Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Một số quy định mới trong luật quản lý thuế 2019 và thông tư 402021TT BTC liên quan đến thu thuế trong lĩnh vực thương mại điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.11 KB, 37 trang )

TIỂU LUẬN
MỘT SỐ QUY ĐỊNH MỚI TRONG LUẬT QUẢN LÝ
THUẾ 2019 VÀ THÔNG TƯ 40/2021/TT-BTC
LIÊN QUAN ĐẾN THU THUẾ TRONG LĨNH VỰC
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

Môn: Luật Thuế
GVHD: ThS. Nguyễn Thế Đức Tâm

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 07/2021


MỤC LỤC


3

I.

LỜI MỞ ĐẦU

Theo Cục thương mại và kinh tế số, Thương mại điện tử Việt Nam đang tăng trưởng
mạnh mẽ trong những năm vừa qua, riêng trong năm 2020 mức tăng trưởng đạt 18% với
quy mô thị trường là 11,8 tỉ USD, chiếm 5,5% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng cả nước. Tính đến tháng 01/2020, Việt Nam có số lượng người dùng
internet chiếm khoảng 68,17% dân số, nằm trong top 20 nước có tỷ lệ người dùng internet
cao nhất thế giới. Lượng khách truy cập các sàn trung bình khoảng 3,5 triệu lượt mỗi
ngày. Với các chỉ số như trên, dự báo đến năm 2024, quy mô thị trường sẽ đạt tới con số
26,1 tỷ USD.1
Tuy nhiên, mức tăng trưởng, doanh thu cao không hề đồng nghĩa với việc nguồn thu
thuế cũng cao tương ứng. Rất nhiều năm qua, báo chí đã phản ánh về sự thiếu hụt trong


nguồn thu thuế thương mại cụ thể. Ví dụ như trên tờ Tiền Phong cũng đã từng xuất hiện
một bài báo với tựa đề: “Thương mại điện tử: Thất thu hàng trăm tỷ đồng”. 2 Ngun nhân
của sự thất thốt này có thể đến từ nhiều phía, tuy nhiên, một trong những lý do cơ bản
nhất vẫn là do trước đây Việt Nam chưa có những quy định pháp luật phù hợp và hiệu
quả. Đến khi Luật quản lý thuế 2019 và gần đây nhất là Thơng tư số 40/2021/TT-BTC
được ban hành, thì lại làm dấy lên những ý kiến trái chiều, người đồng lòng ủng hộ, kẻ lại
lo lắng phản đối.
Với mục đích tìm hiểu tình hình và đưa ra được những giải pháp thích hợp, bài tiểu
luận đề tài “Một số quy định mới trong Luật quản lý thuế 2019 và Thông tư 40/2021/TTBTC liên quan đến thu thuế trong lĩnh vực thương mại điện tử” xin được tập trung phân
tích, đánh giá các quy định pháp lý liên quan đến việc thu thuế trong ngành thương mại
điện tử chủ yếu được ban hành mới đây trong Luật quản lý thuế 2019 và Thông tư số
40/2021/TT-BTC đồng thời tham khảo quy định của một số nước trên thế giới để có cái
nhìn khách quan và cập nhật nhất.
II.

THỰC TRẠNG

1.

Thương mại điện tử ở Việt Nam

1 />2 />

4

Thương mại điện tử là một lĩnh vực mới và rất rộng. Nhưng có thể bao hàm nó ở
định nghĩa như sau: Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc tồn
bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng
Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác. 3 Ví dụ một số hoạt động
thương mại điện tử có thể kể đến như quảng cáo, khuyến mãi, mua bán, đặt hàng, thanh

toán, giao hàng, dịch vụ hậu mãi, …

Hình 1: Thương mại điện tử là gì? (Nguồn: Internet4)
Các hoạt động này thường được diễn ra ở website thương mại điện tử. Website
thương mại điện tử là trang thông tin điện tử được thiết lập để phục vụ một phần hoặc
tồn bộ quy trình của hoạt động mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ, từ trưng bày
giới thiệu hàng hóa, dịch vụ đến giao kết hợp đồng, cung ứng dịch vụ, thanh toán và dịch
vụ sau bán hàng.5
Điều 25 Nghị định 52/2013/NĐ-CP quy định có 2 loại website thương mại điện tử
như sau: “Website thương mại điện tử bán hàng là website thương mại điện tử do các
thương nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán

3 Khoản 1, Điều 3, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về Thương mại điện tử do Chính phủ ban hành ngày 16/05/2013
4 />5 Khoản 8, Điều 3, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về Thương mại điện tử do Chính phủ ban hành ngày 16/05/2013


5

hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình.”6 Các trang web như:
www.vietnamairlines.com, www.jetstar.com là những website do các hãng bay
Vietnamairlines, Jetstar airlines thành lập với mục đích bán vé máy bay đồng thời cung
cấp các dịch vụ liên quan như check-in, kiểm tra hành trình,… Trong khi đó,
www.bachhoaxanh.com của Cơng ty Cổ phần Thương mại Bách Hóa Xanh cung cấp các
loại hàng hóa thiết yếu, thực phẩm và dịch vụ giao hàng tận nhà. Ngồi ra, có một số loại
website cung cấp các hàng hóa vơ hình, dịch vụ như www.netflix.com là một kho phim
trực tuyến, hay www.google.com cung cấp các giải pháp quảng cáo hữu hiệu Google
Adwords cho các doanh nghiệp, cá nhân trong thời đại số bùng nổ hiện nay.
Bên cạnh website thương mại điện tử bán hàng, Nghị định 52/2013/NĐ-CP còn quy
định thêm về website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử. “Website cung cấp dịch vụ
thương mại điện tử là website thương mại điện tử do thương nhân, tổ chức thiết lập để

cung cấp môi trường cho các thương nhân, tổ chức, cá nhân khác tiến hành hoạt động
thương mại. Website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử bao gồm các loại sau:
a) Sàn giao dịch thương mại điện tử;
b) Website đấu giá trực tuyến;
c) Website khuyến mại trực tuyến;
d) Các loại website khác do Bộ Cơng Thương quy định.”7
Trong đó, sàn giao dịch thương mại điện tử là website thương mại điện tử cho phép
các thương nhân, tổ chức, cá nhân không phải chủ sở hữu website có thể tiến hành một
phần hoặc tồn bộ quy trình mua bán hàng hóa, dịch vụ trên đó. 8
Một trong những dự án Sàn giao dịch Thương mại điện tử đầu tiên ở Việt Nam là
www.vnemart.com.vn do Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam phối hợp với
Ngân hàng Công thương và VDC cùng triển khai và chính thức khai trương vào tháng
04/2013. Dù dự án này chỉ giới hạn cho 36 doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ đăng ký tham
gia, cung cấp thông tin chủ yếu về đồ thủ công mỹ nghệ cùng các dịch vụ như truy cập,
tìm kiếm văn bản pháp luật miễn phí, giúp quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, … đây thực sự
vẫn được xem là một bước khởi đầu rõ rệt cho ngành Thương mại điện tử ở Việt Nam.
Dần dần, càng nhiều sàn Thương mại điện tử và phát triển mạnh mẽ, ví dụ như:
www.sendo.vn, www.chotot.com, www.batdongsan.com.vn. Những trang web này thuần
túy là sàn thương mại điện tử với các thương nhân, tổ chức, cá nhân tham gia không phải
6 Khoản 1, Điều 25, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về Thương mại điện tử do Chính phủ ban hành ngày 16/05/2013
7 Khoản 2, Điều 25, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về Thương mại điện tử do Chính phủ ban hành ngày 16/05/2013
8 Khoản 9, Điều 3, Nghị định số 52/2019/NĐ-CP về Thương mại điện tử do Chính phủ ban hành ngày 16/05/2013


6

là chủ sở hữu website tiến hành hoạt động liên quan đến quy trình mua bán hàng hóa, dịch
vụ. Ngồi ra, còn rất nhiều website, ứng dụng thịnh hành khác ở Việt Nam có sự kết hợp
giữa website thương mại bán hàng và website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, ví dụ:
www.shopee.vn, www.tiki.vn, www.lazada.com (gồm các mặt hàng của chính Shopee –

Nhà sách Smart, Tiki Trading, Lazada và các nhà cung cấp khác), ứng dụng Grab, Gojek,
Now, Baemin (cung cấp dịch vụ vận chuyển hành khách hoặc hàng hóa, đồng thời cũng là
địa điểm bán hàng trực tuyến cho các quán ăn, nhà cung cấp thực phẩm, siêu thị, …), hay
như www.facebook.com (vừa cung cấp giải pháp quảng cáo, vừa hỗ trợ các trang –
fanpage bán hàng). Nhưng đặc biệt, rất nhiều hoạt động Thương mại điện tử, bán hàng
online ở Việt Nam đang được thực hiện trên nền tảng các mạng xã hội vốn khơng có chức
năng cung cấp dịch vụ Thương mại điện tử như bán hàng trên tài khoản cá nhân trên
Facebook, Instagram, Zalo, …
Nói tóm lại, thương mại điện tử ở Việt Nam đang có tốc độ phát triển rất nhanh và
ngày càng có sự cải tiến, bổ sung các chức năng tương tự nhau ở các trang mạng xã hội,
sàn thương mại điện tử khiến việc phân loại các hoạt động thương mại điện tử vào một
loại hình nhất định cũng khó khăn hơn. Ví dụ, theo như báo cáo nghiên cứu của Phịng
Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam (VCCI) thì xu hướng dùng mạng xã hội để quảng
cáo, tiếp thị, phân phối sản phẩm đang có chiều hướng gia tăng. Các tính năng mới liên
tục được cập nhật như livestream trên facebook, instagram, clip quảng cáo trên Tiktok
giúp cho hoạt động quảng cáo sản phẩm ngày càng hiệu quả hơn và biến những nền tảng
mạng xã hội này phần nào đó mang ý nghĩa như là một sàn thương mại điện tử.
Điều này gây ra nhiều khó khăn cho cơ quan thuế trong việc quản lý và thu thuế. Để
khắc phục tình trạng này, trước hết cần tìm hiểu về các quy định pháp lý liên quan đến
việc thu thuế thương mại điện tử ở Việt Nam.
2.

Pháp luật điều chỉnh việc thu thuế thương mại điện tử ở Việt Nam

Trước năm 2000, thương mại điện tử còn là thuật ngữ pháp lý mới. Hệ thống pháp
luật Việt Nam có quy định nhưng chưa thể hiện được bản chất và tầm quan trọng của
thương mại điện tử.9 Trong Báo cáo về Hiện trạng thương mại điện tử ở Việt Nam năm
2003 do Ban Công nghệ thông tin và Thương mại điện tử của Bộ Thương mại phát hành,
lần đầu tiên thương mại điện tử được ví như “Con đường tơ lụa mới”, đồng thời nêu lên
yêu cầu cấp thiết về việc xây dựng một môi trường pháp lý phù hợp để hỗ trợ và phát

9 Lời mở đầu, Báo cáo Hiện trạng ứng dụng Thương mại điện tử ở Việt Nam do Ban Công nghệ thông tin và Thương
mại điện tử thuộc Bộ Thương mại phát hành vào tháng 09/2013


7

triển ngành này. Hay có thể ví von rằng “Cần có luật giao thơng cho mọi người đi trên
Con đường tơ lụa mới”.10
Từ thời điểm đó đến nay, đã có khoảng hơn 80 Luật, Bộ Luật, Nghị định, Thông tư
được ban hành nhằm điều chỉnh các hoạt động liên quan đến lĩnh vực thương mại điện tử.
Dưới đây liệt kê tất cả Luật, Bộ Luật liên quan đến thương mại điện tử và một số Nghị
định, Thông tư liên quan đến lĩnh vực thanh toán, thuế trong Thương mại điện tử.
STT
1
2
3
4
5
6
7

Thời gian ban hành
17/06/2020
17/06/2020
14/06/2019
14/06/2019
13/06/2019
12/06/2018
12/06/2018


8

20/06/2017

9
10

12/06/2017
12/06/2017

11

22/11/2016

12

06/04/2016

13

01/01/2016

14
15

27/11/2015
19/11/2015

16


21/11/2007

17
18
19
20

26/11/2014
26/11/2014
21/06/2012
23/11/2009

21

03/06/2008

22

03/06/2008

Luật
Luật Doanh nghiệp
Luật Đầu tư
Luật Phòng, Chống tác hại của rượu bia
Luật Thi hành án hình sự
Luật Quản lý Thuế
Luật An ninh mạng
Luật Cạnh tranh
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật
hình sự

Luật Quản lý ngoại thương (QLNT)
Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Luật sửa đổi, bổ sung điều 6 và phụ lục về danh
mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
của Luật Đầu tư
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế
giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật
Quản lý thuế
Luật sửa đổi, bổ sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh
mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
của Luật Đầu tư
Bộ Luật Hình sự
Luật An tồn thơng tin mạng (ATTTM)
Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi bổ sung năm
2012, 2014)
Luật Doanh nghiệp
Luật Đầu tư
Luật Quảng cáo
Luật Viễn Thông
Luật Thuế Giá trị gia tăng (đã được sửa đổi, bổ
sung vào năm 2014, 2015, 2016)
Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp (đã được sửa
đổi, bổ sung vào năm 2013)

10 Trang 1, Báo cáo Hiện trạng ứng dụng Thương mại điện tử ở Việt Nam do Ban Công nghệ thông tin và Thương
mại điện tử thuộc Bộ Thương mại phát hành vào tháng 09/2013


8


STT
23
24
25

Thời gian ban hành
29/06/2006
29/11/2005
14/06/2005

Luật
Luật Công nghệ thông tin (CNTT)
Luật Giao dịch điện tử (GDĐT)
Luật Thương mại
Nghị định 47/2020/NĐ-CP về quản lý, kết nối và
26
09/04/2020
chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước
Nghị định 45/2020/NĐ-CP về thực hiện thủ tục
27
08/04/2020
hành chính trên mơi trường điện tử
Nghị định 119/2018/NĐ-CP quy định về hóa đơn
28
12/09/2018
điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ
Nghị định 80/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày
01/07/2016
29

22 tháng 11 năm 2012 của Chính phủ về thanh
tốn khơng dùng tiền mặt
30
16/05/2013
Nghị định 52/2013/NĐ-CP về Thương mại điện tử
Nghị định 101/2012/NĐ-CP về thanh tốn khơng
31
22/11/2012
dùng tiền mặt
Thơng tư 40/2021/TT-BTC về thuế Giá trị gia
32
01/06/2021
tăng, thuế Thu nhập cá nhân với hộ kinh doanh
Thông tư số 59/2015/TT-BCT quy định về quản lý
hoạt động thương mại điện tử qua ứng dụng trên
33
31/12/2015
thiết bị di động sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư
21/2018/TT-BCT ngày 20/08/2018
Thông tư 92/2015/TT-BTC hướng dẫn thực hiện
34
15/06/2015
thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân đối
với cá nhân có hoạt động kinh doanh
Thông tư 47/2014/TT-BCT quy định về quản lý
35
05/12/2014
website thương mại điện tử sửa đổi, bổ sung bởi
Thông tư 21/2018/TT-BCT ngày 20/08/2018
Thông tư 46/2014/TT-NHNN hướng dẫn về dịch

36
31/12/2014
vụ thanh tốn khơng dùng tiền mặt
Bảng 1: Một số Luật, Bộ Luật, Nghị định và Thông tư điều chỉnh các lĩnh vực liên quan
đến Thương mại điện tử11
Tóm lại, theo thơng tin được đăng tải trên website của Tổng cục Thuế 12 thì trước khi
có các quy định mới trong Luật quản lý thuế 2019 và Thông tư số 40/2021/TT-BTC, các
loại thuế liên quan đến giao dịch thương mại điện tử được quy định như sau:
Thuế giá trị gia tăng: Các hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và
tiêu dùng tại Việt Nam là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng; Tổ chức, cá nhân sản xuất,
11 Phụ lục 1, Báo cáo Thương mại điện tử năm 2020 do Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số thuộc Bộ Công
thương phát hành năm 2020
12 />

9

kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hóa chịu
thuế (gọi chung là người nhập khẩu) là đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng (theo Điều 3 và
Điều 4 Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2014,
2015 và 2016) và các văn bản hướng dẫn). Do đó, các hàng hóa hữu hình, hay các loại
dịch vụ sử dụng tại Việt Nam mà được mua, bán thơng qua loại hình thương mại điện tử
từ các trang mạng điện tử dù đặt tại Việt Nam hay tại các quốc gia khác thì người bán đều
phải kê khai và nộp thuế giá trị gia tăng theo quy định.
Thuế thu nhập doanh nghiệp: Các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ có thu nhập đều phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều
2 và Điều 3 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008. Cụ thể: Doanh nghiệp Việt Nam
phải nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế
phát sinh ngoài Việt Nam; doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam
phải nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam có hoặc khơng liên quan
đến hoạt động của cơ sở thường trú đó và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam

liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú đó; doanh nghiệp nước ngồi khơng có cơ
sở thường trú tại Việt Nam vẫn phải nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt
Nam.
Để tạo thuận lợi cho hoạt động khai, nộp thuế cũng như phù hợp với thông lệ quốc
tế, đối với trường hợp doanh nghiệp nước ngồi có hoạt động kinh doanh phát sinh thu
nhập tại Việt Nam nhưng không thành lập pháp nhân, khơng thực hiện chế độ kế tốn,
chứng từ theo pháp luật của Việt Nam thực hiện việc xác định số thuế phải nộp (thuế giá
trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp) theo tỷ lệ %/doanh thu và tổ chức Việt Nam có
trách nhiệm khấu trừ tiền thuế của doanh nghiệp nước ngoài từ số tiền chi trả cho doanh
nghiệp nước ngoài và nộp số tiền thuế này vào ngân sách nhà nước.
Thuế thu nhập cá nhân: Theo quy định tại Điều 2 và Điều 3 Luật thuế thu nhập cá
nhân năm 2007 (được sửa đổi, bổ sung các năm 2012 và 2014), đối tượng nộp thuế thu
nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập thuộc diện chịu thuế quy định phát sinh trong
và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập thuộc diện chịu thuế phát
sinh trong lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, cá nhân công dân Việt Nam hay cá nhân nước
ngoài phát sinh thu nhập từ các giao dịch thương mại tại Việt Nam và tại các trang mạng
của Việt Nam cũng như các trang mạng quốc tế đều phải kê khai và nộp thuế thu nhập cá
nhân.


10

Các chủ thể nước ngoài kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam: Luật Quản lý thuế
năm 2007 (được sửa đổi, bổ sung các năm 2012, 2014 và 2016) quy định các chủ thể kinh
doanh trên lãnh thổ Việt Nam đều phải đăng ký, khai thuế trước khi bắt đầu tiến hành các
hoạt động kinh doanh. Trường hợp doanh nghiệp nước ngồi khơng có cơ sở thường trú
tại Việt Nam hoặc cá nhân nước ngồi khơng cư trú tại Việt Nam cung cấp dịch vụ, hàng
hố có kèm theo dịch vụ vào Việt Nam cho tổ chức, cá nhân trong nước thì tổ chức, cá
nhân trong nước sẽ phải khấu trừ tiền thuế của doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài và khai,
nộp số tiền thuế này.

Trường hợp tổ chức, cá nhân trong nước không khấu trừ tiền thuế của tổ chức, cá
nhân nước ngồi thì tổ chức, cá nhân trong nước phải chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
thuế của tổ chức, cá nhân nước ngoài.
3.

Thực trạng thu thuế thương mại điện tử tại Việt Nam

Nhìn chung Hệ thống luật pháp liên quan đến quản lý thuế đối với lĩnh vực thương
mại điện tử của Việt Nam trước khi ban hành Luật quản lý thuế 2019 và Thông tư số
40/2021/TT-BTC đã được quy định khá đầy đủ. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề
như sau:
Phần lớn các tổ chức, cá nhân kinh doanh thương mại điện tử tại Việt Nam không
tiến hành đăng ký kinh doanh nên cơ quan nhà nước khó theo dõi, quản lý, xác định đối
tượng. Đặc biệt là đối với loại hình quảng cáo trực tuyến, bán hàng qua mạng xã hội (như
thông qua Google, Facebook, Zalo...). Trong đó, các hành vi mà doanh nghiệp vi phạm
thường là không kê khai hoặc kê khai sai doanh thu thuế giá trị gia tăng; Không kê khai
thuế nhà thầu đối với dịch vụ của một số công ty đa quốc gia có phát sinh dịch vụ ở Việt
Nam. Cịn trong trường hợp của Netflix, tuy có doanh thu khủng (43 triệu USD) trong
năm 2020 ở Việt Nam, Netflix vẫn chưa đóng tiền thuế, đồng thời lên tiếng rằng họ sẵn
sàng đóng thuế nhưng hiện Việt Nam chưa có cơ chế thích hợp để Netflix thực hiện nghĩa
vụ của mình.13
Ngồi ra, hoạt động bán hàng trực tuyến qua mạng xã hội của các tổ chức, cá nhân
hiện nay đang bùng phát nhanh chóng, trong khi cơ quan quản lý lại thiếu chế tài để tiến
hành thu thuế kinh doanh khi phát sinh giao dịch buôn bán.
13 Netflix says ready to pay tax in Vietnam: />

11

Nhiều tổ chức, cá nhân kinh doanh sử dụng tài khoản cá nhân để thanh tốn các
khoản phí dịch vụ nước ngồi khơng kê khai doanh thu tính thuế. Trong đó, một bộ phận

khá lớn các tổ chức, cá nhân sử dụng website để quảng bá sản phẩm, hàng hóa, bán trực
tiếp cho người tiêu dùng là cá nhân không xuất hóa đơn bán hàng, khơng kê khai doanh
thu tính thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, để quản lý và thu thuế đối với các tổ chức, cá nhân
kinh doanh thương mại điện tử trên các trang web, Facebook, … cơ quan thuế phải thực
hiện rà soát tới 14.951 trang web và phát hiện được 1.092 chủ trang web thuộc đối tượng
chịu thuế. Tuy nhiên, trong số đó, chỉ có 56 cá nhân tự giác kê khai với số thuế khai bổ
sung và tiền chậm nộp là 1,83 tỷ đồng.14
Ngoài ra, cịn có tình trạng một số hoạt động thương mại điện tử chưa có trong danh
mục ngành nghề kinh doanh (ví dụ như kinh doanh thẻ Google Play Card), hơn nữa cịn
có hoạt động thương mại điện tử đang trong tình trạng tranh cãi thuộc vào loại hình kinh
doanh nào, dẫn đến khó khăn trong việc xác định bản chất, loại hình để đánh thuế hoạt
động kinh doanh, trong khi tùy theo loại hình hoạt động mà cơ quan quản lý thuế áp dụng
các mức thuế khác nhau.
Thực tế cho thấy, đã xuất hiện nhiều cá nhân thực hiện các giao dịch mua bán tiền
“ảo”, chuyển nhượng các vật phẩm “ảo” trong game hay cho thuê ứng dụng để đặt quảng
cáo trực tuyến có doanh thu lên đến hàng chục tỷ đồng, thậm chí hàng trăm tỷ đồng
nhưng khơng kê khai, nộp thuế đầy đủ.
Vấn đề xác định doanh thu, thu nhập của các đối tượng kinh doanh thương mại điện
tử cũng gặp khó khăn. Hiện nay, cơng tác quản lý thương mại điện tử chưa có các cơng cụ
để kiểm sốt, theo dõi lượng hàng hóa cũng như doanh thu phát sinh từ các hoạt động này.
Việc xác định doanh thu chủ yếu dựa trên hóa đơn bán hàng và nội dung giao dịch
thanh toán. Nhưng nhiều đối tượng kinh doanh thương mại điện tử khi cung cấp hàng hóa,
dịch vụ khơng xuất hóa đơn hoặc xuất hóa đơn khơng đúng thực tế; Thực hiện phương
thức thanh tốn bằng tiền mặt là chủ yếu, hoặc nếu thanh toán qua ngân hàng thì sử dụng
các tài khoản ngân hàng không đăng ký với cơ quan Thuế. Một số chi cục thuế thì cho biết
khi mời các hộ kinh doanh có bán hàng qua mạng lên kê khai thì các hộ đều nói doanh thu
14 />

12


khốn thuế đã bao gồm ln cả doanh thu bán hàng online rồi nên không chấp nhận kê khai
thêm.
Trong khi đó, pháp luật cũng chưa có quy định về trách nhiệm của ngân hàng trong
việc cung cấp thông tin giao dịch thanh toán thương mại điện tử, trách nhiệm của các đơn
vị cho thuê máy chủ về cung cấp thông tin các doanh nghiệp vận hành các trang mạng có
hoạt động kinh doanh thương mại điện tử..., nên cơ quan Thuế cịn gặp khó khăn trong
quản lý kê khai, xác định doanh thu của các đối tượng kinh doanh thương mại điện tử.
Ngồi ra, thương mại điện tử cịn có những tính chất đặc thù như quy mơ hoạt động
rộng trên mơi trường internet có tính phi biên giới, dễ dàng thay đổi, che dấu hoặc xóa dữ
liệu giao dịch. Vì vậy, vấn đề quản lý thu thuế là khá khó khăn đối với các giao dịch
thương mại điện tử xuyên biên giới ví dụ như trường hợp cung cấp dịch vụ đặt phòng trực
tuyến, dịch vụ du lịch đăng ký trực tuyến. Trong các trường hợp này, khách hàng sử dụng
dịch vụ thường trả tiền trực tiếp cho doanh nghiệp ở nước ngồi, sau đó doanh nghiệp
nước ngồi này lại chuyển tiền phòng cho khách sạn, cơ sở lưu trú... nên khó xác định
giao dịch cũng như doanh thu của doanh nghiệp nước ngồi để tính, khấu trừ tiền thuế.
Theo bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội tư vấn Thuế Việt Nam, hiện thuế thương mại
điện tử chưa được quản lý tốt mà lý do là cơ quan chức năng chưa quản lý được luồng tiền
và không nắm chắc được giao dịch ngân hàng. “Hiện tại cơ quan thuế còn thiếu nhiều cơ
sở dữ liệu để xác định doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh, thu nhập chịu thuế của
người nộp thuế. Đặc biệt, cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý thuế đối với thương mại,
giao dịch điện tử... chưa được quy định một cách toàn diện”, bà Cúc cho biết.
Mặc dù, chưa có số liệu thống kê đầy đủ nhưng chắc chắn nếu tình trạng này kéo
dài, ngân sách nhà nước thất thu là không nhỏ, nhất là trong hoàn cảnh khi sự phối hợp
giữa ngành Thuế với các bộ, ngành liên quan để tăng cường hiệu quả quản lý thu ngân
sách nhà nước đối với hoạt động thương mại điện tử vẫn còn nhiều hạn chế.15
4.

Các quy định mới theo Luật quản lý thuế 2019 và Thơng tư 40/2021/TT-BTC


Để phần nào khắc phục tình trạng này, Luật quản lý thuế 2019 và Thông tư
40/2021/TT-BTC đã đưa ra một số quy định mới. Dưới đây là một số quy phạm pháp luật
15 />

13

chính quy định các vấn đề liên quan đến việc thu thuế Thương mại điện tử được trích ra từ
hai văn bản trên:
Đối với việc thu thuế các nhà cung cấp nước ngồi, hoặc cá nhân, tổ chức có hoạt
động xuyên biên giới:
“ Đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng
số và các dịch vụ khác được thực hiện bởi nhà cung cấp ở nước ngồi khơng có cơ sở
thường trú tại Việt Nam thì nhà cung cấp ở nước ngồi có nghĩa vụ trực tiếp hoặc ủy
quyền thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế tại Việt Nam theo quy định của Bộ
trưởng Bộ Tài chính.”16
“Tổ chức tại Việt Nam là đối tác của nhà cung cấp nền tảng số ở nước ngồi (khơng
có cơ sở thường trú tại Việt Nam) thực hiện chi trả thu nhập từ sản phẩm, dịch vụ nội
dung thông tin số cho cá nhân theo thỏa thuận với nhà cung cấp nền tảng số ở nước
ngoài.”17
“Khi bên Việt Nam chi trả tiền cho tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh xuyên
biên giới dựa trên nền tảng trung gian kỹ thuật số không hiện diện tại Việt Nam thì phải
sử dụng mã số thuế đã cấp cho tổ chức, cá nhân này để khấu trừ, nộp thay.”18
“Ngân hàng thương mại có nghĩa vụ: Khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp
theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân nước ngồi có hoạt động kinh
doanh thương mại điện tử có phát sinh thu nhập từ Việt Nam.”19
Liên quan đến việc thu thuế các cá nhân kinh doanh Thương mại điện tử trên các sàn
Thương mại điện tử:
“Cung cấp thông tin về số hiệu tài khoản theo mã số thuế của người nộp thuế khi
mở tài khoản.”20
“Tổ chức là chủ sở hữu sàn giao dịch thương mại điện tử thực hiện việc khai thuế

thay, nộp thuế thay cho cá nhân theo lộ trình của cơ quan thuế. Trong thời gian chưa thực
16 Khoản 4, Điều 42, Luật Quản lý thuế 2019
17 Điểm d, Khoản 1, Điều 8, Thông tư 40/2021/TT-BTC ngày 01/06/2021
18 Khoản 6, Điều 35, Luật Quản lý thuế 2019
19 Khoản 3, Điều 27, Luật Quản lý thuế 2019
20 Khoản 2, Điều 27, Luật Quản lý thuế năm 2019


14

hiện được việc khai thuế thay, nộp thuế thay cho cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu sàn giao
dịch thương mại điện tử phải có trách nhiệm cung cấp các thông tin liên quan đến hoạt
động kinh doanh của cá nhân thông qua sàn theo yêu cầu của cơ quan thuế theo quy định
của pháp luật như: họ tên; số định danh cá nhân hoặc chứng minh nhân dân hoặc căn
cước công dân hoặc hộ chiếu; mã số thuế; địa chỉ; email; số điện thoại liên lạc; hàng
hóa, dịch vụ cung cấp; doanh thu kinh doanh; tài khoản ngân hàng của người bán; thông
tin khác liên quan.”21
Luật Quản lý thuế 2019 cũng có những quy định cho các cơ quan ban ngành có liên
quan trong việc quản lý thuế đối với các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh thương mại
điện tử. Theo đó, Bộ cơng thương phải chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan chức năng trong
việc kết nối, cung cấp thông tin liên quan để phối hợp với Bộ Tài chính trong quản lý thuế
đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại điện tử. Ngân hàng nhà nước Việt
Nam có trách nhiệm xây dựng và phát triển hệ thống thanh toán thương mại điện tử quốc
gia, các tiện ích tích hợp thanh tốn điện tử để sử dụng rộng rãi cho các mơ hình thương
mại điện tử, đồng thời thiết lập cơ chế quản lý, giám sát các giao dịch thanh tốn hỗ trợ
cơng tác quản lý thuế đối với hoạt động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới trong thương
mại điện tử. Các ngân hàng thương mại có trách nhiệm khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế
phải nộp theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngồi có hoạt động
kinh doanh thương mại điện tử có phát sinh thu nhập từ Việt Nam…
III. PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ QUY ĐỊNH MỚI TRONG LUẬT QUẢN

LÝ THUẾ 2019 VÀ THÔNG TƯ 40/2021/TT-BTC
1.

Quy định ngân hàng thương mại khấu trừ và nộp thuế thay cho cá nhân, tổ
chức nước ngoài có doanh thu thương mại điện tử ở Việt Nam

1.1. Đánh giá quy định
Trước khi có quy định tại Luật Quản lý thuế 2019 thì thương nhân, tổ chức nước
ngồi có hoạt động Thương mại điện tử tại Việt Nam nhưng khơng có trụ sở phải nộp thuế
theo quy định về thuế nhà thầu. Hình thức thực hiện là thơng qua hợp đồng giữa thương
nhân, tổ chức đó và cá nhân, tổ chức sử dụng dịch vụ của thương nhân, tổ chức đó ở Việt
Nam. Chi tiết cụ thể về thuế nhà thầu được quy định tại Thông tư 103/2014/TT-BTC
21 Điểm đ, Khoản 1, Điều 8, Thông tư 40/2021/TT-BTC ngày 01/06/2021


15

hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh
doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam. Nhưng căn bản, cá nhân, tổ chức nước
ngồi có hoạt động kinh doanh, thu nhập tại Việt Nam mà khơng có trụ sở vẫn phải chịu
các loại thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp (đối với tổ chức kinh doanh),
hoặc thuế thu nhập cá nhân (đối với cá nhân kinh doanh), các loại thuế, phí và lệ phí khác
nếu có. Bên Việt Nam sẽ là bên thực hiện trả thuế thay cho bên nước ngoài.
Quy định này khá rõ ràng, nhưng trên thực tế thì kết quả lại chưa đạt như mong đợi.
Bởi lẽ việc trả thuế nhà thầu thay cho các hoạt động thương mại điện tử của nhà cung cấp
dịch vụ nước ngoài thường chỉ được thực hiện bởi những doanh nghiệp, những tổ chức
phải kê khai rõ các khoản thu chi. Còn riêng đối với các cá nhân sử dụng bình thường, ví
dụ như hàng ngàn tài khoản mua nhạc trên iTunes, Spotify hay xem phim trên Netflix,
hầu hết đều không đủ nhận thức, hoặc khả năng để có thể nộp thuế thay cho đơn vị cung
cấp dịch vụ. Và nếu có bắt buộc từng cá nhân này phải nộp thuế, thì thật sự số tiền phải

đóng cho mỗi tài khoản chắc chắn sẽ rất ít (ví dụ như một tài khoản sử dụng hàng tháng
trên Netflix chỉ từ 180.000VND – 220.000VND), điều này gây nên sự bất tiện cho cả
người đóng thuế và người thu thuế. Trong khi đó, cơ quan thuế cũng khơng thể nắm được
thông tin về các thuê bao này, đồng thời chưa có quy định pháp luật để thu thuế một cách
hiệu quả hơn.
Đến khi Luật Quản lý thuế 2019 được ban hành thì đã có thêm quy định về ngun
tắc khai thuế, tính thuế riêng đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử. Theo đó,
nhà cung cấp ở nước ngồi có nghĩa vụ trực tiếp hoặc ủy quyền thực hiện đăng ký thuế,
khai thuế, nộp thuế tại Việt Nam khi thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại điện
tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác.
Khi chi trả tiền cho tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh xuyên biên giới dựa
trên nền tảng trung gian kỹ thuật số không hiện diện tại Việt Nam thì bên Việt Nam phải
sử dụng mã số thuế đã cấp cho tổ chức, cá nhân này để khấu trừ, nộp thay.
Trong trường hợp cá nhân, tổ chức nước ngoài chưa đăng ký thuế ở Việt Nam mà
phát sinh doanh thu tại đây thì ngân hàng thương mại sẽ phải khấu trừ trên khoản thanh
toán từ Việt Nam đến tài khoản của bên nước ngoài này và nộp thay nghĩa vụ thuế cho các
cá nhân, tổ chức đó. Quy định này hiện vẫn đang gây nên khá nhiều ý kiến trái chiều.
Trả lời báo Tuổi Trẻ, một lãnh đạo Tổng cục Thuế cho hay cơ quan thuế mong muốn
và khuyến khích các trang thương mại điện tử nước ngoài tự giác kê khai và nộp thuế, nếu


16

khơng trực tiếp nộp có thể ủy quyền cho các đại lý thuế, tổ chức thuế ở Việt Nam làm
thay (Khoản 4, Điều 42, Luật Quản lý thuế 2019). "Buộc Ngân hàng phải khấu trừ và nộp
thay tiền thuế là biện pháp bất đắc dĩ, cuối cùng rồi", vị này nói. 22 Để có thể thực hiện
khấu trừ thì Ngân hàng phải dựa trên danh sách những website nước ngoài có hoạt động ở
Việt Nam nhưng chưa đăng ký với cơ quan thuế do cơ quan thuế cung cấp để xác định tài
khoản của các website này. Mỗi khi có yêu cầu chuyển tiền từ cá nhân, tổ chức trong
nước cho các website này, ngân hàng sẽ tự khấu trừ, nộp thuế thay và thanh tốn số tiền

cịn lại cho website nước ngồi. Trường hợp thanh tốn bằng visa, internet banking mà
ngân hàng khơng thể khấu trừ được thì ngân hàng ghi nhận lại giao dịch đó và tổng hợp,
báo cáo lại cho cơ quan thuế vào ngày 10 hàng tháng.
Thực tế quy định này vẫn đang gây nên những ý kiến trái chiều như sau:
Phù hợp thông lệ quốc tế: Đối với Vietcombank, ngân hàng này cho rằng đây là
thông lệ đang được nhiều ngân hàng trên thế giới thực hiện, và ngân hàng cũng hoàn toàn
muốn hỗ trợ quy định của nhà nước. Chỉ có vướng mắc do nhiều trang thương mại điện tử
không đăng ký tại Việt Nam nên ngân hàng có thể sẽ gặp khó khăn trong việc xác định tài
khoản của họ trước khi thực hiện khấu trừ thuế.
Gánh nặng chi phí, nhân lực: Nhưng một số ngân hàng khác thì lại tỏ ra rất lo ngại
trước quy định này, bởi việc theo dõi các giao dịch ra nước ngoài hàng tháng, xác định
giao dịch nào là giao dịch thương mại điện tử cần phải khấu trừ thuế và thực hiện nộp
thuế thay không hề đơn giản, và cần thêm rất nhiều nhân lực để phụ trách. Trong khi
nguồn lực của ngân hàng thì lại có hạn. Trước đây, việc ngân hàng thu hộ thuế, phí cho
ngân sách nhà nước diễn ra khá đơn giản vì ngân hàng đã nhận được thơng báo từ cơ quan
thuế với rõ số tiền, nội dung thu gì, từ cá nhân, tổ chức nào … khá rõ ràng chứ khơng phải
tự theo dõi và tính tốn như quy định này. Về bản chất, có thể xem như ngân hàng đang
thực hiện nhiệm vụ thu thuế thay cho cơ quan thuế, nên đề nghị cần phải trả phí cho ngân
hàng để trang trải các chi phí liên quan. "Trừ những NH có vốn nhà nước, các NH thương
mại cổ phần, tổ chức trung gian thanh toán tư nhân, chi nhánh NH nước ngồi ở Việt Nam
chắc chắn sẽ khơng thấy cơng bằng khi khơng được hưởng lợi gì từ việc này. Trách nhiệm
cần phải đi đôi với quyền lợi" – lãnh đạo một ngân hàng thương mại ở Hà Nội cho biết. 23
Đánh thuế hai lần: Thêm nữa, có lo ngại rằng việc đánh thuế này có nguy cơ vi
phạm những Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Việt Nam đang tham gia. Tính đến
22 />23 />

17

tháng 2020 thì Việt Nam đã ký kết tổng cộng 80 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với các
quốc gia khác trên thế giới. Nhưng có thể yên tâm bởi về, theo luật Việt Nam thì Hiệp

định tránh đánh thuế hai lần chỉ áp dụng cho đối tượng cư trú (cá nhân có mặt tại Việt
Nam từ 183 ngày trở lên, hoặc 12 tháng liên tục từ ngày đầu tiên có mặt ở Việt Nam, tổ
chức được thành lập, đăng ký hoạt động, hoặc có trụ sở tại Việt Nam, …). Hay nói cách
khác, đối tượng chịu thuế là cá nhân, tổ chức kinh doanh nước ngồi khơng có trụ sở ở
Việt Nam không được điều chỉnh bởi các Hiệp định này.
Chưa có hướng dẫn thực hiện cụ thể: Đi sâu vào chi tiết thực hiện việc khấu trừ
thuế, lại xuất hiện thêm những thắc mắc như: việc thanh tốn cho các cá nhân, tổ chức
nước ngồi bằng ngoại tệ, thì khi tính thuế, ngân hàng có được tính thuế ngay trên chính
số tiền bằng ngoại tệ đó khơng? Nếu khơng thì phải sử dụng tỷ giá nào để quy đổi ra số
tiền Việt Nam đồng? Bên cạnh đó, các hoạt động thanh toán qua ngân hàng hiện nay có
rất nhiều hình thức khác nhau như thanh tốn trực tiếp qua internet banking, qua quầy
thanh toán của ngân hàng. Những trường hợp này do ngân hàng đã nhận được tiền ngay
thời điểm thanh tốn, nên có thể khấu trừ và nộp thuế được ngay. Nhưng đối với trường
hợp thanh tốn bằng thẻ tín dụng cá nhân thì lại đặt ra thêm vấn đề khó thu thuế được
ngay.
Ai là người thật sự chịu thuế? Bản chất của thuế nhà thầu là do bên nước ngồi
chịu. Số tiền thuế được tính dựa trên thu nhập chịu thuế. Thông thường, giá bán của các
nhà cung cấp thương mại điện tử như Google, Netflix cho khách hàng đã là giá cuối cùng
sau khi tính thuế. Vậy khi ngân hàng thực hiện khấu trừ thuế trên giá cuối cùng này, và trả
khoản còn lại cho nhà cung cấp là hợp lý. Tuy nhiên, đối với những trường hợp không
khấu trừ được mà phải tổng hợp danh sách và gửi lại cho cơ quan thuế để truy đòi, nếu cơ
quan thuế thu thuế lại từ các khách hàng này, thì lại thành ra là thu thuế hai lần. Như đã đề
cập ở mục trước, ngay từ Luật quản lý thuế 2007 (bổ sung sửa đổi vào 2012, 2014 và
2016) đã có quy định rằng “Trường hợp tổ chức, cá nhân trong nước không khấu trừ tiền
thuế của tổ chức, cá nhân nước ngồi thì tổ chức, cá nhân trong nước phải chịu trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế của tổ chức, cá nhân nước ngoài”. Như vậy, việc khách
hàng phải chịu trách nhiệm đóng thuế cho bên nước ngồi trường hợp bên nước ngồi
khơng thực hiện nghĩa vụ này đã có từ lâu. Nhưng vấn đề ở chỗ, các cá nhân sử dụng dịch
vụ nhỏ lẻ, khơng chun có thể sẽ gặp khó khăn trong việc kê khai và trả thuế thay cho
nhà cung cấp. Điều này khiến họ rơi vào thế bị động, vì đơi lúc “lực bất tịng tâm”, muốn

nộp thuế thay cho nhà cung cấp, nhưng quy trình khó khăn phức tạp. Điều này gây ảnh
hưởng rất lớn đến quyền lợi của khách hàng.


18

1.2. Một số quy định liên quan trên thế giới
Trước rất nhiều khó khăn và thắc mắc như trên, hi vọng Tổng cục Thuế sẽ sớm có
hướng dẫn cụ thể để việc thu thuế được thuận lợi và giảm áp lực nhất có thể cho ngân
hàng. Trong khi đó, hãy cùng điểm qua một số chính sách liên quan ở một số quốc gia
trên thế giới:
EU: từ trước, EU vẫn luôn quy định thuế giá trị gia tăng cho tất cả các hàng hóa từ
các nước trên thế giới được đưa vào EU để bán cho người tiêu dùng cuối cùng tại đây.
Tuy nhiên, vẫn có ngoại lệ cho những hàng hóa có giá trị dưới 22 EURO được mua qua
hoạt động thương mại điện tử từ một nước ngoài EU. Điều này gây nên việc thất thu thuế,
đồng thời làm cho hàng hóa của EU mất đi tính cạnh tranh so với hàng hóa nhập khẩu,
đặc biệt là hàng hóa nhập khẩu giá rất rẻ từ Trung Quốc do không phải chịu thuế nhập
khẩu. Tuy nhiên, quy định này đã được thay đổi kể từ ngày 01/07/2021 thông qua
Directive 2017/2455 và Directive 2019/1995 liên quan đến thuế giá trị gia tăng. Theo đó,
quy định miễn thuế giá trị gia tăng cho hàng hóa khi nhập khẩu giá trị dưới 22 EURO
được bãi bỏ, thay thế bằng quy định miễn thuế giá trị gia tăng cho kiện hàng (gồm nhiều
hàng hóa cùng loại) có giá trị dưới 150 EURO khi nhập khẩu, nếu nhà cung cấp nước
ngồi có đăng ký hệ thống IOSS (Import One-stop Shop – tạm dịch: nhập khẩu một cửa).
Nên giá niêm yết trên trang thương mại điện tử đối với nhà cung cấp đã đăng ký IOSS là
giá cuối cùng. Nếu không đăng ký IOSS, thuế giá trị gia tăng vẫn sẽ được tính cho các
loại hàng hóa này theo một phương pháp đơn giản và cộng thêm vào phần giá bán cuối
cùng cho khách hàng. Các nhà cung cấp nước ngồi có doanh thu hàng năm từ 35.000 –
100.000 EURO (tùy theo quy định của từng thành viên trong EU) phải tiến hành đăng ký
IOSS và chỉ định đối tác của mình tại EU kê khai và nộp thuế thay. Bởi nếu khơng làm
vậy, thì giá bán cho khách hàng cuối cùng sẽ bằng giá niêm yết cộng thêm các chi phí

thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và quy trách nhiệm cho khách hàng thanh toán.
Khách hàng khi nhận thấy giá tăng quá nhiều so với giá niêm yết có thể từ chối nhận
hàng, gây nên tổn thất lớn cho nhà bán hàng. Có thể nói, tuy quy định này gây khó khăn
cho nhà cung cấp nước ngoài và cả khách hàng EU, nhưng nó giúp giải quyết được vấn đề
bất bình đẳng trong việc thu thuế, phí thương mại điện tử hiện nay.
Thái Lan: Từ ngày 01/09/2021, tất cả các hoạt động kinh doanh thương mại điện tử
từ nước ngoài sẽ bị thu thuế giá trị gia tăng 7%. Đây được gọi chung là thuế e-service, bởi
lẽ loại thuế này được áp dụng cho các dịch vụ điện tử như:
- Đặt phòng khách sạn online
- Đăng ký tài khoản xem phim, nghe nhạc, đọc sách online


19
-

Game online
Quảng cáo online
Tải sticker


Dự kiến những nền tảng thương mại điện tử phổ biến có hoạt động ở Thái Lan đều
sẽ bị ảnh hưởng bởi quy định này, ví dụ: Apple, Google, Facebook, Netflix, Line, … Đối
tượng có trách nhiệm nộp thuế bao gồm 2 loại:
Đối tác trong nước cung cấp dịch vụ thương mại điện tử thay cho các trang
thương mại điện tử nước ngoài, cung cấp đến các khách hàng Thái Lan không
đăng ký thông tin thuế VAT.
Các nền tảng thương mại điện tử nước ngoài cung cấp dịch vụ thương mại điện
tử đến các khách hàng Thái Lan không đăng ký thông tin thuế VAT.
Tất cả các nhà cung cấp dịch vụ thương mại điện tử rơi vào một trong hai trường
hợp trên đều bắt buộc phải đăng ký thông tin nộp thuế VAT với cơ quan chức năng. Đặc

biệt, việc nộp thuế này được thực hiện theo cơ chế “pay-only”, các nhà cung cấp dịch vụ
khơng được phép phát hành hóa đơn thuế cho các dịch vụ này và không được cấn trừ thuế
VAT đã trả với các khoản chi phí khác. Để hỗ trợ tốt nhất cho người nộp thuế, chính phủ
Thái Lan cho phép nộp thuế theo hình thức online qua hệ thống nộp thuế giá trị gia tăng
cho các dịch vụ thương mại điện tử do chính phủ Thái Lan cung cấp (VAT System for Eservice – SVE).24
2.

Quy định sàn thương mại điện tử nộp thuế giá trị gia tăng thay cho cá nhân
kinh doanh trên sàn

2.1. Đánh giá quy định
Theo quy định tại Thơng tư 40/2021/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 01/08/2021, cá
nhân kinh doanh có thu nhập lớn hơn 100 triệu đồng sẽ phải chịu thuế giá trị gia tăng là
1%. Nhưng cá nhân kinh doanh không phải thực hiện thủ tục kê khai, nộp thuế mà chính
các sàn thương mại điện tử nơi các cá nhân này tham gia kinh doanh sẽ phải tổng hợp
doanh thu của họ từ nhiều phương cách giao hàng như thanh toán khi nhận hàng, thanh
tốn trước qua ví điện tử, thanh tốn trước qua thẻ ngân hàng, thẻ visa, internet banking,
… kê khai và nộp thuế thay cho các cá nhân này. Trong thời gian chưa có lộ trình kê khai
thuế thay cụ thể, thì sàn thương mại điện tử cũng phải có trách nhiệm cung cấp một số
thông tin liên quan đến người bán cho cơ quan thuế. Bên cạnh đó, theo quy định tại
24 />

20

Thông tư, cá nhân kinh doanh trên sàn thương mại điện tử phải có địa điểm kinh doanh cố
định, đăng ký thuế tại nơi có địa điểm kinh doanh để được cấp mã số thuế. Cơ quan thuế
cho rằng việc này là cần thiết để xác định thu nhập của cá nhân và sẽ có hướng dẫn Thơng
tư cụ thể để khơng xảy ra tình trạng trùng lắp trong việc thu thuế. Quy định như trên nhận
được nhiều ý kiến đánh giá cả tích cực lẫn tiêu cực.
Phù hợp với đề xuất của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD: Tại Hội

nghị Ottawa vào tháng 10/1998, chủ đề “Một thế giới không biên giới – hiện thực hóa
tiềm năng thương mại điện tử”, vấn đề quản lý thuế trong lĩnh vực thương mại điện tử đã
được Ủy ban Tài chính của OECD đưa ra thảo luận. Trong đó, khung quản lý thuế được
đưa ra gồm 3 điểm chính:
-

Cơ quan Thuế tận dụng các cơng nghệ hiện có và kiểm soát sự phát triển của
thương mại trong hệ thống quản lý hành chính của mình để phục vụ người nộp
thuế.

-

Cơ quan Thuế duy trì khả năng của mình để đảm bảo tiếp cận các thông tin đáng
tin cậy và có thể xác minh được để xác định được người nộp thuế và có được các
thơng tin cần thiết để quản lý hệ thống thuế.

-

Các quốc gia đảm bảo rằng có được các hệ thống thích hợp để kiểm soát và thu
thuế.25

Tới tháng 03/2019, tại phiên họp thứ 5 của Diễn đàn Toàn cầu về thuế giá trị gia
tăng, OECD đã trình bày những quan điểm, đánh giá về vai trò của các nền tảng điện tử
trong việc thu thuế giá trị gia tăng trong hoạt động kinh doanh thương mại điện tử. Trong
đó có đề xuất về việc giao cho các sàn thương mại điện tử trách nhiệm kê khai và nộp
thuế thay cho nhà bán hàng trên sàn. Cơ chế này được gọi là “full VAT/GST liability
regime”. Dưới cơ chế này, sàn thương mại điện tử sẽ được luật pháp xem như là đã nhận
hàng từ nhà cung cấp trên sàn và trở thành nhà cung cấp trực tiếp cho khách hàng (trong
khi giao dịch thực tế là giữa nhà cung cấp trên sàn và khách hàng, sàn thương mại điện tử
ở vị trí trung gian cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và thanh toán cho 2 bên). 26 Nếu

25 />26 OECD (2019), The Role of Digital Platforms in the Collection of VAT/GST on Online Sales, OECD, Paris.
www.oecd.org/tax/consumption/the-role-of-digital-platforms-in-the-collection-of-vat-gst-on-online-sales.pdf


21

điều này được thực hiện tốt, có các quy định điều chỉnh các vấn đề liên quan một cách
phù hợp sẽ giúp tạo ra được nhiều lợi ích như:
Tránh thất thu thuế: Phải khẳng định rằng, quy định mạnh tay như vậy nhận được
ủng hộ từ khơng ít chun gia, luật sư. Bởi lẽ, đây sẽ là công cụ hữu hiệu để chặn thất thu
thuế trong bối cảnh ngành thuế ngày càng bỏ lọt nhiều trường hợp thu nhập "khủng" nhờ
kinh doanh online nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thuế.
Theo bà Tạ Thị Phương Lan, Phó vụ trưởng Vụ quản lý thuế doanh nghiệp nhỏ, vừa
và hộ kinh doanh (Tổng cục thuế) cho biết, tinh thần chung của Thông tư 40 là áp dụng
cho tất cả đầu mối trung gian, vì thế khơng loại trừ sàn thương mại điện tử nào. Tuy
nhiên, việc áp dụng chính sách nộp thay, khấu trừ thuế được thực hiện theo từng giai
đoạn, trước mắt là áp dụng với các đơn vị quản lý được doanh thu người bán.
Có nhiều hộ kinh doanh lâu nay có đăng ký thuế dưới hình thức đóng thuế khốn. Cơ
quan thuế đã nắm địa điểm kinh doanh và kho hàng nhưng doanh thu được phản ánh có
thể chưa đầy đủ. Do đó, lãnh đạo Vụ đánh giá thông tin từ sàn thương mại điện tử là
nguồn tin cậy để cơ quan thuế điều chỉnh doanh thu của người nộp thuế, từ đó thu thuế
đúng và đủ hơn. Trao đổi với Lao Động, Luật sư Bùi Đình Ứng (Đồn luật sư Hà Nội),
cho rằng để đạt được mục tiêu chống thất thu thuế, cần thiết phải có những quy định như
trên, dù khiến các bên tham gia kinh doanh online sẽ gặp thêm phiền phức. Bởi từ trước
đến nay, chỉ có người bán tự kê khai, đóng thuế dựa trên thu nhập của họ nhưng việc kiểm
sốt kê khai có chính xác hay khơng lại khơng dễ. Đã có nhiều trường hợp kê khai không
đúng nên bị ngành Thuế "truy vết" và yêu cầu đóng bổ sung.
Từng chia sẻ tại một hội thảo, bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hiệp hội tư vấn thuế
nêu thực tế rằng, những người kinh doanh truyền thống vẫn phải thuê trụ sở, cửa hàng và
gánh thêm nhiều chi phí nhưng họ vẫn kê khai, nộp thuế đầy đủ. Còn người kinh doanh

thương mại điện tử hiện đại hơn, chi phí thấp, lợi nhuận cao hơn thì lại tránh thuế. Vì thế,
theo bà Cúc, việc tiếp cận với các đầu mối khác để có thơng tin thu thuế thương mại điện
tử là hoàn toàn phù hợp nhằm đảm bảo bình đẳng giữa những người kinh doanh thương
mại điện tử và kinh doanh truyền thống.
Xét ở khía cạnh hành thu, việc Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đề ra các biện pháp để
chống thất thu, né thuế của các cơ sở, cá nhân kinh doanh là điều cần thiết. Bởi lâu nay,
việc thu thuế đối với cá nhân, tổ chức kinh doanh trên môi trường điện tử là vấn đề làm
“đau đầu” cơ quan thuế. Những biện pháp thu “truyền thống” vẫn là theo dõi các giao


22

dịch có giá trị lớn, thơng qua việc cung cấp thông tin giữa các ngân hàng với cơ quan
thuế, rồi yêu cầu người kinh doanh kê khai, nộp thuế theo quy định. Việc này đã bước đầu
có hiệu quả, nhưng không thể bao quát hết.
Bà Nguyễn Thị Lan Anh - Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp nhỏ và vừa cho
rằng: Việc khai thuế thay, nộp thuế thay của chủ sở hữu các sàn giao dịch thương mại điện
tử được thực hiện theo định hướng của Chính phủ về cải cách hành chính thuế theo
phương thức điện tử. Việc này sẽ giúp cho các cá nhân kinh doanh giảm thiểu được đầu
mối kê khai, tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân kinh doanh, cũng như cơ quan thuế
trong công tác quản lý thuế.
“Lọt sàng xuống nia”: Theo quy định tại thông tư 40, hằng tháng, các thông tin của
người bán sẽ được sàn chuyển cho cơ quan thuế theo hình thức điện tử. Các dữ liệu phải
chuyển sang thuế gồm doanh thu, tài khoản ngân hàng, hàng hóa, dịch vụ bán và thơng tin
cá nhân gồm họ tên, số định danh cá nhân hoặc chứng minh nhân dân/căn cước công
dân/hộ chiếu, mã số thuế, địa chỉ, email, số điện thoại liên lạc... Ngoài việc khai thay, nộp
thay thuế theo lộ trình, các sàn thương mại điện tử cũng phải cung cấp thông tin doanh
thu, tài khoản ngân hàng của người bán cho cơ quan thuế.
Việc cung cấp thơng tin từ các sàn thương mại điện tử cịn giúp cơ quan thuế nắm
được thông tin của những người tham gia thương mại điện tử, dù những người này chưa

nằm trong diện phải nộp thuế, nhưng cơ sở dữ liệu cũng giúp cơ quan thuế bước đầu nắm
được thông tin và tìm hiểu, sàng lọc thêm trên các trang mạng xã hội khác. Do hiện tại,
hầu hết những những người bán hàng sử dụng nhiều nền tảng xã hội, thương mại điện tử
cùng lúc để tham gia kinh doanh, nên nắm được thông tin ở một đầu mối sẽ truy ra được
hoạt động ở các nguồn khác. Như vậy, có thể cơ quan Thuế khơng thu được thuế của cá
nhân kinh doanh trên sàn thương mại điện tử, nhưng nhờ đó có thể kiểm tra và thu được
tiền thuế từ hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội (Facebook, Instagram, Zalo, …) mà
cá nhân có thể cố tình che giấu nhằm trốn thuế.
Giảm chi phí hành chính, quản lý: Theo ông Nguyễn Văn Được Tổng giám đốc
Công ty TNHH Kế tốn và Tư vấn thuế Trọng Tín thì cơng tác thu ngân sách có thể thấy
rằng thuế đối với hộ cá nhân kinh doanh xưa nay vẫn được coi là một điểm đen trong
công tác thu ngân sách, bởi số lượng các hộ cá nhân kinh doanh rất lớn, phức tạp, ý thức
tuân thủ pháp luật còn hạn chế. Khơng chỉ có vậy nếu giữ phương pháp quản lý thuế
truyền thống sẽ tốn rất nhiều nguồn lực, thời gian, và chi phí quản lý trong khi số thu từ
khu vực này chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng thu ngân sách.


23

Về phía người nộp thuế sẽ được hưởng nhiều lợi ích từ quy định này bởi thay vì
phải tự kê khai nộp thuế thì người nộp thuế sẽ được cơ quan thuế và các sàn thương mại
điện tử hỗ trợ, qua đó giảm bớt thủ tục hành chính, chi phí và thời gian đi lại, từ đó nâng
cao hiệu quả cơng tác quản lý kinh doanh cho chính người nộp thuế.
Cung cấp thơng tin người bán có vi phạm chính sách bảo mật thơng tin hay
khơng? Tuy nhiên, vẫn cịn nhiều nghi ngại cho rằng quy định cung cấp thông tin người
bán trên các sàn thương mại điện tử có thể gây khó khăn cho một số sàn, đồng thời có thể
vi phạm quy định chính sách bảo mật. Theo bà Vũ Thị Minh Tú – giám đốc sàn Lazada
Việt Nam, đề xuất, ngành Thuế cần có hướng dẫn cụ thể cơ quan cấp nào được quyền yêu
cầu doanh nghiệp cung cấp thông tin và cung cấp những nội dung gì để đảm bảo an ninh
an tồn thơng tin và tránh vi phạm các luật chuyên ngành khác.

Thật ra, quy định cung cấp thông tin của người tham gia thương mại đã có từ rất lâu
(điều 37, nghị định 52/2013/NĐ-CP), vấn đề nằm ở các sàn đã nhận thức và tuân thủ quy
định hay chưa.
Lướt sơ một số sàn Thương mại điện tử phổ biến nhất ở Việt Nam là Tiki, Lazada và
Shopee, có thể thấy để cửa hàng online của người đăng ký có thể hoạt động, thì các sàn
này đều quy định cung cấp các thông tin như tên cửa hàng, số điện thoại, email, địa chỉ
lấy hàng, phương thức thanh tốn, thơng tin tài khoản ngân hàng hoặc ví điện tử liên kết.
Tuy nhiên, đối với các thơng tin khác thì lại có mức độ khắt khe trong quy định pháp
lý khác nhau.
Đối với Tiki, sàn này chỉ cho phép các loại hình kinh doanh có giấy phép đăng ký để
tham gia bán hàng trên Tiki (như hình dưới). Điều này cũng đồng nghĩa với việc, cá nhân
kinh doanh tự do, khơng có giấy phép đăng ký kinh doanh sẽ khó lịng được phép bán
hàng trên nền tảng này.


24

Hình 2: Các loại hình được tham gia bán hàng ở Tiki đều phải cung cấp giấy phép
đăng ký tương ứng27
Khi đã tạo xong tài khoản bán hàng, người bán cần cung cấp thêm giấy phép đăng
ký kinh doanh mới có thể hồn tất hồ sơ.

Hình 3: u cầu cung cấp ảnh chung Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Tiki28
27 www.sellercenter.tiki.vn
28 www.sellercenter.tiki.vn


25

Điều này khác biệt rất lớn so với Lazada hay Shopee. Vì Lazada chỉ yêu cầu chủ gian

hàng cung cấp chứng minh/ căn cước cơng dân thay vì giấy phép đăng ký kinh doanh.

Hình 4: Xác nhận thơng tin cá nhân người bán ở Lazada29
Việc bán hàng ở Shopee lại càng dễ dàng hơn nữa, khi chỉ cần có sẵn một tài khoản
người mua (đăng ký rất đơn giản, chỉ cần cung cấp họ tên, số điện thoại, password), là
đồng thời có thể tham gia bán hàng ngay trên tài khoản mua hàng đã đăng ký luôn.

29 />

×