Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

PHÂN TÍCH NỘI DUNG NGUYÊN TẮC THỤ ĐẮC LÃNH THỔ TRONG LUẬT QUỐC TẾ VÀ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THỤ ĐẮC LÃNH THỔ TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.16 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU........................................................................................................2
B. NỘI DUNG....................................................................................................3
I. Một số vấn đề lý luận chung......................................................................3
1. Khái niệm, bản chất của thụ đắc lãnh thổ............................................3
2. Cơ sở xác lâp chủ quyền quốc gia bằng thụ đắc lãnh thổ...................4
3. Ý nghĩa của nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ..............................................4
II. NỘI DUNG NGUYÊN TẮC THỤ ĐẮC LÃNH THỔ TRONG
LUẬT QUỐC TẾ..............................................................................................5
1. Các nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ trong luật quốc tế............................5
1.1. Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia.............................5
1.2. Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực................5
1.3. Ngun tắc hịa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế.......................6
1.4. Nguyên tắc dân tộc tự quyết..................................................................7
1.5. Nguyên tắc chiếm hữu thật sự...............................................................7
2. Các phương thức thụ đắc lãnh thổ........................................................8
2.1. Thụ đắc lãnh thổ do tác động của tự nhiên...........................................8
2.2. Thụ đắc lãnh thổ do chuyển nhượng.....................................................9
2.3. Thụ đắc lãnh thổ theo thời hiệu...........................................................10
2.4. Thụ đắc lãnh thổ do chiếm hữu...........................................................11
2.5. Thụ đắc lãnh thổ bằng phương pháp kề cận địa lý.............................18
2.6. Thụ đắc lãnh thổ qua xâm lược...........................................................19
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THỤ ĐẮC LÃNH THỔ....19
1. Áp dụng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ giải quyết các tranh chấp trên
thế giới..........................................................................................................19
2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ giải quyết tranh
chấp ở biển Đông.........................................................................................21
C. KẾT LUẬN..................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................28

1




ĐỀ TÀI: Phân tích nội dung nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ trong luật
quốc tế. Việc áp dụng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ trong việc giải quyết các
tranh chấp ở biển Đông

A.

MỞ ĐẦU

Chủ quyền quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Bất kể một công
dân của Quốc gia nào, dù là nước lớn hay nhỏ, chúng ta cũng đều nhận thức
được chân lý ấy. Trong đó, xác lập chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ có ý
nghĩa cô cùng to lớn đối với mỗi quốc gia nói riêng và cộng đồng quốc tế nói
chung. Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ chỉ được coi là hợp pháp khi dựa trên
những cơ sở và phương thức do Luật Quốc tế quy định. Do đó, đề tài sẽ làm rõ
nội dung: “Phân tích nội dung nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ trong luật quốc tế.
Việc áp dụng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ trong việc giải quyết các tranh chấp ở
biển Đông” để đi làm rõ trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn về vấn đề
này.

2


B. NỘI DUNG
I.
Một số vấn đề lý luận chung
1. Khái niệm, bản chất của thụ đắc lãnh thổ
Lãnh thổ là toàn bộ trái đất bao gồm các bộ phận cấu thành là vùng đất,
vùng nước, vùng trời, lòng đất và khoảng khơng. Lãnh thổ quốc gia là tồn bộ

vùng đất, vùng nước, vùng trời, vùng lòng đất thuộc chủ quyền hoàn toàn, tuyệt
đối hay riêng biệt của quốc gia, tại đó, quốc gia thự hiện quyền lực nhà nước đối
với dân cư của mình.
Đối với mỗi quốc gia, lãnh thổ đóng vai trị đặc biệt quan trọng, là cơ sở
vật chất cho sự tồn tại của quốc gia, duy trì ranh giới quyền lực nhà nước đối với
một cộng đồng dân cư nhất định, góp phần tạo dựng một trật tự pháp lý quốc tế
hịa bình và ổn định.
Trong quan hệ giữa các quốc gia với nhau, lãnh thổ quốc gia có tính chất
đặc biệt quan trọng, nó ảnh hưởng, tác động rất lớn đến qua hệ quốc tế. Điển
hình là các cuộc tranh chấp, xung đột về lãnh thổ và biên giới – nguyên nhân
phổ biến và chủ yếu dẫn tới các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia với nhau.
Xác lập chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ là nhằm xác định danh nghĩa
của quốc gia đối với lãnh thổ nói chung và các vùng lãnh thổ nói riêng. Lãnh thổ
quốc gia là tồn vẹn và bất khả xâm phạm vì vậy việc lập chủ quyền qc gia
đối với lãnh thổ phải dựa trên những cơ sở và phương thức do luật quốc tế quy
định.
“Thụ đắc lãnh thổ” là việc mở rộng ranh giới địa lý của chủ quyền quốc
gia ra một lãnh thổ mới. Bản chất xác lập chủ quyền quốc gia bằng thụ đắc lãnh
thổ là việc một quốc gia xác lập chủ quyền của mình đối với một vùng lãnh thổ
mới, hay nói cách khác, mở rộng lãnh thổ của mình, thêm một vùng lãnh thổ
mới vào bản đồ lãnh thổ quốc gia theo những phương thức phù hợp với nguyên
tắc của pháp luật quốc tế.
3


2. Cơ sở xác lâp chủ quyền quốc gia bằng thụ đắc lãnh thổ
Xác lập chủ quyền quốc gia bằng thụ đắc lãnh thổ được ghi nhận trong
Hiến chương Liên Hợp Quốc, Nghị quyết 26/25 năm 1970 của Đại Hội đồng
Liên Hợp Quốc về các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Công ước Liên
Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (xác định về chủ quyền trên biển của mỗi

quốc gia), Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969 (quy định việc
chuyển nhượng và thụ đắc lãnh thổ bị vô hiệu).
Ở Việt Nam, việc xác lập chủ quyền quốc gia bằng nguyên tắc thụ đắc lãnh
thổ còn được quy định trong các Hiệp ước giữa Việt Nam với các nước láng
giềng như: Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc, Hiệp
ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Lào, Hiệp ước Hoạch định
biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Campuchia…
3. Ý nghĩa của nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ
Nhìn chung, việc xác lập danh nghĩa chủ quyền có ý nghĩa quan trọng
trong việc khẳng định chủ thực sự của một lãnh thổ và một cộng đồng dân cư ổn
định. Danh nghĩa này không chỉ tồn tại về phương diện pháp lý mà còn cả về
phương diện thực tế. Danh nghĩa này được khẳng định qua việc thực hiện chủ
quyền quốc gia về mọi phương diện. Do đó, việc thụ đắc lãnh thổ giúp xác lập
được lãnh thổ, mở rộng lãnh thổ của quốc gia, để tận dụng mọi nguồn tài nguyên
và phát triển nó một cách triệt để triệt để. Bên cạnh đó, tuân thủ đúng quy định
về thụ đắc lãnh thổ cũng giúp phân chia rạch ròi và chính xác biên giới lãnh thổ
tránh được tình trạng tranh chấp, xung đột, mâu thuẫn dẫn đến chiến tranh tranh
giành lãnh thổ, góp phần dảm bảo an ninh – quốc phịng của mỗi quốc gia. Do
đó, việc xác định chủ quyền thông qua nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ còn là căn cứ
để giải quyết các tranh chấp quốc tế liên quan đến chủ quyền quốc gia.
Đặc biệt đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề lãnh thổ và biển đảo ln ở tình
trạng căng thẳng và xảy ra tranh chấp kéo dài. Những sự kiện lịch sử, văn bản

4


pháp lý đã nêu là cơ sở vững chắc để khẳng định việc xác lập chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

II.


NỘI DUNG NGUYÊN TẮC THỤ ĐẮC LÃNH THỔ
TRONG LUẬT QUỐC TẾ

1. Các nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ trong luật quốc tế
1.1. Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
Đây là nguyên tắc được đặt ở vị trí đầu tiên trong số các nguyên tắc được
ghi nhận tại Điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc: "Liên hợp quốc được xây
dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả hội viên". Nguyên tắc này
là xuất phát điểm của toàn bộ hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế.
Chủ quyền là thuộc tính chính trị-pháp lý vốn có của quốc gia, thể hiện
quyền tối thượng của quốc gia trong lãnh thổ của mình và quyền độc lập của
quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ của mình, mỗi quốc gia
có quyền tối thượng về lập pháp, hành pháp và tư pháp mà khơng có bất kỳ sự
can thiệp nào từ bên ngồi, đồng thời quốc gia được tự do lựa chọn cho mình
phương thức thích hợp nhất để thực thi quyền lực trong phạm vi lãnh thổ. Trong
quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia có quyền tự quyết định chính sách đối ngoại của
mình mà khơng có sự áp đặt từ chủ thể khác trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của
mọi quốc gia khác.
Như vậy, nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia sẽ chi phối các
quốc gia trong quá trình thụ đắc lãnh thổ.
1.2.

Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực

Sự ra đời của Liên hợp quốc với bản Hiến chương của mình được đánh giá
rất cao vì mục đích giữ gìn hịa bình và an ninh quốc tế. Tại khoản 4 điều 2 của
Hiến chương này quy định rằng: "Trong quan hệ quốc tế, các hội viên Liên hợp
quốc không được có hành động đe dọa bằng vũ lực hay dùng vũ lực để chống lại
quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nến độc lập chính trị của bất cứ một

nước nào, hoặc bằng cách này hay cách khác làm trái với những mục đích của
5


Liên hợp quốc". Nghị quyết số 26/25 (1970) của Đại hội đồng Liên hợp quốc về
các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế đã quy định rõ: “Lãnh thổ của một
quốc gia không thể là đối tượng của việc thụ đắc bởi một quốc gia khác bằng
việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Việc thụ đặc lãnh thổ bằng việc đe dọa hoặc sử
dụng vũ lực không được thừa nhận là hợp pháp”.
Bên cạnh đó, Các văn kiện pháp lý quốc tế khác cũng ghi nhận nguyên tắc
này như: Tuyên bố của đại hội đồng liên hợp quốc năm 1970 về các nguyên tắc
cơ bản của LQT; Tuyên bố của đại hội đồng liên hợp quốc năm 1974 về định
nghĩa xâm lược; Định ước Henxinki năm 1975 về an ninh và hợp tác của các
nước châu Âu; Tuyên bố của liên hợp quốc năm 1987 về "nâng cao hiệu quả của
nguyên tắc khước từ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc
tế".
1.3.

Ngun tắc hịa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế

Sự hình thành và phát triển của ngun tắc hịa bình giải quyết các tranh
chấp quốc tế gắn liền với nguyên tắc cấm sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Nói cách khác, nguyên tắc này là hệ quả tất yếu của nguyên tắc cấm sử dụng vũ
lực và đe dọa sử dụng vũ lực. Ngun tắc hịa bình giải quyết tranh chấp quốc tế
được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến chương liên hợp quốc và được khẳng định
rõ ràng trong Tuyên bố năm 1970, trong đó chỉ rõ “mỗi quốc gia giải quyết tranh
chấp quốc tế của mình với các quốc gia khác bằng phương pháp hịa bình để
khơng dẫn đến đe dọa hịa bình, an ninh quốc tế và công bằng”. Điều 33 Hiến
chương liên hợp quốc đã quy định cụ thể các biện pháp hòa bình mà các bên
tranh chấp có thể lựa chọn, đó là các con đường : “… đàm phán, điều tra, trung

gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng các tổ chức hoặc các hiệp định khu vực,
hoặc bằng các biện pháp hịa Như vậy, hịa bình giải quyết các tranh”bình khác
tùy theo sự lựa chọn của mình” chấp quốc tế là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi
quốc gia – thành viên của cộng đồng quốc tế. Các bên có quyền tự do lựa chọn
các biện pháp phù hợp nhất, sao cho mọi tranh chấp đều được giải quyết trên cơ
sở luật quốc tế và nguyên tắc công bằng.
6


1.4.

Nguyên tắc dân tộc tự quyết

"Quyền dân tộc tự quyết" được hiểu là việc một dân tộc hoàn toàn tự do
trong việc tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như lựa chọn thể chế
chính trị, đường lối phát triển đất nước. Khoản 2 điều 1 Hiến chương Liên hợp
quốc ghi nhận "phát triển quán hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng
các nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền và dân tộc tự quyết". Như vậy, khái
niệm "dân tộc tự quyết" được nhắc đến trong Hiến chương Liên hợp quốc không
phải là quyền tự quyết của dân tộc theo nghĩa là sự tập hợp của các sắc tộc hoặc
quyền tự quyết của các dân tộc thiểu số trong từng quốc gia. Quyền dân tộc tự
quyết ở đây chỉ thuộc về nhân dân theo nghĩa là tất cả dân cư thường xuyên sinh
sống trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định – chủ thể luật quốc tế.
Tuy nhiên. theo giáo sư người Nga B.M Climeco: "Nguyên tắc dân lộc tự
quyết không loại tự những phương thức xác lập chủ quyền lãnh thổ khác. Hơn
thế nữa, trong khi thực hiện quyền dân tộc tự quyền, vẫn có thể sử dụng các
phương thức đó như những phương thức bổ trợ”.
Quan điểm trên của giáo sư Climeco là hồn tồn có cơ sở và có thể áp
dụng vào việc chọn lựa và sử dụng các phương thức thụ đắc lãnh thổ. Rõ ràng là
trên thực tế không thể áp dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết trong mọi trường hợp

được, nhất là đối với những vùng lãnh thổ như: Bắc cực, Nam cực, các quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa, phần Đông Gronland. . .
Về những lãnh thổ nêu trên, nguyên tắc dân tộc tự quyết không thể áp dụng
được, vì vậy các phương thức thụ đắc chủ quyền lãnh thổ khác vẫn có thể được
xem xét sử dụng và được coi là hợp pháp.
1.5.

Nguyên tắc chiếm hữu thật sự

Trên thế giới, đã có rất nhiều cuộc tranh chấp chủ quyền lãnh thổ xảy ra
giữa các nước, các cuộc tranh chấp giữa các nước này đã kéo dài nhiều năm với
nhiều quan điểm và nguyên tắc, chứng cứ lịch sử khác nhau giữa các bên. Để
giải quyết một cách triệt để những tranh chấp lãnh thổ giữa các nước này, Hội
7


nghi về châu Phi giữa 13 nước châu Phi và Hoa Kỳ năm 1885 và sau khóa họp
của Viện Luật pháp quốc tế ở Lausanne, Thụy sỹ, năm 1888, các nhà khoa học
cũng như phần lớn các quốc gia trên thế giới đã thống nhất áp dụng một nguyên
tắc thụ đắc lãnh thổ mới. Đó là nguyên tắc “chiếm hữu thật sự”. Nội dung chủ
yếu của nguyên tắc này là:
+ Việc xác lập chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ phải được thực
hiện dưới danh nghĩa Nhà nước, các cá nhân và tổ chức tư nhân khơng có quyền
thực hiên việc xác lập chủ quyền lãnh thổ đó.
+ Việc chiếm hữu phải được thực hiện trên vùng lãnh thổ vô chủ
hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị bỏ hoang.
+ Quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở mức độ
cần thiết, hiệu quả, thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh
thổ đó.
+ Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền phải liên tục rõ ràng, hịa

bình, việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động phi pháp, không được
thừa nhận.

2. Các phương thức thụ đắc lãnh thổ
Một số phương thức thụ đắc lãnh thổ đó là: thụ đắc lãnh thổ bằng phương
pháp kề cận địa lý; thụ đắc lãnh thổ bằng chiếm hữu (chiếm cứ); thụ đắc lãnh
thổ thông qua sự chuyển nhượng tự nguyện; Thụ đắc lãnh thổ thông qua sự xâm
lược; thụ đắc lãnh thổ do tác động của tự nhiên; Thụ đắc lãnh thổ theo thời hiệu.
2.1.

Thụ đắc lãnh thổ do tác động của tự nhiên

Là một phương thức không quá quan trọng và khơng xảy ra thường xun
trong thực tiễn, theo đó, trong trường hợp một vùng lãnh thổ mới xuất hiện theo
tiến trình vận động của tự nhiên trong phạm vi lãnh thổ hiện có của một quốc gia
thì quốc gia đó có quyền xác lập chủ quyền đối với vùng lãnh thổ mới hình
8


thành này. Nghĩa là quốc gia đó thụ đắc một cách tự động và mặc nhiên; ví dụ
như việc xuất hiện hòn đảo trong lãnh hải, nội thủy do núi lửa phun trào hay bồi
đấp của hải lưu hay hình thành cù lao trên các dịng sơng.
Những vùng đất được bồi đắp hoặc hòn đảo xuất hiện trong vùng lãnh hải
của một quốc gia không chỉ trở thành một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, đồng
thời, theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, quốc gia đó cịn
được phép mở rộng đường biên giới quốc gia vì chúng được quyền có lãnh hải
rộng 12 hải lý.
Nếu những hịn đảo mới hình thành bên ngồi lãnh hải của quốc gia, cách
thức thụ đắc này không thể được áp dụng. Một quốc gia mở rộng diện tích lãnh
thổ của mình thơng qua việc bồi đắp tự nhiên vào lãnh thổ chính hoặc sự xuất

hiện của các hòn đảo mọc lên tại vùng biển trong phạm vi đường biên giới của
quốc gia.
2.2.

Thụ đắc lãnh thổ do chuyển nhượng

Là phương thức xác lập chủ quyền lãnh thổ bằng cách chuyển giao một
cách tự nguyện, hịa bình và hợp pháp chủ quyền lãnh thổ từ một quốc gia này
sang một quốc gia khác thơng qua các hình thức: Thỏa thuận, mua bán, trao đổi
lãnh thổ,… Thông thường phương thức chuyển nhượng lãnh thổ này được hợp
thức bởi một văn bản điều ước, ký kết giữa hai quốc gia liên quan mà trong đó
ghi rõ ràng, cụ thể về vùng lãnh thổ được chuyển nhượng cũng như các điều
kiện chuyển nhượng cho tới khi việc chuyển nhượng được hoàn thành. Cách
thức này tương tự như việc mua bán, chuyển nhượng tài sản giữa các cá nhân,
pháp nhân thông qua một hợp đồng hợp pháp phù hợp với pháp luật quốc gia.
Do đó, chắc chắn rằng các quốc gia khơng thể chuyển nhượng nhiều quyền hơn
những gì mà quốc gia đó có với phần lãnh thổ chuyển nhượng.
Hơn thế nữa, giống như một giao dịch dân sự, yêu cầu quan trọng để bảo
đảm thụ đắc lãnh thổ hợp pháp theo cách thức này là phải bảo đảm điều ước
chuyển nhượng có hiệu lực theo luật pháp quốc tế, tức là được ký kết trong
9


những hồn cảnh khơng dẫn chế vơ hiệu điều ước quốc tế. Các trường hợp điều
ước quốc tế bị vô hiệu, qua đó việc chuyển nhượng và thụ đắc lãnh thổ bị vô
hiệu, được quy định trong Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969,
bao gồm 08 trường hợp: vi phạm luật pháp quốc gia về thẩm quyền ký kết điều
ước, vi phạm các giới hạn cụ thể liên quan đến thẩm quyền thể hiện sự đồng ý
chịu ràng buộc, sai sót, gian lận, tham nhũng, đe dọa đại diện quốc gia, đe dọa
sử dụng hay sử dụng, và xung đột với quy phạm mệnh lệnh bắt buộc chung. Các

trường hợp vô hiệu điều ước quốc tế này có thể khơng tồn tại trong các thế kỷ
trước khi việc đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực để ép buộc các nước ký điều
ước chuyển nhượng lãnh thổ, do đó có thể khơng thể được sử dụng để vơ hiệu
các điều ước “bất bình bẳng” đó, chẳng hạn như các hòa ước mà Pháp buộc nhà
Nguyễn ký để cắt đất nam kỳ.
2.3.

Thụ đắc lãnh thổ theo thời hiệu

Là sự thực hiện thực sự, liên tục và hịa bình trong một thời gian dài và
khơng có sự phản đối của bất kỳ quốc gia nào khác đối với một vùng lãnh thổ
khơng phải là vơ chủ, có nguồn gốc thuộc về một quốc gia khác hoặc chưa thuộc
về một quốc nào khác do đang còn bị tranh chấp và rất khó để xác định vùng
lãnh thổ đó đã thuộc về một quốc gia nào hay chưa. Nói đơn giản, chiếm hữu
theo thời hiệu là cách thức thụ đắc lãnh thổ mà luật pháp quốc tế cho phép để
hợp pháp hóa việc chiếm hữu hữu hiệu đối với một lãnh thổ nhất định, bất kể
lãnh thổ đó đã thuộc về một quốc gia hay không xác định được quốc gia nào có
chủ quyền.
Yêu cầu về chiếm hữu hữu hiệu đối với chiếm hữu theo thời hiệu cao hơn
so với đối với chiếm hữu. Chiếm hữu hữu hiệu cần được thực hiện trong một
thời gian dài hợp lý và phải khơng có sự phản đối từ quốc gia đang có chủ quyền
đối với lãnh thổ đó. Phản đối ngoại giao hay các hành động hay phát biểu khác
có tính chất phản đối đối với tình trạng chiếm hữu hữu hiệu sẽ vơ hiệu hóa việc
chiếm hữu theo thời hiệu. Ví dụ như đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
của Việt Nam bị Trung Quốc, Philippines và Malaysia chiếm đóng trên thực tế,
10


Việt Nam (mà chủ yếu thông qua Người phát ngôn Bộ Ngoại giao) luôn đưa ra
phát biểu phản đối và khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần

đảo này. Những phát ngơn có cùng nội dung, lặp đi lặp lại như thế có hệ quả
pháp lý là làm cho việc chiếm hữu hữu hiệu của các nước trên không trở thành
chiếm hữu theo thời hiệu, theo đó, các nước này khơng thể thụ đắc một các hợp
pháp hai quần đảo này của Việt Nam
Thụ đắc lãnh thổ theo thời hiệu đòi hỏi thực hiện chủ quyền trên thực tế đối
với một vùng lãnh thổ trong một thời gian tương đối dài. Tuy nhiên, luật pháp và
thực tiễn quốc tế chưa có quy định về thời hạn chung cho các trường hợp xác lập
chủ quyền lãnh thổ bằng phương thức này. Luật pháp quốc tế hiện đại cũng
không chấp nhận phương thức xác nhập chủ quyền lãnh thổ theo thời hiệu khi
các quốc gia sử dụng phương thức này để biện minh cho hành động xâm lược
của mình.
2.4.

Thụ đắc lãnh thổ do chiếm hữu

Chiếm hữu là một phương thức thụ đắc lãnh thổ trong pháp luật quốc tế, là
hành động của một quốc gia thiết lập và thực hiện quyền lực của mình trên một
lãnh thổ vốn chưa thuộc chủ quyền của bất kì một quốc gia nào khác (lãnh thổ
vô chủ - Terra Nullius) hoặc một vùng lãnh thổ vốn đã có chủ sau đó bị bỏ rơi và
trở lại trạng thái vô chủ ban đầu (Terra Derelicta).
Ở đây, cần phân biệt giữa chiếm hữu trong định nghĩa trên với sự chiếm
đóng trong chiến tranh hay chiếm đóng qn sự trong thời bình. Với sự chiếm
đóng trong chiến tranh hoặc chiếm đóng quân sự trong thời bình thì đối tượng
chiếm đóng là lãnh thổ của một quốc gia khác, do đó việc chiếm đóng khơng
đem lại sự thụ đắc lãnh thổ. Khác với chúng thì chiếm hữu có đối tượng là một
lãnh thổ vơ chủ hoặc lãnh thổ có địa vị pháp lý như lãnh thổ vơ chủ do ban đầu
là vùng lãnh thổ có chủ nhưng sau đó bị bỏ rơi và trở thành lãnh thổ vô chủ, và
sự chiếm hữu này mang lại sự thụ đắc lãnh thổ cho quốc gia thực hiện việc
chiếm hữu.
11



Việc chiếm hữu lãnh thổ phải là hành động nhân danh quốc gia, được quốc
gia ủy quyền, không phải là hành động của tư nhân. Như vậy, mọi hành động
mang danh nghĩa cá nhân đều không được thừa nhận làm cơ sở pháp lý để khẳng
định chủ quyền lãnh thổ. Thậm chí ngay cả khi các cá nhân tập hợp lại thành
một tập thể hoặc cơng ty thì cũng khơng thể làm thay đổi tính chất chủ quyền,
chỉ có ngoại lệ là khi tập thể hoặc cơng ty đó được nhà nước ủy quyền thay mặt
cho nhà nước xác lập chủ quyền lãnh thổ. Tức tập thể hoặc công ty đó khơng
phải nhân danh chính mình xác lập chủ quyền lãnh thổ mà nhân danh cho nhà
nước, thay mặt cho nhà nước thực hiện việc đó.
Có thể thấy nguyên tắc chỉ có nhà nước mới là chủ thể của việc xác lập chủ
quyền lãnh thổ được thừa nhận ngay trong chính định nghĩa về chiếm hữu, đó là
“hành động của một quốc gia thiết lập và thực hiện quyền lực…”. Ngồi ra,
trong bản án ngày 11-02-1902 của Tịa án dân sự Liberville khi xét xử vụ tranh
chấp giữa Societe de L’Ogioué và Hatton - Cookson có ghi nhận rằng: “Một vấn
đề có tính nguyên tắc trong luật pháp quốc tế là chủ quyền chỉ dành riêng cho
Nhà nước và những cá nhân bình thường khơng thể thực hiện được một sự
chiếm hữu”1.
Từ định nghĩa, có thể xác định được đối tượng của phương thức thụ đắc
lãnh thổ bằng chiếm hữu là lãnh thổ vô chủ (Terra Nullius) hoặc lãnh thổ bị bỏ
rơi (Terra derelict).
Lãnh thổ vô chu được hiểu theo nhiều cách, tùy thuộc vào từng giai đoạn
khác nhau. Đối với các nước thực dân trước đây với phương thức chiếm hữu
nhằm phục vụ cho mục đích xâm lược và bành trướng lãnh thổ thì lãnh thổ vơ
chủ được hiểu là lãnh thổ tuy có người ở nhưng chưa có một tổ chức nhà nước
nào. Vào trước thế kỷ XIX, theo cách hiểu của luật gia phương Tây thì một lãnh
thổ bị coi là vô chủ trong trường hợp tuy nó đã có cư dân bản địa (thổ dân) song
khơng có một thiết chế nhà nước nào hoặc có nhưng bị coi là có nền văn minh
1 Triệu Thành Nam, Thụ đắc lãnh thổ trong luật pháp quốc tế và tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa,


Trường sa, Luận văn tốt nghiệp, Học viện quan hệ quốc tế - Bộ môn Luật, tr7.
12


thấp hơn tiêu chuẩn lúc bấy giờ ở Châu Âu 2. Ví dụ với hòn đảo Puerto Rico, ban
đầu là những cộng đồng da đỏ bản địa sinh sống và trong đó có người Taino với
một nền văn hóa khá phát triển. Đến năm 1493 khi Christopher Columbus đặt
chân đến hịn đảo này thì nó nhanh chóng được sáp nhập thành một thuộc địa
của Đế chế Tây Ban Nha, những người dân da đỏ dần bị giết, hoặc bị bắt làm nô
lệ.
Ngày nay, với sự phát triển và tiến bộ của luật pháp quốc tế hiện đại, quan
điểm sai lầm về lãnh thổ vô chủ trên đã được bác bỏ, và việc giành chủ quyền
trên một lãnh thổ có dân cư phải dựa trên một trong những nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế hiện đại, đó là quyền dân tộc tự quyết. Với ngun tắc đó, lãnh
thổ vơ chủ có thể được hiểu là lãnh thổ chưa thuộc chủ quyền của bất kì quốc
gia nào.
Lãnh thở bị bỏ rơi là vùng lãnh thổ trước kia đã từng được chiếm hữu và
trở thành lãnh thổ của một quốc gia, nhưng sau đó vì lí do nào đó mà quốc gia
chiếm hữu đã từ bỏ chủ quyền của mình đối với vùng lãnh thổ này (tức không
thực hiện chủ quyền trên lãnh thổ này nữa). Ví dụ: Đảo Saint Martin thuộc
Trung Mỹ do Tây Ban Nha chiếm hữu từ giữa thế kỷ XVII nhưng vì khơng có
khả năng tổ chức quản lý nên họ đã quyết định từ bỏ quyền chiếm hữu của mình
và nó trở thành vơ chủ. Sau đó, người Pháp và người Hà Lan đã đến chiếm và
tuyên bố thiết lập chủ quyền của nước họ trên đảo này.
Theo G.Cohen: “Trong luật quốc tế, tình trạng lãnh thổ bị bỏ rơi là kết quả
của hai yếu tố: về mặt vật chất là sự khơng có mặt của chính quyền thực sự trên
lãnh thổ được xét, về mặt tinh thần là sự chủ tâm từ bỏ lãnh thổ đó”. Từ đây, có
thể xét một lãnh thổ được coi là lãnh thổ bị bỏ rơi khi có đủ hai yếu tố: thứ nhất,
quốc gia chiếm hữu đã chấm dứt mọi hoạt động thực hiện quyền trên thực tế đối

với lãnh thổ đó; thứ hai, quốc gia đã từ bỏ khơng có biểu hiện nào muốn khơi
phục lại chủ quyền của mình.
Các phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng chiếm hữu bao gồm:
13


Thuyết phát hiện đầu tiên: Thuyết phát hiện đầu tiên được hình thành từ
lâu trong lịch sử (khoảng từ thế kỷ XVI), cùng với các cuộc phát kiến địa lí.
Theo đó, quốc gia nào tìm ra hoặc khai phá được một vùng đất hoặc một khu
vực địa lý mà chưa từng được biết đến trước đó thì được xác lập chủ quyền lãnh
thổ đối với nơi đó.
Thuyết chiếm cứ tượng trưng: Với thuyết phát hiện đầu tiên, các quốc gia
phát hiện ra vùng lãnh thổ mới rất khó khăn trong việc xác lập chủ quyền lãnh
thổ do khó để xác nhận việc phát hiện đồng thời xác định giá trị pháp lí của việc
phát hiện ra một vùng lãnh thổ mới trong khi quốc gia phát hiện khơng có những
hoạt động chứng tỏ chủ quyền. Do đó, để xác nhận việc một quốc gia nào đó đã
phát hiện ra một vùng lãnh thổ mới, có thể là vùng lãnh thổ vơ chủ hoặc bị bỏ
rơi thì quốc gia đó phải có những hành vi xác lập chủ quyền bằng cách để lại
những dấu vết của mình trên vùng lãnh thổ mà họ phát hiện. Quốc gia đó có thể
thực hiện các hoạt động thực tế trên vùng lãnh thổ đó như cắm cột mốc, cờ của
quốc gia mình trên vùng lãnh thổ đó, hoặc xây dựng bia chủ quyền, để lại những
vật có ý nghĩa tượng trưng cho quốc gia mình,… Và sau khi phát hiện ra một
vùng lãnh thổ mới, các quốc gia phát hiện đã thực hiện những hành vi tượng
trưng để thể hiện cho việc xác lập chủ quyền của mình đối với vùng lãnh thổ đó
được gọi là thuyết chiếm hữu tượng trưng. Thuyết chiếm cứ tượng trưng tồn tại
từ thế kỉ XVI đến cuối thế kỷ XIX.
Tuy nhiên, theo thời gian, thuyết chiếm hữu tượng trưng đã bộc lộ ngày
càng rõ ràng những nhược điểm của nó, ở chỗ: các dấu vết mà quốc gia phát
hiện đặt mang tính thụ động, chúng bị hao mòn theo thời gian nên về lâu dài,
những dấu vết đó sẽ mất đi và khơng cịn dấu vết chứng minh cho việc xác lập

chủ quyền, hoặc với những dấu vết đó thì khơng thể xác định được phạm vi chủ
quyền lãnh thổ mà quốc gia phát hiện xác lập. Chính vì những điều đó mà có
những quốc gia hoặc vơ tình hoặc cố ý lại tiếp tục xác lập chủ quyền trên những
vùng lãnh thổ mà quốc gia khác đã chiếm hữu dẫn đến việc xảy ra các tranh
chấp chủ quyền gay gắt.
14


Thuyết chiếm cứ hữu hiệu: Với những hạn chế ở nguyên tắc chiếm cứ
tượng trưng, làm cho việc phát hiện của các quốc gia dù đã để lại dấu vết trên
một vùng lãnh thổ mới thì cũng chỉ đem lại chủ quyền cho quốc gia đó một cách
tạm thời và chưa hồn chỉnh. Do đó, các quốc gia phát hiện ra vùng lãnh thổ mới
muốn được xác lập chủ quyền thì phải thật sự có chiếm hữu thực tế trên vùng
lãnh thổ đó, và đây được gọi là thuyết chiếm hữu thực sự. Theo đó, các hành vi
được coi là chiếm hữu thực sự cần thỏa mãn các điều kiện nhất định sau:
Một là, việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do nhà nước tiến hành. Tuy
nhiên, vẫn có một số học giả cho rằng cá nhân cũng có quyền xác lập chủ quyền
lãnh thổ. Để chứng minh điều đó, họ đã đưa ra những học thuyết mơ hồ và chính
các học thuyết này cũng khơng có bất kỳ một lời khẳng định nào là cá nhân có
quyền xác lập chủ quyền lãnh thổ mà chỉ nêu chung chung rằng cá nhân chỉ có
một vai trị nhất định nào đó mà thơi.
Như phần chủ thể thụ đắc lãnh thổ bằng chiếm hữu đã nêu trên, chỉ những
hành động nhân danh quốc gia, được quốc gia ủy quyền mà không phải là hành
động của tư nhân mới được coi là hành động hợp pháp làm cơ sở pháp lý cho
việc xác lập chủ quyền. Một cá nhân khơng có quyền thiết lập chủ quyền trên
một vùng lãnh thổ, dù cho lãnh thổ đó là đối tượng của việc chiếm hữu thực sự
do khi xét đến các chủ thể của luật quốc tế thì chỉ bao gồm các dân tộc đang đấu
tranh giành quyền dân tộc tự quyết, các quốc gia, các tổ chức quốc tế liên chính
phủ (liên quốc gia) và một số chủ thể đặc biệt (Hồng Kông, Ma Cao, Trung
Quốc, Tịa thánh Vatican), mà khơng bao gồm cá nhân. Chính vì khơng phải là

một chủ thể của luật quốc tế nên cá nhân khơng thể có chủ quyền.
Ví dụ, trong vụ tranh chấp biên giới giữa Guyan thuộc Anh và Brazil, trọng
tài đã đưa ra nhận định: “Muốn đạt chủ quyền trên một vùng chưa hề thuộc về
quốc gia nào, nhất thiết phải thực hiện chiếm hữu nhân danh nhà nước, tuyên bố

15


chiếm hữu này chỉ được coi là hoàn thành khi có sự chiếm hữu một cách thực sự
liên tục và bền vững nhân danh nhà nước”2.
Hai là, việc chiếm hữu phải được tiến hành trên một vùng lãnh thổ vô chủ
hoặc trên vùng lãnh thổ đã bị bỏ hoang. Cũng như phần trên đã phân tích, đối
tượng của phương thức thụ đắc lãnh thổ bằng chiếm hữu chỉ có thể là lãnh thổ
vô chủ hoặc lãnh thổ bị bỏ rơi, và hai đối tượng này đơn nhiên cũng là hai đối
tượng của việc chiếm hữu thực sự. Nếu một quốc gia thực hiện việc chiếm hữu
đối với một vùng lãnh thổ đã thuộc chủ quyền của một quốc gia khác thì khơng
được xác lập chủ quyền theo thuyết chiếm hữu thực sự.
Ba là, quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình một cách hiệu
quả, thích hợp với những điều kiện tự nhiên, dân cư ở trên vùng lãnh thổ đó.
Điều này nghĩa là quốc gia phát hiện phải thiết lập một cơ chế nhà nước cần
thiết để thi hành pháp luật nhằm mục đích kiểm soát, quản lý hoặc bảo vệ lãnh
thổ chiếm hữu; bên cạnh đó, quốc gia này cần đưa dân cư của mình đến đó sinh
sống, xây dựng nền kinh tế, văn hóa mang đặc trưng quốc gia, đưa vùng lãnh thổ
này vào bản đồ hành chính của quốc gia mình hoặc thực hiện các hành vi pháp lí
liên quan đến lãnh thổ như cho phép hoặc không cho phép khai thác tài nguyên,
thu thuế,…
Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ như đối với một vùng lãnh thổ có
điều kiện tự nhiên khó khăn, khơng có người ở hoặc ít khi có người đến việc
chiếm hữu có hiệu lực nếu quốc gia chiếm hữu có phương tiện thường xuyên lui
tới lãnh thổ để quản lý, kiểm sốt thì cũng được xác lập chủ quyền. Hoặc đối với

vùng đất khơng có đại diện nhà nước thường xuyên vẫn được xác lập chủ quyền
nếu đã được các văn bản pháp lý chính thức xác nhận quyền chiếm hữu, và đã
có những hành động thực hiện chủ quyền thực sự rõ ràng. Ví dụ như vụ Đơng
Greenland giữa Đan Mạch và Na Uy, Tịa án quốc tế đã công nhận chủ quyền
của Đan Mạch đối với Đông Greenland mà không phải là Na Uy mặc dù trước
2 Xem vụ Deslimitatiin frontalière entre la Guyane britanique et le Bresil, sentence arbitral du 6 juin

1994, R.G.D.I.P, tr.18.
16


đó ở vùng đất này khơng có người dân Đan Mạch với kết luận: “Có ý định hành
động với tư cách là người có chủ quyền lãnh thổ và có sự thực hiện trên thực tế
quyền lực nhà nước là đủ”.
Bốn là, việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền phải hịa bình, liên tục, rõ
ràng; dùng vũ lực để xâm chiếm là phi pháp và không được thừa nhận. Như vậy,
quốc gia muốn xác lập chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ mới thì cần thực
hiện các chức năng nhà nước trên vùng lãnh thổ chiếm hữu một cách liên tục, vì
nếu việc thực hiện bị gián đoạn trong một khoảng thời gian dài mà không khôi
phục lại thì có thể bị coi là quốc gia đó từ bỏ lãnh thổ này. Tuy nhiên, chiếm hữu
phải có tính liên tục khơng đồng nghĩa với việc phải có ln tính định kỳ đều
đặn, tức khoảng cách giữa các hành động thực hiện chủ quyền đối với vùng lãnh
thổ đã chiếm hữu có thể khác nhau phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể, kể cả
vị trí của vùng lãnh thổ và tình hình dân cư ở đó. Như trọng tài Max Huber đã
nhấn mạnh: “Mặc dù liên tục về nguyên tắc, chủ quyền không thể thực hiện trên
thực tế vào tất cả mọi lúc, ở mọi điểm trên lãnh thổ. Tính lẻ tẻ và không phù hợp
với việc duy trì các quyền đã có, khơng giống nhau tùy theo đó là vùng có người
ở hay khơng có người ở, hoặc vùng bao quanh bởi một lãnh thổ khác trên đó có
chủ quyền của một nhà nước khác, hay là những vùng xung quanh là biển”.
Khi thực hiện chiếm hữu phải công khai, được thông báo rộng rãi để các

quốc gia khác biết. Tuy nhiên, trong thời kỳ lịch sử, do sự hạn chế về phương
tiện thông tin nên việc cơng khai rộng rãi rất khó khăn, do đó, các quốc gia chỉ
công khai các sự kiện chiếm hữu bằng gián tiếp hoặc tay đơi. Ngồi ra, việc
chiếm hữu phải được thực hiện trên cơ sở hịa bình, khơng xảy ra tranh chấp,
không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, dùng vũ khí để xâm lấn, tước đoạt,
chiếm giữ lãnh thổ của nước khác.
Xem xét vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Tây Ban Nha và Hà Lan thì nhận
thấy được rằng: Đảo Palmas do Tây Ban Nha phát hiện từ thế kỷ XVI và năm
1666 Tây Ban Nha rút bỏ hồn tồn và khơng quan tâm đến đảo nữa. Đến năm
1677, Công ty Đông Ấn của Hà Lan đến chiếm đảo và ký một số Hiệp nghị và
17


văn kiện với các tù trưởng người địa phương. Từ năm 1795, đảo Palmas do Hà
Lan chiếm hữu. Khi phán xét, Tây Ban Nha đã được trọng tài Max Huber công
nhận Tây Ban Nha là nước đầu tiên phát hiện ra đảo Palmas. Tuy nhiên, việc
Tây Ban Nha là quốc gia đầu tiên phát hiện ra đảo Palmas không đủ làm căn cứ
pháp lý để Tây Ban Nha xác lập chủ quyền do Tây Ban Nha đã không thực hiện
việc chiếm hữu thực sự trên thực tế và đã không thực thi chủ quyền một cách
liên tục, rõ ràng, đồng thời khơng thực thi chủ quyền của mình một cách hiệu
quả. Do đó, khi xem xét các hành động của Tây Ban Nha, trọng tài đã nhận xét:
“Khơng có bất kỳ tài liệu chính thức nào đề cập đến đảo Palmas được đặt dưới
nền hành chính hoặc tư pháp một huyện của Chính phủ Tây Ban Nha trước đây
ở Philippines”. Vì vậy, mặc dù được Trọng tài cơng nhận là quốc gia đầu tiên
phát hiện hòn đảo Palmas nhưng danh nghĩa ban đầu chưa tạo ra danh nghĩa chủ
quyền hoàn chỉnh. Và đến khi Tây Ban Nha chuyển nhượng Philippines cho Hoa
Kỳ theo Hiệp ước Paris 1898 thì chủ quyền Tây Ban Nha trên hòn đảo Palmas
quá mờ nhạt, và kết quả là Tây Ban Nha không thể chuyển giao đảo Palmas vì
lãnh thổ đó khơng thuộc chủ quyền của Tây Ban Nha. Với kết quả đó là nhận xét
của trọng tài Max Huber: “Hiển nhiên Tây Ban Nha không thể chuyển giao

nhiều hơn những quyền mà mình có”3. Như vậy, các quốc gia chỉ được xác lập
chủ quyền trên lãnh thổ mới khi đáp ứng đủ 4 điều kiện đã nêu trên theo thuyết
chiếm cứ hữu hiệu.
2.5.

Thụ đắc lãnh thổ bằng phương pháp kề cận địa lý.

Thực tiễn pháp lý quốc tế đã chỉ ra rằng, tính kế cận về mặt địa lý chưa bao
giờ được coi là danh nghĩa tạo nên chủ quyền quốc gia, mặc dù đã có những
quốc gia địi hỏi danh nghĩa chủ quyền của mình xuất phát từ tính kế cận về địa
lý như trường hợp lập luận của Arhentina đối với quần đảo Manvinát,
Philippines đối với quần đảo Trường Sa… Bản chất pháp lý của thụ đắc lãnh thổ
là việc xác lập chủ quyền trên một lãnh thổ nhất định mà tính kế cận thì khơng
3 Xem “Gía trị của phán quyết vụ Đảo Palmas (Miagas) - liên hệ với quá trình xác lập chủ quyền của

Việt Nam trên Quần đảo Hoàng sa và Trường sa - Phạm Vũ Thắng (Thanh tra VKSND tối cao).
18


thể tạo ra bất cứ danh nghĩa gì cho quốc gia nơi có lãnh thổ ở gần nhất, khi mà
quốc gia ấy lại không thực hiện bất cứ hoạt động gì để xác lập chủ quyền của
mình. Giá trị của tính kế cận về địa lý chỉ là khả năng xác lập chủ quyền quốc
gia trên lãnh thổ có phần thuận lợi hơn so với các quốc gia khác. Còn nếu dựa
trên yếu tố kề cận địa lý mà lãnh thổ thuộc về quốc gia gần nhất thì sự thụ đắc
này phải được giải quyết trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên, bởi để được coi là
một đơn vị địa lý thống nhất, các vùng đất phải thỏa mãn nhiều điều kiện chặt
chẽ về khoảng cách tự nhiên, điều kiện khí hậu và các điều kiện khác như điều
kiện văn hóa – xã hội, kinh tế, chính trị, lịch sử.
Cụ thể: Arhentina đã nói rằng quần đảo Man-vi-nát cách bờ biển Arhentina
khoảng 480 km và cách Anh gần 13 nghìn km, sau khi giành độc lập từ Tây Ban

Nha, Arhentina đã chính thức tuyên bố chủ quyền với quần đảo này năm 1820.
Phía Anh khẳng định, họ đã thiết lập quyền kiểm soát quần đảo Man-vi-nát từ
năm 1765. Sau đó, Anh rút các cơ sở kinh tế khỏi quần đảo Man-vi-nát năm
1774, nhưng chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền với vùng lãnh thổ này. Năm 1833,
Anh đưa quân đội chiếm lại quần đảo và điều hành vùng lãnh thổ này với
khoảng 3.000 cư dân cho đến nay. Tháng 4-1982, quân đội Arhentina đã tiến
công căn cứ đồn trú của Anh và kiểm soát quần đảo hơn hai tháng, nhưng sau đó
bị Hải quân Anh đánh bại. Tuy nhiên, Arhentina chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền ở
đây và điều này đã được khẳng định trong Hiến pháp. Đến nay cả 2 bên vẫn
chưa giải quyết được tranh chấp nhưng với lập luận liền kề của Arhentina chắc
chắn sẽ không được chấp nhận mà phải xem xét sự thực tế chiếm hữu của các
bên đối với quần đảo Man-vi- nát.
2.6.

Thụ đắc lãnh thổ qua xâm lược

Luật quốc tế hiện đại khơng thừa nhận nó là phương thức thụ đắc lãnh thổ
nhưng thực tế lịch sử đây là một phương thức mà các quốc gia đã dùng để mở
rộng lãnh thổ của mình. Như trong lịch sử thì nước Mơng cổ thường xuyên dùng
tiềm lực của mình xâm chiếm các quốc gia khác; đến thời hiện đại, Pháp, Mỹ
cũng thường xuyên mở các cuộc xâm lăng để mở rộng bờ cõi tiêu biểu như
19


những cuộc xâm lăng đến đất nước Việt Nam chúng ta gây nên hơn nửa thế kỉ
Việt nam ta bị đô hộ…

III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THỤ ĐẮC LÃNH
THỔ
1. Áp dụng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ giải quyết các tranh chấp trên

thế giới
Trên thế giới đã xảy ra rất nhiều tranh chấp về lãnh thổ giữa các quốc gia
với nhau và sử dụng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ để giải quyết các tranh chấp
này. Tiêu biểu có thể kể đến đó là:
Tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan. Theo Hiệp ước Paris 1898
giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha được ký sau khi Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ kết
thúc với thắng lợi thuộc về Hoa Kỳ, Tây Ban Nha phải chuyển giao quyền cai trị
Philippines cho Hoa Kỳ. Căn cứ vào các tọa độ ghi trong Hiệp định Paris thì đảo
Palmas nằm trong phạm vi lãnh thổ của Philippines. Tuy nhiên khi thăm đảo lần
đầu tiên một tướng Mỹ đã phát hiện trên đảo cắm cờ Hà Lan và đảo được tuyên
bố thuộc về lãnh thổ Hà Lan. Sau đó, Hoa Kỳ và Hà Lan trao đổi với nhau về
vấn đề này nhưng không giải quyết được nên hai bên nhất trí đưa vụ tranh chấp
ra trước trọng tài thường trực La Haye bằng thỏa thuận ngày 23 tháng 1 năm
1925. Về kết quả của vụ tranh chấp này là đảo Palmas là lãnh thổ thuộc sở hữu
của Hà Lan.
Trong trường hợp tranh chấp, danh nghĩa có được dựa trên sự chiếm hữu
thực tế bao giờ cũng có giá trị hơn danh nghĩa có được trên sự phát hiện, chinh
phục, chuyển nhượng… Phán quyết trong vụ đảo Palmas nêu rõ: "Nếu một tranh
chấp nảy sinh về chủ quyền trên một lãnh thổ, ta thường xem xét bên tranh chấp
nào có danh nghĩa – chuyển nhượng, chinh phục, chiếm hữu… có giá
trị hơn danh nghĩa mà bên kia có thể đưa ra. Tuy nhiên, nếu một bên dựa trên
luận điểm là đã thực hiện chủ quyền một cách thực sự, còn bên kia chỉ dựa trên
một danh nghĩa mà nhờ nó đã đạt được chủ quyền quốc gia một cách hợp pháp
20


vào một thời điểm nào đó thơi thì chưa đủ; còn cần phải chứng tỏ rằng chủ
quyền quốc gia tiếp tục tồn tại và đã tồn tại vào thời điểm được coi là có ý nghĩa
quyết đinh đối với việc giải quyết tranh chấp. Điều này thể hiện trong việc thực
hiện thực sự những hoạt động nhà nước chỉ thuộc về Nhà nước chủ quyền lãnh

thổ mà thôi ".
Tây Ban Nha không thể chuyển nhượng hợp pháp cái mà họ khơng sở hữu.
Mặc dù họ có nắm giữ quyền sở hữu ban đầu khi khám phá đảo, nhưng sau đó
khơng thực thi quyền lực thực sự với đảo nên đòi hỏi của Hoa Kỳ là yếu ớt, mờ
nhạt và không được chấp nhận. Ngược lại các hoạt động của Hà Lan đối với đảo
Palmas là đặc trưng quyền lực của nhà nước, nó diễn ra trong hịa bình bởi
khơng có xung đột nào giữa các quốc gia, nó liên tục trong suốt thời gian dài,
mặc dù cũng có những khoảng trống nhất định cụ thể từ năm 1726 đến năm
1825. Như vậy có thể thấy được để giải quyết vụ tranh chấp trên thẩm phán ở
đây đã áp dụng các điều kiện của phương thức chiếm cứ hữu hiệu khi kết luận
rằng sau khi Tây Ban Nha chấm dứt chủ quyền đối với đảo này, nó đã trở thành
vơ chủ. Hà Lan đã chiếm hữu đảo và tổ chức quản lý kiểm sốt thực sự, cơng
khai, liên tục.
Trong vụ này Trọng tài quốc tế đã kết luận chủ quyền trên đảo Palmas
thuộc về Hà Lan do nước này đã thực hiện chiếm hữu thực sự, mặc dù Tây Ban
Nha đã phát hiện ra hòn đảo này.
2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ giải quyết tranh
chấp ở biển Đơng
Việt Nam nằm trên bờ Biển Đơng, có chủ quyền với hàng ngàn hòn đảo và
quần đảo gần bờ, xa bờ, trong đó có những quần đảo như quần đảo Hoàng Sa
cách bờ biển tới trên 150 hải lý, quần đảo Trường Sa cách bờ khoảng 250 hải lý.
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về lãnh thổ Việt Nam từ lâu đời.
Tuy nhiên, vấn đề tranh chấp chủ yếu về biên giới lãnh thổ và chủ quyền giữa
Việt Nam và các quốc gia láng giềng bao gồm Trung Quốc, Philippin, Malaysia,
21


Brunei vẫn diễn ra với biển Đông và hai quần đảo này, vấn đề này đã làm phức
tạp hóa trong quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia có liên quan, gây ảnh hưởng
đến an ninh khu vực và trên thế giới. Thực chất, Việt Nam tuyên bố chủ quyền

với Trường Sa và Hoàng Sa bằng phương thức chiếm cứ hữu hiệu, nguyên tắc
ưu việt nhất, đã và đang được quốc tế thống nhất sử dụng rộng rãi. Ở đây, nhóm
cũng hướng làm rõ nguyên tắc này trong việc giải quyết tranh chấp ở Biển
Đông? Vậy thực tiễn áp dụng phương thức này trong giải quyết các bất đồng
trên biển Đông và hai quần đảo giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng như
thế nào? Các quốc gia liên quan đều mong muốn xác lập chủ quyền của mình
đối với vùng biển này nhưng quốc gia nào mới thật sự là chiếm hữu thực sự, xác
lập chủ quyền đầu tiên?
Đối với Việt Nam, ngay từ đầu thế kỷ XVII, khi quần đảo Hồng Sa và
Trường Sa cịn vơ chủ, bằng những hành động thực của mình, nhà nước Đại Việt
thời chúa Nguyễn đã tổ chức các đội “Hoàng Sa”, “Bắc Hải”, thực hiện việc
tuần phòng, đánh bắt hải sản quý hiếm; đo vẽ sơ đồ, hải trình và tiến hành trồng
cây, dựng mốc trên hai quần đảo này. Đến thời Tây Sơn, mặc dù ln có chiến
tranh nhưng chính quyền nhà nước vẫn tổ chức các đội: “Hoàng Sa”, “Quế
Hương”, “Đại Mạo” và “Hải Ba”, hoạt động theo thông lệ cũ mà không gặp bất
cứ trở ngại hay phản đối từ bất kì nhà nước nào. Với các triều đại tiếp theo, nhà
nước Đại Việt thời chúa Nguyễn tiếp tục phái các đội ra quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa dựng bia chủ quyền, đo đạc thủy trình, trồng cây và vẽ bản đồ khu
vực.
Điều đáng chú ý là, tất cả các hoạt động đó đều do triều đình phong kiến tổ
chức, được các văn bản nhà nước ghi nhận, hiện còn lưu giữ khá đầy đủ cả ở
trong nước và quốc tế.Việc chiếm cứ của Việt Nam được sự thừa nhận của các
quốc gia, bằng những chứng cứ cụ thể: nhiều tài liệu, sách vở, bản đồ của các
quốc gia khác, kể cả Trung Quốc như Hải ngoại ký sự (1696), An Nam đại quốc
họa đồ (1838)… đã trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận điều đó như cuốn Hải lục
(1842) viết: “Vạn lý Trường Sa là đất nối giữa biển, dài vài ngàn dặm, là phên
22


dậu của An Nam”. Các tài liệu sử sách này đều ghi lại việc các chính quyền

phong kiến Việt Nam đã dựng bia chủ quyền, sáp nhập hai quần đảo Hồng sa
và Trường sa (khi đó được gọi bằng nhiều tên như Bãi Cát Vàng, Vạn lý Hoàng
Sa, Đại Trường Sa…) vào lãnh thổ của mình, thiết lập bộ máy quản lý và khai
thác (đó là các đội Hồng Sa, Bắc Hải). Mặt khác tiến hành nhiều cuộc đo đạc,
lập hải trình, cắm mốc, đánh dấu, lập bia, xây miếu, trồng cây cối trên hai quần
đảo này…Đây chính là những biểu hiện cụ thể cho một sự chiếm cứ thực sự của
Việt Nam.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, với tư cách đại diện về quyền và lợi ích hợp
pháp của Việt Nam, Chính quyền thuộc địa Pháp đã tiến hành các hoạt động
quản lý, bảo vệ và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa qua các hoạt động: điều tra khí hậu, thổ nhưỡng, nghiên
cứu mỏ (1925 - 1927); đưa quân ra đồn trú ở Hoàng Sa (1930 - 1933) và xây
dựng các ngọn hải đăng, trạm khí tượng (1938),…
Trong các hội nghị quốc tế về sau này, như hội nghị tại San Francisco (Mỹ)
năm 1951, khi Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với Hồng Sa và Trường Sa,
khơng có sự phản đối từ bất kì quốc gia nào. Mà theo luật quốc tế, điều đó thể
hiện sự thừa nhận hồn tồn.
Cùng với đó, sau năm 1954, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa do chính thể Việt Nam cộng hòa quản lý, bảo vệ. Tuy nhiên, lợi
dụng lúc Việt Nam có chiến tranh và gặp khó khăn, các thế lực nước ngoài đã sử
dụng vũ lực chiếm đóng trái phép quần đảo Hồng Sa và một số thực thể của
quần đảo Trường Sa. Đây là hành động trái với nguyên tắc pháp lý và quyền thụ
đắc lãnh thổ trong luật pháp và thực tiễn quốc tế với hai quần đảo mà Việt Nam
đang nắm giữu chủ quyền. Năm 1975, cùng với tiến trình giải phóng miền Nam,
Qn đội nhân dân Việt Nam đã giải phóng hầu hết các đảo (do qn đội Sài
Gịn đóng giữ) thuộc quần đảo Trường Sa, thực hiện thống nhất đất nước. Liên
tục từ đó đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm
23



pháp luật khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận không thể
tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Đặc biệt, trong từng giai đoạn lịch sử, chính quyền nhà nước Việt Nam đều
tổ chức Hoàng Sa, Trường Sa thành các đơn vị hành chính nhà nước để quản lí
và điều hành. Hiện nay, huyện đảo Hoàng Sa là đơn vị hành chính trực thuộc
thành phố Đà Nẵng; huyện đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Khánh Hòa với một
thị trấn và hai xã đảo.
Với chủ quyền của hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa, Việt Nam phản
đơí bất kì quốc gia nào xâm phạm sự độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
đối với hai quần đảo này. Cụ thể là vào tháng 5/2014, khi Trung Quốc kéo giàn
khoan Hải Dương 981 tới vị trí cách đảo Tri Tơn thuộc quần đảo Hồng Sa của
Việt Nam 17 hải lý về phía nam, cách đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam)
khoảng 120 hải lý về phía đơng. Đây là vị trí nằm hồn tồn trong vùng đặc
quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật
Biển. Để đáp trả lại hành động từ phía Trung Quốc, người phát ngôn Bộ Ngoại
Giao Lê Hải Bình tun bố khơng chấp nhận những hành động từ phía Trung
Quốc .Việt Nam cũng công khai phản đốiTrung Quốc trong các hội nghị quốc tế
như tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 24 ở Myanma, đối thoại ShangriLa ở Singapore… và được cộng đồng quốc tế ủng hộ. Cùng với đó là các hành
động thực tiễn của lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam tích cực tuyên
truyền, kêu gọi Trung Quốc chấm dứt ngay hành vi vi phạm pháp luật quốc tế,
rút giàn khoan ra khỏi vùng biển Việt Nam. Sau hơn 2 tháng 75 hạ đặt trái phép
bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, dưới sức ép quyết liệt từ phía
cộng đồng quốc tế, Trung Quốc cũng đã phải chấm dứt hành vi vi phạm luật
pháp quốc tế của mình và rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng biển Việt
Nam. Phản ứng của Việt Nam cho thấy Việt Nam không thừa nhận sự xâm phạm
bất hợp pháp từ Trung Quốc. Đồng thời Việt Nam đã, đang và sẽ khơng từ bỏ
chủ quyền của mình với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

24



Áp dụng nguyên tắc nói trên của pháp luật quốc tế vào trường hợp hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý đều cho
thấy rằng các Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thực sự hai quần đảo này hàng
trăm năm qua. Đồng thời có chủ quyền thực tế và hợp pháp với hai quần đảo
này.
Về phía Trung Quốc, Trung Quốc cũng cho rằng họ đã phát hiện ra hai
quần đảo này và chiếm hữu, khai thác từ lâu đời. Tuy nhiên phần lớn bằng
chứng đưa ra thiếu thuyết phục, chỉ đủ để khẳng định đã có một số hoạt động
kinh doanh nhỏ, tránh bão, cứu hộ, ... của ngư dân và thương nhân, chứ hồn
tồn khơng đề cập đến sự hiện diện và cai quản của các triều đại Trung Quốc.
Các lập luận như lập luận về "sự tiếp nhận hai quần đảo từ tay quân đội Nhật
Bản", hay việc các học giả Trung Quốc dẫn lời của luật gia nổi tiếng người Anh
D.P O Connell cho rằng “bản thân hành động của cá nhân không cấu thành hành
vi chiếm hữu nhưng nếu khơng có hành động của cá nhân thì khơng thể có việc
chiếm hữu”. Các lập luận này hoàn toàn mơ hồ, trái với sự thật và cũng khơng
có cơ sở pháp lí.
Để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo này, Trung Quốc
đã thực hiện nhiều hoạt động phi pháp như: Ngày 14 tháng 3 năm 1988, hải
quân Trung Quốc dùng vũ lực để chiếm các đảo ở Trường Sa. Họ đã bắn chìm
ba tàu vận tải của hải quân Việt Nam. Kết quả 74 chiến sĩ Hải quân Nhân dân
Việt Nam tử nạn giữa biển khơi, sau đó Trung Quốc chiếm giữ sáu đảo nhỏ
trong một vùng từng nằm dưới sự quản lý của Việt Nam. Vào tháng 4 năm 2007
đã bắt 41 ngư dân Việt Nam và chỉ trả tự do cho họ sau khi những người này
nộp phạt. Đến ngày 9 tháng 7 tàu Hải quân Trung Quốc đã nã súng vào một số
thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam trong vùng biển gần Trường Sa, cách
Thành phố Hồ Chí Minh 350 km làm chìm một thuyền đánh cá của Việt Nam, ít
nhất một ngư dân thiệt mạng và một số người khác bị thương. Nguyên nhân
chính dẫn tới các mâu thuẫn gữa hai nước là trữ lượng trên 600 triệu thùng của


25


×