MỤC LỤC
I.
II.
III.
1.
2.
IV.
V.
VI.
1.
2.
VII.
LỜI MỞ ĐẦU
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Khái niệm về nhượng quyền thương mại.
Đặc điểm của nhượng quyền thương mại.
Mối quan hệ giữa nhượng quyền thương mại và hoạt động chuyển
giao công nghệ, hoạt động Li – xăng.
Tính tương đồng
Sự khác biệt
Quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại.
Đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại.
Chủ thể và hợp đồng nhượng quyền thương mại
Chủ thể thực hiện.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Thực trạng của nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
2
3
3
3
LỜI MỞ ĐẦU
Nhượng quyền thương mại cùng với các hình thức kinh doanh khác đã
tạo nên một bức tranh sống động của nền kinh tế thế giới. Hình thành từ thế kỷ
19, hình thức này không ngừng được mở rộng, phát huy tính hiệu quả trong kinh
doanh.
Tại Việt Nam, hình thức nhượng quyền thương mại hình thành vào những
năm 90 của thế kỷ 20. Và trong những năm gần đây Việt Nam có những điều
kiện rất thuận lợi cho hoạt động kinh doanh với tốc độ tăng trưởng GDP bình
quân trên 8%, một quốc gia có dân số trên 82 triệu người, tình hình kinh tế ổn
định, nhà nước khuyến khích đầu tư, sức mua của thị trường được đánh giá là rất
cao trên thế giới. Hơn nữa, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150
của WTO, mở ra nhiều cơ hội cho các nhà kinh doanh cả trong và ngoài nước.
Trong bối cảnh như vậy, rõ ràng việc quyết định lựa chọn hình thức kinh doanh
nào đảm bảo cho nhà đầu tư có được hiệu quả tốt nhất về sử dụng vốn, phát triển
nhanh thị trường, mở rộng nhanh thị phần và kiểm soát được hệ thống nhằm tạo
được tiếng nói đối với thị trường này là điều rất được quan tâm? Rõ ràng, hình
thức nhượng quyền thương mại sẽ là một sự lựa chọn cho cả nhà nhượng quyền
và nhà nhận quyền và hình thức kinh doanh này sẽ phát triển mạnh tại Việt Nam
trong những năm tới. Và với bài viết này, em xin được phép đi sâu tìm hiểu một
số quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái niệm về nhượng quyền thương mại:
Các quốc gia trên thế giới đã hình thành và phát triển một cách hợp lý các
vấn đề pháp lý liên quan tới họat động nhượng quyền. Do vậy, những cái tên
như: Kentucky, Burger Khan, Five Star Chicken, Jollibee, Carvel, Baskin
Robbins, Texas Chicken, Kentucky Fried Chicken, Hard Rock Café, Chili's
không những chỉ xuất hiện tại các nước sở tại mà còn vươn xa đến rất nhiều
nước trên thế giới trở thành những hệ thống nhượng quyền tòan cầu.
Tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của các hệ thống nhượng quyền
quốc tế, đã xuất hiện các hệ thống nhượng quyền của Việt Nam như: Cà phê
Trung nguyên, Phở 24, Qualitea, Hệ thống chuỗi Bakery Kinh Đô... đã làm cho
bức tranh thị trường của Việt Nam càng trở nên hấp dẫn.
Đến nay, Luật thương mại có hiệu lực ngày 1.1.2006 tại mục 8, điều 284
đã đề cập đến khái niệm nhượng quyền thương mại và các điều 284, 286, 287,
288, 289, 290, 291 qui định chi tiết các vấn đề liên quan đến hoạt động nhượng
quyền thương mại. Nội dung điều 284 như sau:
“Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng
quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
1. Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách
thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn
hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu
tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền
trong việc điều hành công việc kinh doanh.”
II. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại.
- Đối tượng của nhượng quyền thương mại là quyền thương mại
Quyền thương mại được hiểu là quyền tiến hành kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ theo cách thức của bên nhượng quyền quy định, cùng với đó là việc
được sử dụng nhãn mác, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh
doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo…của bên nhượng quyền. Trong quan
hệ nhượng quyền thương mại, nội dung cốt lõi chính là việc bên nhượng quyền
cho phép bên nhận quyền được sử dụng quyền thương mại của mình trong kinh
doanh.
- Giữa Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền luôn tồn tại một mối quan hệ
hỗ trợ mật thiết
Đây là một đặc điểm giúp chúng ta tìm thấy sự khác biệt của nhượng
quyền thương mại với các hoạt động thương mại khác. Trong nhượng quyền
thương mại luôn tồn tại mối quan hệ hỗ trợ mật thiết giữa Bên nhượng quyền và
Bên nhận quyền, nếu không có điều đó, thì đã thiếu đi một điều kiện tiên quyết
để xác định hoạt động đấy có phải là nhượng quyền thương mại hay không.
Mục đích và cũng là yêu cầu của nhượng quyền thương mại là việc nhân
rộng một mô hình kinh doanh đã được trải nghiệm thành công trên thương
trường. Chính vì vậy, đối với nhượng quyền thương mại thì cần phải bảo đảm
được tính đồng nhất về các yếu tố liên quan trực tiếp đến quy trình kinh doanh
đó như: chất lượng hàng hoá, dịch vụ; phương thức phục vụ; cách thức bài trí cơ
sở kinh doanh (từ hình ảnh bên ngoài cho đến khu vực bên trong của cơ sở);
việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, biểu tượng kinh doanh, tên thương mại của
Bên nhượng quyền; hoạt động quảng bá, khuyến mại; đồng phục của nhân viên;
các ấn phẩm của cơ sở kinh doanh…Tính đồng nhất trong các mắt xích của một
hệ thống nhượng quyền thương mại chỉ có thể được bảo đảm khi giữa Bên
nhượng quyền và Bên nhận quyền luôn duy trì mối quan hệ mật thiết với nhau
trong suốt thời gian tồn tại quan hệ nhượng quyền thương mại.
Tính mật thiết của mối quan hệ giữa Bên nhượng quyền và Bên nhận
quyền thể hiện từ ngay sau khi các bên hình thành nên quan hệ nhượng quyền
thương mại. Kể từ thời điểm đó, Bên nhượng quyền phải tiến hành việc cung
cấp tài liệu, đào tạo nhân viên của Bên nhận quyền. Không chỉ vậy, mà cùng với
sự lớn mạnh và phát triển theo thời gian của hệ thống, Bên nhượng quyền phải
thường xuyên trợ giúp kỹ thuật, đào tạo nhân viên của Bên nhận quyền đối với
những ứng dụng mới áp dụng chung cho cả hệ thống.
- Luôn có sự kiểm soát của Bên nhượng quyền đối với việc điều hành công
việc của Bên nhận quyền
Quyền kiểm soát của Bên nhượng quyền đối với việc điều hành hoạt động
kinh doanh của Bên nhận quyền được pháp luật đa số các quốc gia trên thế giới
thừa nhận. Theo đó, Bên nhượng quyền có thể định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra
việc thực hiện các quyền thương mại của Bên nhận quyền. Sự hỗ trợ của Bên
nhượng quyền đối với Bên nhận quyền như đã nói ở trên sẽ trở nên vô nghĩa và
thiếu đi tính thực tế nếu như Bên nhượng quyền không có quyền năng kiểm soát
hoạt động điều hành kinh doanh của Bên nhận quyền. Quyền năng này của Bên
nhượng quyền đã thực sự tạo nên chất kết dính quan trọng trong việc xây dựng
tính thống nhất của hệ thống nhượng quyền thương mại và sự ổn định về chất
lượng hàng hoá và dịch vụ.
III. Mối quan hệ giữa nhượng quyền thương mại và hoạt động chuyển
giao công nghệ, hoạt động Li – xăng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hoạt động chuyển giao công nghệ
và hoạt động li-xăng được hiểu như sau:
- “Chuyển giao công nghệ là hình thức mua và bán công nghệ trên cơ sở
Hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được thoả thuận phù hợp với các quy định
của pháp luật. Bên bán có nghĩa vụ chuyển giao các kiến thức tổng hợp của công
nghệ hoặc cung cấp các máy móc, thiết bị, dịch vụ, đào tạo… kèm theo các kiến
thức công nghệ cho bên mua và bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán để
tiếp thu, sử dụng các kiến thức công nghệ đó theo các điều kiện đã thoả thuận và
ghi nhận trong Hợp đồng chuyển giao công nghệ”.
- Hoạt động li-xăng là hoạt động chuyển giao quyền sử dụng các đối
tượng của quyền sở hữu công nghiệp (SHCN).
Thông qua việc phân tích bản chất của nhượng quyền thương mại và nhìn
nhận về hoạt động chuyển giao công nghệ, hoạt động li-xăng, cho phép chúng ta
đánh giá được vài nét cơ bản về tính tương đồng và sự khác biệt giữa những
hoạt động này như sau:
1. Tính tương đồng
Thường có sự nhầm lẫn giữa chuyển giao công nghệ, hoạt động li-xăng và
nhượng quyền thương mại. Điều này cũng dễ hiểu, bởi lẽ, khi nhìn vào một hoạt
động, một quan hệ nào đó, người ta thường để ý nhiều nhất đến đối tượng của
nó, trong khi đó thì về đối tượng, cả ba hoạt động này có rất nhiều điểm tương
đồng.
Như đã nói ở trên, đối tượng của Nhượng quyền thương mại là quyền
thương mại – quyền kinh doanh, mà cụ thể thì đó chính là quyền sử dụng cách
thức kinh doanh và quyền được sử dụng nhãn mác, tên thương mại, bí quyết,…
của bên nhượng quyền. Đối tượng của hoạt động chuyển giao công nghệ là “các
kiến thức tổng hợp của công nghệ hoặc cung cấp các máy móc, thiết bị, dịch vụ,
đào tạo… kèm theo các kiến thức công nghệ quyền sử dụng đối với bí quyết kỹ
thuật, giải pháp kỹ thuật”, trong đó bao hàm các đối tượng SHCN; còn đối
tượng của hoạt động li-xăng là quyền sử dụng đối với các đối tượng của quyền
sở hữu công nghiệp. Như vậy, cả nhượng quyền thương mại, hoạt động chuyển
giao công nghệ và hoạt động li-xăng đều có chung một phạm vi đối tượng chủ
yếu đó là quyền sử dụng các đối tượng SHCN.
Cũng trên cơ sở đối tượng tương đồng, thêm một lý do phái sinh nữa
khiến cho người ta càng dễ nhầm lẫn, đó là: lợi ích mà Bên nhận có được từ việc
nhận quyền thương mại, nhận công nghệ, nhận li-xăng từ Bên chuyển nhượng
thường tập trung nhiều nhất ở giá trị các đối tượng SHCN của Bên chuyển
nhượng. Vì thế trong cả 3 hoạt động nhượng quyền thương mại, chuyển giao
công nghệ, chuyển giao li-xăng, các bên đều chú ý nhiều nhất đến giá trị của các
đối tượng SHCN và lẽ dĩ nhiên trong bối cảnh đó người ta thấy các hoạt động
này đều “na ná” nhau.
2. Sự khác biệt
Mặc dù có những điểm tương đồng lớn như đã nói ở trên, nhượng quyền
thương mại và hoạt động chuyển giao công nghệ, hoạt động li-xăng vẫn có rất
nhiều điểm khác biệt với nhau:
• Giữa nhượng quyền thương mại với chuyển giao công nghệ
Trước hết, về mặt tính chất của hoạt động, nếu như nhượng quyền thương
mại là phương thức mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thông qua việc cho
phép một doanh nghiệp khác được sản xuất kinh doanh trên cơ sở uy tín, tên
thương mại, công nghệ.v.v.. của Bên nhượng quyền, thì chuyển giao công nghệ
lại chỉ đơn thuần là việc chuyển giao các công nghệ để ứng dụng nó vào quá
trình sản xuất.
Thứ hai, về quyền năng của bên nhận quyền đối với đối tượng chuyển
giao. Khi một doanh nghiệp nhận công nghệ, họ có quyền ứng dụng công nghệ
đó để sản xuất ra sản phẩm dưới bất kỳ thương hiệu, kiểu dáng, tên thương mại
nào mà họ mong muốn. Trong khi đó, đối với hoạt động nhượng quyền thương
mại, Bên nhận quyền chỉ được sử dụng các công nghệ mà mình nhận được để
sản xuất, cung ứng các loại dịch vụ có cùng chất lượng, hình thức và dưới nhãn
hiệu hàng hoá, tên thương mại của Bên nhượng quyền. Bên cạnh đó, Bên nhận
quyền còn phải tuân theo sự bày trí cửa hàng, cung cách phục vụ khách hàng,
phương pháp xúc tiến thương mại của Bên nhượng quyền. Đặc biệt, các doanh
nghiệp cùng nhận quyền thương mại từ một doanh nghiệp nhất định sẽ có mối
quan hệ với tư cách là các thành viên trong cùng một mạng lưới kinh doanh, mối
quan hệ này không bao giờ hình thành giữa các doanh nghiệp cùng nhận quyền
chuyển giao công nghệ.
Thứ ba, sự khác nhau về phạm vi đối tượng của hoạt động. Nếu như trong
hoạt động chuyển giao công nghệ, đối tượng của nó là “các kiến thức tổng hợp
của công nghệ hoặc máy móc, thiết bị, dịch vụ, đào tạo… kèm theo các kiến thức
công nghệ”, tức là chủ yếu tập trung vào công nghệ sản xuất ra sản phẩm, quy
trình sản xuất ra sản phẩm. Trong khi đó, nhượng quyền thương mại như đã đề
cập ở trên có phạm vi đối tượng không chỉ bao gồm quy trình sản xuất mà còn
cả các quy trình sau sản xuất nhằm đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng, quy
trình quản lý – không chỉ giới hạn ở cơ cấu tổ chức, chính sách kinh doanh,
kiểm toán, nhân sự, thậm chí cả tiêu chuẩn cho việc thiết kế, trang trí cửa hàng,
nhà xưởng.