những vi phạm khác và vẫn có thể giải
quyết bằng các hình thức khác khi không đạt được thoả thuận.
2.3 Một số giải pháp phịng ngừa ngăn chặn tình hình sản xuất và
bn bán hàng giả.
2.3.1.Tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng, vai trò điều hành quản lý

của Nhà nuớc trong phát triển kinh tế - xã hội:
Đây là biện pháp quan trọng nhất, có ý nghĩa cơ bản và quyết định đến
việc phịng ngừa tội phạm sản xuất và bn bán hàng giả, trong đó phát triển sản
xuất là vấn đề mấu chốt, đồng thời mở rộng hoạt động kinh doanh xuất nhập

14


khẩu, có vai trị thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển thỏa mãn nhu cầu tiêu
dùng của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Để phát triển sản xuất trong giai đoạn hiện nay, trước hết phải nghiên cứu
và thực hiện xố bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu, chuyển hẳn sang cơ
chế thị trường, có sự phân định rõ chức năng quản lý hành chính với chức năng
quản lý sản xuất và kinh doanh. Phân định rõ quyền sở hữu với chính quyền
quản lý. Có chế định rõ ràng vế chế độ trách nhiệm, quyền hạn của các chủ thể
trong lĩnh vực quản lý Nhà nước.
Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế theo hướng đồng bộ,
thích ứng và có hiệu lực trong cơ chế thị trường, nhằm tạo ra môi trường sản
xuất và kinh doanh tự chủ, thơng thống nhưng vẫn đảm bảo trật tự xã hội. Nhà
nước có vị trí điều hành, hướng dẫn, điều tiết, cân đối mang tính vĩ mô và tổng
thể các hoạt động sản xuất và kinh doanh.
Nhà nước điều hành và quản lý kinh tế - xã hội phải triệt để tuân thủ
đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được Nghị quyết Đại hội
VIII, Đại hội IX đề ra. Trong đó, phát triển thị trường hàng hoá trong nước mở
rộng, tạo điều kiện để cho các hoạt động xuất nhập khẩu và kinh doanh trong
nước phát triển, đây là điều kiện để mở rộng và phát triển sản xuất trong nước.
Đồng thời, chú trọng phát triển dầu tư hợp lý cho các chương trình, dự án kinh tế
lớn, làm nịng cốt cho các ngành nghề sản xuất và các địa phương phát triển toàn
diện về kinh tế - xã hội.
Nếu thực hiện tốt chính sách kinh tế - xã hội như trên sẽ tạo ra công an

việc làm cho người lao động, tạo ra nhiều của cải cho xã hội, tăng sản phẩm
hàng hoá được sản xuất trong nước với chất lượng tốt, mẫu mã hình thức đẹp,
giá thành sản phẩm hạ, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất nội địa với
hàng hố được sản xuất từ nước ngồi nhập vào. Từng bước xố đói giảm nghèo
cho nhân dân vùng sâu, vùng xa. Nhu cầu vật chất như công cụ sản xuất được
15


đáp ứng, nhu cầu tiêu dùng hàng hoá phục vụ cho sinh hoạt từng bước được cải
thiện. Làm được như vậy, mâu thuẫn cơ bản giữa cung và cầu từng bước được
giải quyết, cũng có nghĩa là phịng ngừa, ngăn chặn được một trong những
nguyên nhân căn bản nhất của tình hình sản xuất và bn bán hàng giả. Thống
nhất vai trò điều hành và quản lý của Nhà nước từ trung ương đến cơ sở thông
qua hệ thống pháp luật, tạo ra hành lang pháp lý chặt chẽ, xây dựng môi trường
sản xuất kinh doanh lành mạnh, không để tình hình sản xuất và buốn bán hàng
giả xen vào.
Trong tình hình hiện nay, các hoạt động kinh tế và các quan hệ sản xuất
kinh doanh diễn ra sôi động và đa dạng, đòi hỏi cấp bách là xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật kinh tế, trọng tâm là quản lý Nhà nước về sản xuất và
kinh doanh, cụ thể là việc cấp phép và quản lý sản xuất kinh doanh. Khơng để
tình hình sản xuất và bn bán hàng giả nảy sinh và phát triển.
Từ cuối năm 1999 đến nay, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến
cơng tác phịng ngừa, ngăn chặn tình hình sản xuất và buôn bán hàng giả. Nhiều
văn bản qui phạm pháp luật được ban hành, song việc quán triệt và triển khai
thực hiện chưa thực sự có hiệu quả, đặc biệt còn thiếu đồng bộ và thống nhất từ
trung ương đến cơ sở. Chính vì vậy, Nhà nước cấp tập trung chỉ đạo các ngành,
các cấp từ trung ương đến địa phương triển khai thực hiện tốt một số nội dung cụ
thể sau:
Tăng cường quản lý tốt việc cấp phép cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân về hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Thực hiện nghiêm túc các quy định của nhà nước về quyền sở hữu trí tuệ,
sở hữu công nghiệp, củng cố tổ chức đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
với việc quản lý hoạt động sở hữu công nghiệp. Tiếp tục bổ sung và cụ thể hoá
hệ thống pháp lý trong việc xử lý những tranh chấp về sở hữu trí tuệ và sở hữu
cơng nghiệp.
16


Tăng cường bồi dưỡng kiến thức về sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp
cho nhân viên điều tra, giám định, kiểm sát, tồ án để q trình vận dụng, tránh
những sai sót do thiếu kiến thức.
Đề thống nhất được về nhận thức và hành động trong cơng tác phịng
ngừa sản xuất và bn bán hàng giả, Chính phủ phải đứng ra, hoặc giao cho một
Bộ, Ngành chủ trì phối hợp các ngành, các cấp có chức năng liên quan, cùng xây
dựng kế hoạch hành động cụ thể bằng những nội dung, biện pháp cụ thể. Định
kỳ phải có sơ kết đánh giá kết quả triển khai thực hiện và xây dựng chương trình
hành động cho thời gian tới.
2.3.2 Tăng cường hơn nữa công tác: giáo dục, tuyên truyền, vận động
tồn dân tham gia cơng tác phịng ngừa và đấu tranh chống sản xuất và buôn
bán hàng giả.
Xác định rõ tình hình sản xuất và bn bán hàng giả có nguồn gốc phát
sinh và phát triển từ lâu, mọi lĩnh vực của đời sơng xã hội, có mặt ở mọi miền
của đất nước. Trong điều kiện của nền sản xuất hàng hoá, nhất là trong điều kiện
kinh tế thị trường, hàng giả có xu hướng ngày càng phát triển. Cơng tác phịng
ngừa và đấu tranh chống sản xuất và bn bán hàng giả là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành từ TW đến tân cơ sở, có tính chất lâu dài.
Mục đích của cơng tác này là từng bước nâng vao dân trí, làm cho toàn
dân hiểu được tác hại của hàng giả, hiểu được thể nào là hàng giả, hàng thật,
hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Từ đó, làm cho họ tự giác không
tham mua hàng giả rẻ tiền, không sử dụng hàng giả, tích cực tham gia cùng các

lực lượng chức năng của Nhà nước phòng ngừa và đấu tranh quyết liệt với các
loại tội phạm này.
Trước mắt là các cơ quan thông tin đại chúng phải xác định trách nhiệm
của mình, đàu tư hợp lý cho cơng tác tun truyền phổ biến pháp luật, giành tỷ lệ

17


thời gian phù hợp cho chương trình tuyên truyền trên báo hình, báo nói và báo
viết.
Các cơ quan xây dựng pháp luật và bảo vệ pháp luật phải phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng cung cấp những thông tin tài liệu liên
quan đến các quy định của Nhà nước, các cụ án trọng điểm và những tập thể, cá
nhân dũng cảm, mưu trí và có thành tích xuất sắc trên mặt trận phịng ngừa và
đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả.
Nhà nước, giao cho các bộ, ngành liên quan như Toà án, Kiểm sát, Công
an, nhất là Bộ giáo dục và Đào tạo phối hợp nghiên cứu và đưa ra công tác giáo
dục phòng ngừa và đấu tranh chống hàng giả vào trong chương trình học chính
khố của các học sinh phổ thơng.
Cấp uỷ và chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở xã, phường phải
thường xuyên tuyên truyền, vận động từng hộ gia đình gương mẫu đăng ký
khơng sử dụng hàng giả, không tham gia sản xuất và buôn bán hàng giả, tố giác
với cơ quan chức năng. Những trường hợp vi phạm phải được xét xử công khai,
nghiêm minh làm bài học để giáo dục răn đe những người khác. Phát động
phong trào chống hàng giả được toàn dân ủng hộ và tích cực chủ động tham gia.
Nội dung cần giáo dục và tuyên truyền để cho mọi thành viên trong xã
hội hiểu được:
Thứ nhất: Tất cả các văn bản pháp quy về lĩnh vực chống hàng giả và
nhận biết đâu là hàng thật, đâu là hàng giả.
Thứ hai: Tham gia phòng ngừa và đấu tranh chống sản xuất và buôn bán

hàng giả là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi thành viên trong xã hội vì: sản xuất và
bn bán hàng giả có tác động tiêu cực trực tiếp đến mọi lĩnh vực trong đời sống
xã hội. Nó phá hoại quá trình sản xuất và kinh doanh lành mạnh, làm sói mịn
đến đời sống tinh thân và niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Chính phủ trong
cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung, chống sản xuất và buôn bán
18


hàng giả nói riêng, gây sự hồi nghi trong cuộc sống hàng ngày. Nó ảnh hưởng
đến sức khoẻ, thậm chí cả tính mạng con người... nên tham gia phịng ngừa và
đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả là tham gia xây dựng xã hội phát
triển văn minh, là tự bảo vệ chính quyền lợi của bản thân mình.
Thứ ba: Mỗi người dân muốn cùng đấu tranh chống hàng giả, hàng nhái
phải hiểu là: Không sử dụng hàng giả, không tham gia bất cứ một công đoạn nào
của q trình sản xuất và bn bán hàng giả; khi phát hiện hàng giả hoặc người
nào sản xuất và buôn bán hàng giả thì chủ động tố giác với các cơ quan có chức
năng như: Cơng an, Quản lý thị trường, Hải quan, Tổ chức thanh tra của Bộ khoa
học công nghệ và môi trường hoặc thanh tra chuyên ngành để có biện pháp bắt
giữ, xử lý.
Thứ tư: Nên biểu dương khuyến khích kịp thời những tập tể và cá nhân
điển hình tiên tiến, có thành tích trong cơng tác phịng ngừa và đấu tranh chống
sản xuất và bn bán hàng giả, để nhân rộng, khuyến khích nhiều tập thể và cá
nhân tham gia. Đưa tin kịp thời những vụ án sản xuất và buôn bán hàng giả được
các cơ quan bảo về pháp luật phát hiện, điều tra và xử lý nhằm giáo dục răn đe,
ngăn chặn những người khác có ý định phạm tội.
2.3.3 Tăng cường hợp tác quốc tế và phối hợp chặt chẽ giưa các cơ sở
sản xuất kinh doanh với các cơ quan khoa học trong cơng tác phịng ngừa
ngăn chặn sản xuất và bn bán hàng giả.
Thế giới đang trong xu thế hình thành một thị trường chung. Xuất phát từ
sự phát triển và tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, một

cuộc cách mạng có tính hai mặt, vừa là thời cơ, vừa là thách thức, cuộc cách
mạng này xố đi tình biệt lập, khép kín, tự cung tự cấp truyền thống của một số
nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Quốc tế hố, tồn cầu hố là một xu
thế của thời đại, là một yêu cầu tất yếu khách quan, ngày càng hình thành rõ rệt.

19


Cùng với xu thế quốc tế hố mọi mặt tích cực của đời sống xã hội, thì
tình hình quốc tế hố các loại tội phạm, trong đó có tội phạm sản xuất và buôn
bán hàng giả cũng là một tất yếu khách quan. Trong những năm trước, nhất là
thời kỳ bao cấp, khi khoa học công nghệ chưa phát triển, Nhà nước thêu nước
ngoài in tiền, hoặc khi Ngân hàng Nhà nước có máy in tiền (K84) thì Nhà nước
độc quyền in tiền, tội phạm chưa in được tiền, nên chưa có tiền giả. Trong những
năm của thời kỳ mở cửa, đã kéo theo sự móc nói giữa tội phạm trong nước với
nước ngoài. Tiền giả được in từ nước ngồi chuyển vào Việt Nam khơng ít, thậm
chí có một số đối tượng là tội phạm đã nắm bắt được khoa học – công nghệ, sử
dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại in được tiền giả, cũng như sản xuất các loại
hàng giả khác là công cụ tư liệu sản xuất, hàng hoá tiêu dùng như thuốc chữa
bệnh, hàng điện tử, điện lạnh gia dụng, thuốc trừ sâu... đã được các đội tượng
trong nước móc nối với các đối tượng chuyên sản xuất hàng giả từ nước ngoaì
vận chuyển lậu vào Việt Nam, hoặc tự sản xuất trong nước, đưa ra tiêu thụ trên
thị trường ngày càng nhiều...Trên thực tế, cơng cuộc hợp tác quốc tế phịng
chống tội phạm trên các lĩnh vực như: chống ma tuý, chống buôn lậu, chống các
loại tội phạm hình sự có tổ chức... của nước ta với các tổ chức quốc tế đã đạt
được nhiều kết quả đang ghi nhận. Nhưng hợp tác quốc tế về phịng chống tội
phạm sản xuất và bn bán hàng giả chưa được quan tâm đúng mức, do đó cơng
tác phịng chống tội phạm sản xuất và bn bán hàng giả của ta chưa đáp ứng
với yêu câù nhiệm vụ trong tình hình hiện nay. Do vậy, mở rộng đối ngoại, nhằm
khai thác tốt những nhân tố tích cực trong cơng tác phịng chống tội phạm sản

xuất và bn bán hàng giả là hết sức cần thiết, là một nhu cầu tất yếu khách
quan. Chính vì vậy quan hệ hợp tác quốc tế cần tập trung vào các nội dung sau:
Quan tâm hơn nữa đến biện pháp kiểm soát biên giới với vai trò của lực
lượng Hải quan. Hải quan là cơ quan có trách nhiệm trong việc thực hiện các
biện pháp kiểm soát biên giới. Theo quy định của Pháp lệnh hải quan, tất cả hàng
20


hoá, hành lý xuất, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh và quá
cảnh đều phải khai báo với hải quan và chịu sự kiểm tra, kiểm soát của hải quan.
Hải quan chỉ cho phép giải phóng hàng hoá hoặc phương tiện vận tải khi bộ hồ
sơ, chứng từ đi kèm hàng hoá và phương tiện vận tải đó cũng như các thủ tục cần
thiết được thực hiện đầy đủ và đúng theo quy định của pháp luật Việt nam. Bên
cạnh việc kiểm tra, kiểm sốt cơng khia đối với hoạt động xuất nhập khẩu và
xuất nhập cảnh, Hải quan Việt nam còn tiến hành các hoạt động điều tra, ngăn
chặn, trấn áp đối với các hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh trái phép
diễn ra tại các địa điểm ngoài cửa khẩu dọc theo biên giới, bờ biển.
Các Bộ, Ngành chức năng chủ động phối hợp với chính quyền và các cơ
quan bảo vệ pháp luật của các nước có đường biên giới với nước ta phát hiện,
đấu tranh, ngăn chặn sự móc nối giữa tội phạm sản xuất và buôn bán hàng giả
trong nước với tội phạm sản xuất và buôn bán hàng giả các nước trên thế giới,
nhất là các nước có quan hệ trao đổi hàng hoá nhiều và thuận lợi với nước ta.
Đồng thời với tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế, do đặc điểm của
trình độ khoa học cơng nghệ và sản xuất trong nước nên vấn đề thứ hai đặt ra là:
Các tổ chức và cá nhân sản xuất và kinh doanh trong nước, cần phải tăng cường
phối hợp với các cơ quan quản lý chuyên môn, cơ quan bảo hiểm ở trung ương
và địa phương, từ khâu cấp, quản lý, kiểm tra giấy phép sản xuất, kinh doanh cho
đến việc nghiên cứu sản xuất ra những hàng hố có tính riêng biệt, đặc thù từ nội
dung cho đến mẫu mã, bao bì, chủ động phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp
luật, phát hiện những tổ chức, đường dây chuyên sản xuất và buôn bán hàng giả

theo hàng của mình, hoặc nói cách khác: các tổ chức và doanh nghiệp sản xuất
và kinh doanh phải chủ động tự bảo vệ chính mình. Có nhiều phương pháp mà
các doanh nghiệp có thể sử dụng như: tạo ra những kiểu dáng cơng nghiệp, kiểu
bao bì đặc chủng, mã số, mã vạch, tem đặc chủng... Kiểu dáng công nghiệp thì
tốn thời gian và tiền bạc nên khó làm nhất. Mã số, mã vạch cho những thông tin
21


đầy đủ về nhà sản xuất, nơi sản xuất và nếu sử dụng mực in đặc chủng phát
quang có thể dùng đèn cực tím chuyên dụng để phát hiện thật giả. Hình thức
dùng tem đặc chủng là tiện dụng nhất. Ưu điểm của con tem là mang được đầy
đủ các thông tin mà người sản xuất muốn chuyển tải đến người mua như tên
công ty, địa chỉ, điện thoại, cam kết của người sản xuất với người mua về sản
phẩm của mình như: tem bảo hành, tem chính hiệu...Tính chất tiện dụng của con
tem cũng rất cao vi dụ chỉ cần một con tem có thể dán lên nhiều loại hàng của
cơng ty mình. Giá thành một con tem trong giá thành chung của sản phẩm lại
khơng cao. Ngồi ra, con tem cịn làm vật trang trí cho sản phẩm thêm hấp dẫn
và dễ thu hút người mua. Các doanh nghiệp tuỳ nghi lựa chọn theo sản phẩm để
giữ gìn không bị hàng giả, hàng nhái vi phạm.

22


KẾT LUẬN
Nạn hàng giả, hàng nhái gây tổn thất cho mọi nền kinh tế của mọi đất
nước. Hàng nhái làm lu mờ hình ảnh của nhãn hiệu và làm mất lịng tin của
người tiêu dùng. Việt nam cam kết hồn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật nhất là
về mặt bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ để phù hợp với các quy định của Hiệp định
TRIPS (ADPIC) cũng để bảo vệ nền kinh tế, quyền lợi của các doanh nghiệp, lợi
ích hợp pháp của người tiêu dùng khỏi ảnh hưởng của hàng nhái và hàng giả.

Bản thân doanh nghiệp và người tiêu dùng cũng phải trỏ thành những người tiêu
dùng thơng thái để tự biết cách bảo vệ mình.
Nếu xuất hiện các hành vi cạnh tranh bất chính, người bị vi phạm có
nhiều khả năng pháp luật nhằm chống lại các sai phạm đó để bảo vệ các quyền
lợi tài sản của mình - ba biện pháp cơ bản: các biện pháp dân sự, hành chính và
hình sự. Nhìn chung lại, vấn đề hàng giả, hàng nhái đối với các nước phát triển
đã khơng cịn mới mẻ, nhưng do trình độ phát triển kinh tế - xã hội mà kinh
nghiệm Việt nam chưa bắt kịp với trình độ phát triển chung của thế giới.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ luật hình sự Việt nam sử đổi bổ sung 2009
2. Kas, F.R.GERMANY - Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt
nam hiện nay
3. TS. Nguyễn Như Phát và Th.S Bùi Nguyên Khánh – Tiến tới xây dựng pháp
luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt nam.
4. TS. Phạm Duy Nghĩa - Đề cương môn học Luật kinh tế (Dành cho hệ cử nhân
Luật chính quy đại trà)

24



×