Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Khai thác truyện đồng thoại vào việc rèn luyện kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.05 KB, 6 trang )

Khoa Giáo dục Tiểu học,
Trƣờng Đại học Quy
Nhơn
Điện thoại: 0914068320

TS. LÊ NHẬT KÝ

Email:


KHAI
THÁC
TRUYỆN
ĐỒNG
THOẠI VÀO VIỆC
RÈN LUYỆN KĨ
NĂNG LÀM VĂN
MIÊU TẢ CHO HỌC
SINH TIỂU HỌC

TÓM TẮT
Để khai thác hiệu quả truyện đồng thoại, chúng ta cần xây dựng một bộ văn
tuyển và hệ thống bài tập rèn luyện thích ứng. Các bài tập đó xoay quanh mục đích giúp
học sinh biết nhận diện các đoạn văn miêu tả; từ ngữ và các biện pháp miêu tả; cái riêng
của từng tác giả khi miêu tả về cùng một đối tƣợng… Công việc này khơng đơn giản,
địi hỏi ngƣời thầy phải thực sự vững nghề và đam mê văn chƣơng.
Từ khóa: truyện đồng thoại, kĩ năng, miêu tả

ABSTRACT
The Usage of Children’s Story in Training Skill How to Make a Descriptive
Writing for Primary School Students


To exploit efficiently the Children‟s story, we need to build a collection of
documents and sensible training exercises. The purpose of those training exercises is to
help children identify not only the descriptive paragraphs, words, methods but also the
author‟s unique style when they describe the same object…This work requires teachers
to be professional and strongly passionate for literature. It‟s clear that this work isn‟t
simple!
Key words: Children‟s story, skill, describe

Trong nhiều năm trở lại đây, chúng tơi có để tâm nghiên cứu về truyện đồng
thoại Việt Nam hiện đại [4]. Theo nhìn nhận của chúng tôi, thể truyện này là một tham
615


khảo tốt đối với học sinh trong quá trình rèn luyện kĩ năng làm văn miêu tả, cụ thể là
miêu tả loài vật, đồ vật và cảnh vật.
Chúng ta đều biết, thể văn miêu tả đƣợc dạy ở cả bậc tiểu học lẫn trung học cơ
sở. Do độ khó cao nên hầu hết học sinh lúng túng, khó khăn khi thực hiện các bài viết
theo yêu cầu của chƣơng trình. Kết quả, nhiều bài văn miêu tả khơng có… miêu tả, hoặc
miêu tả ngây ngô khiến ngƣời trong cuộc dở khóc dở cƣời, cịn báo chí lợi dụng khai
thác để mua vui thiên hạ.
Tình trạng trên là hệ quả tất yếu từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có
vấn đề kĩ năng làm văn của các em. Nhƣng cội nguồn của kĩ năng lại là vốn sống, vốn
ngôn ngữ, năng lực tƣởng tƣợng và cảm xúc. Trên quan điểm nhƣ vậy, chúng tôi thấy
cần thiết phải sử dụng các tác phẩm văn chƣơng phù hợp nhằm tạo cho các em hứng thú
đọc sách, đồng thời hình thành nhận thức về đặc điểm, giá trị đích thực của nghệ thuật
để từ đó có thể vận dụng, bắt chƣớc.
Kinh nghiệm xƣa nay cho thấy, làm văn – dù miêu tả hay kể chuyện – học sinh
luôn cần đến sự hỗ trợ tích cực từ những trang sách hay. Trong điều kiện lứa tuổi chƣa
thể có nhiều trải nghiệm thực tế thì đọc sách sẽ giúp các em “sống cuộc sống của nhiều
cuộc đời khác nhau và có sự trải nghiệm tốt.

hơn” [2]. Nhờ vậy, quá trình cảm thụ cuộc sống và trình bày suy nghĩ, cảm xúc của bản
thân ở mỗi cá nhân sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Nhà văn Anh Đức, trong câu chuyện Hồi
nhỏ tôi học văn, cho rằng: “…khi còn tuổi nhỏ điều giúp học văn tốt, ấy là nhờ khiếu
năng động với sự đồng cảm của mình trƣớc cuộc sống, con ngƣời ở quanh ta, cộng với
những trang sách hay, hỗ trợ ta rất đắc lực” [8, tr.12]. Nhà văn Ma Văn Kháng cũng
chia sẻ điều tƣơng tự nhƣng nhấn mạnh đến vai trò của thầy cơ, nhà trƣờng: “Những tác
phẩm cổ điển cất tiếng nói dẫn dụ các tâm hồn thơ trẻ, qua sự truyền cảm của các thầy
cô. Thầy cô, nhà trƣờng, ngƣời khơi nguồn, gợi mở, gieo mầm” [8, tr.123]. Có thể nói,
những ý kiến nêu trên, trong bối cảnh văn hóa đọc ở trẻ em đang sa sút, càng đáng đƣợc
lƣu tâm, vận dụng.
Chúng tôi đề xuất tham khảo truyện đồng thoại vì giữa thể loại này và văn miêu
tả (lồi vật, đồ vật, cảnh vật) có nhiều điểm gần gũi, tƣơng đồng. Trƣớc hết, cả hai thể
văn đều lấy loài vật, đồ vật hoặc cây cối làm đối tƣợng phản ánh, miêu tả. Mặt khác,
đồng thoại và văn miêu tả đều sử dụng cái nhìn trẻ thơ hay “cái nhìn đồng thoại”[9] vào
việc cảm thụ thế giới sự vật, hiện tƣợng. Với cái nhìn đầy sức mạnh của trực giác và sự
thành thực tự nhiên của tâm hồn, đồng thoại và văn miêu tả có khả năng đem lại cho
ngƣời đọc những khoái cảm thẩm mĩ bất ngờ. Trong con mắt ngƣời lớn, thế giới lồi
vật, hoa cỏ vốn vơ tri vơ giác nhƣng qua cái nhìn trẻ thơ, chúng lại là những sinh thể có
hồn, vừa là nó, vừa khơng phải chính nó. Về điều này, nhà văn Ngơ Qn Miện có lí khi
viết: “Với cái nhìn hồn nhiên của mình, nhi đồng rất giàu trí tƣởng tƣợng, các em thấy
616


cái gì cũng có hồn ngƣời, từ con chó, con mèo, con chim, con cá, đến cỏ cây hoa lá, và
cả những đồ vật khơng có sức sống nhƣ cái bàn, cái ghế, viên gạch, viên bi” [5, tr.85].
Đúng vậy, cái nhìn đồng thoại khơng những giúp ngƣời viết khám phá đƣợc vẻ đẹp bí
ẩn của thế giới tự nhiên mà cịn tạo ra sự dịch chuyển lí thú, đƣa đối tƣợng miêu tả từ
trƣờng tự nhiên sang trƣờng xã hội khiến cho tác phẩm từ chỗ kể chuyện vật bỗng hoaa
ra lại nói chuyện con ngƣời, nhất là chuyện của trẻ em. Nghệ thuật nhân hóa trong
trƣờng hợp này đã nới rộng nghĩa của hình tƣợng, làm cho tác phẩm thêm phần dồi dào

tình ý…
Minh họa cho điều vừa nói, ở khu vực văn miêu tả, chúng tơi muốn nói đến bài
viết tả tấm lịch treo tƣờng của Hồng Dạ Thi, một học sinh lớp 4 của tỉnh Bình Trị
Thiên (cũ). Bài văn nhƣ sau:
Tết đến, nhà em đƣợc cơ quan mẹ tặng cho một tấm lịch treo tƣờng bằng giấy
bìa tuyệt đẹp. Tấm lịch đó làm em ngắm mãi. Lòng tràn đầy vui sƣớng, em đem treo tấm
lịch trƣớc bàn học của mình.
Tấm lịch in bức ảnh chùa Thiên Mụ, một cảnh đẹp nổi tiếng của xứ Huế. Trên
nền giấy màu xanh da trời, nổi bật lên chiếc tháp bảy tầng. Những tảng mây trắng xốp
tƣởng nhƣ sà thấp xuống dƣới chiếc tháp cao sừng sững ấy. Xung quanh bức tranh lại
đƣợc khuôn một đƣờng viền màu đỏ càng làm cho phong cảnh chùa thêm nổi bật. Phía
dƣới bức tranh ấy là tập lịch dày ôm ấp những tháng, ngày tốt đẹp. Những tờ giấy pơ –
luya trắng tinh, mỏng dính đƣợc gắn lại với nhau bằng một cái vịng xinh xinh màu
trắng. Sờ tay vào đó, em thấy mát rƣợi. Mùi giấy thơm thơm càng làm tăng thêm sự quý
giá của tấm lịch. Cứ mỗi ngày, lịch lại thay một khuôn mặt mới, rạng rỡ và vui vẻ. Vào
ngày chủ nhật, lịch thay chiếc áo giản dị hàng ngày bằng màu sắc đỏ tƣơi, làm ửng
hồng cả trang giấy trắng tinh. Mỗi lần đƣa tay lên bóc tờ lịch, em cảm thấy nhƣ nó
quyến luyến vì phải từ biệt ngơi nhà u dấu của nó để ra đi. Cầm tờ lịch nhỏ trong tay,
em tƣởng nhƣ đang cầm một ngày đã qua với những hình ảnh tƣơi đẹp trong sáng,
những hạt sƣơng long lanh, ánh mặt trời rực rỡ, tiếng chim hót lảnh lót và giọng nói ấm
áp của mọi ngƣời..
Lịch nhắc nhở cho em những ngày lịch sử của đất nƣớc, những ngày vui của
chúng em (1 – 6…), ngày sinh nhật của em. Từ bàn học, tấm lịch nhƣ động viên, nhắc
nhở em học hành ngày càng tiến tới.
Mỗi lần bóc lịch em lại thấy ngày tháng trôi qua rất nhanh. Em thầm hứa sẽ học
tập tốt vì thời gian khơng chờ đợi ai [3, tr.8-9].
Trong bài văn trên, Hoàng Dạ Thi đã chú ý miêu tả những đặc điểm về hình thức
cũng nhƣ lợi ích của tấm lịch. Nhờ khả năng liên tƣởng phong phú kết hợp với cái nhìn
đồng thoại, tác giả bài viết đã làm cho đối tƣợng miêu tả của mình hiện lên một cách cụ
617



thể, sinh động. Những câu văn nhƣ: “Phía dƣới bức tranh ấy là tập lịch dày ôm ấp
những tháng, ngày tốt đẹp”; “Vào ngày chủ nhật, lịch thay chiếc áo giản dị hàng ngày
bằng màu sắc đỏ tƣơi, làm ửng hồng cả trang giấy trắng tinh”; “Lịch nhắc nhở cho em
những ngày lịch sử của đất nƣớc”… khơng chỉ có giá trị khắc họa đặc điểm của tấm lịch
mà còn bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn tuổi thơ với những cảm nhận tƣơi sáng, tin yêu về cuộc
sống. Có thể nói, đây là bài văn giàu hàm lƣợng nghệ thuật, thể hiện rõ dấu ấn cá nhân
trong cách nhìn, cách cảm nghĩ về đối tƣợng.
Từ trƣờng hợp của Hoàng Dạ Thi, chúng tôi nghĩ, gia tăng chất đồng thoại
trong bài văn miêu tả loài vật, đồ vật và cây cối là một hƣớng đi cần thiết, phù hợp với
việc phát huy năng lực thẩm mĩ của lứa tuổi, khuyến khích các em mạnh dạn bộc lộ
quan điểm cá nhân về cuộc sống và thế giới tự nhiên. Làm đƣợc điều này khơng những
trả văn miêu tả về đúng vị trí, đặc trƣng vốn có của nó mà cịn dấy lên một tinh thần học
tập mới, thoát ly đƣợc lối học thụ động, dựa dẫm vào văn mẫu vốn rất phổ biến hiện
nay.
Truyện đồng thoại, cũng nhƣ nhiều thể loại khác, có thể cung cấp cho ngƣời dạy,
ngƣời học văn miêu tả những mẫu tham khảo giàu tính nghệ thuật do các nhà văn thuộc
nhiều thế hệ khác nhau sáng tạo nên. Qua những trang viết ấy, ngƣời dạy lẫn ngƣời học
sẽ đúc rút đƣợc những bài học kinh nghiệm thiết thực cho cơng việc của mình. Tuy vậy,
đối với kiểu bài miêu tả loài vật, đồ vật và cây cối, truyện đồng thoại tỏ ra có ƣu thế hơn
vì nó là “loại hình thích hợp với thị hiếu và tâm lí trẻ em” [1, tr.54], “góp phần có hiệu
lực tạo cho các em những rung động và thẩm mĩ tinh tế và đúng đắn” [5, tr.85]. Mặt
khác, kho tàng truyện đồng thoại Việt Nam có trên ngàn tác phẩm, trong đó có khá
nhiều tác phẩm hay, thậm chí đạt tới đỉnh cao, gây đƣợc tiếng vang sâu rộng trong công
chúng. Nếu khai thác tốt, truyện đồng thoại sẽ đƣa lại lợi ích về nhiều mặt…
Để đồng thoại đóng góp có hiệu quả vào việc rèn luyện kĩ năng làm văn miêu tả
của học sinh tiểu học, trƣớc hết, chúng ta cần xây dựng một bộ văn tuyển, tập hợp
đƣợc những tác phẩm hay, tiêu biểu cho từng giai đoạn phát triển của thể loại và liên
quan tới nhiều phong cách khác nhau. Đó sẽ là bộ văn tuyển quy mơ, gồm nhiều tập,

chắc chắn sẽ đƣợc các em đón nhận một cách thích thú. Trên cơ sở gầy dựng lại niềm
đam mê đọc sách cho các em, ngƣời thầy sẽ dần đƣa các em tham gia vào việc phát
hiện, nhận xét, đánh giá các câu, đoạn miêu tả cùng các yếu tố nghệ thuật liên quan.
Theo chúng tôi, với mỗi nội dung rèn luyện, chúng ta cần xây dựng thành một dạng bài
tập, sử dụng ngữ liệu khảo sát một cách linh hoạt.
Nhìn chung, các bài tập nói trên đều có độ khó cao. Do đó, ngƣời thầy cần kiên
trì, cốt làm sao kích hoạt đƣợc hứng thú khám phá văn chƣơng của các em, dần dần làm
cho các em thấy đƣợc đặc trƣng của văn miêu tả, phƣơng tiện và ƣu thế biểu đạt của các
phƣơng tiện đó. Chẳng hạn, để cho học sinh thấy đƣợc sức mạnh của từ láy trong miêu
618


tả, chúng ta yêu cầu các em nhận diện lớp từ này trong truyện Con Cóc là cậu ơng Trời
của Nguyễn Huy Tƣởng, có so sánh với truyện dân gian Cóc kiện trời. Học sinh chắc
chắn sẽ nhận ra có một lƣợng lớn từ láy – chính xác là 85 từ – đƣợc dùng trong truyện
của Nguyễn Huy Tƣởng. Kết quả, nhƣ nhà văn Phong Thu nhận xét, “cảnh tƣợng hạn
hán đƣợc miêu tả rõ ràng, nhƣ thật” [7, tr.347], tạo nên một khoảng cách đáng kể giữa
nghệ thuật tự sự dân gian và hiện đại. Tƣơng tự, chúng ta có thể u cầu học sinh tìm
những câu văn miêu tả về các nhân vật Dế Mèn, Dế Choắt, Dế Trũi… trong thiên đồng
thoại đặc sắc Dế Mèn phiêu lƣu ký của Tơ Hồi. Trên cơ sở kết quả của học sinh, chúng
ta đánh giá và giúp cho các em thấy đƣợc nét riêng của từng nhân vật qua tài năng khắc
họa của Tơ Hồi (Dế Choắt thì “ngƣời gầy gò và dài lêu nghêu nhƣ một gã nghiện thuốc
phiện”; Dế Mèn đẹp mã, thân thể cƣờng tráng với “đôi càng tơi mẫm bóng”, “đầu tơi to
và nổi từng tảng”…).
Lợi ích của truyện đồng thoại đối với học sinh tiểu học cịn ở chỗ kích thích,
phát huy năng lực tƣởng tƣợng vốn là thế mạnh của lứa tuổi này. Bởi vì, về bản chất,
đồng thoại là một thể loại phản ánh cuộc sống không theo quy luật tả thực. Đây là nơi
tung hoành của tƣởng tƣợng, hƣ cấu: chú Dế Mèn đi phiêu lƣu, Mèo Cháu Ông đến
vùng Xƣơng Trắng tìm mẹ, Chuối Mẹ mạo hiểm phơi mình giữa nắng trƣa hè gay gắt
để kiếm mồi cho đàn con nhỏ… Thế giới loài vật, cỏ cây trong đồng thoại vốn gần gũi,

quen thuộc với trẻ em song qua ngòi bút miêu tả của nhà văn, chúng bỗng trở nên lung
linh, huyền diệu, nhƣ thực nhƣ hƣ. Thủ pháp lạ hóa của đồng thoại, có thể nói, cũng là
một bài học cần đƣợc suy ngẫm và vận dụng vào văn miêu tả.
Rèn luyện văn chƣơng là cơng việc khó khăn, lâu dài, đòi hỏi sự nỗ lực và cộng
hƣởng từ nhiều phía. Kinh nghiệm xƣa nay cho thấy, học sinh học văn có tốt khơng, có
u văn chƣơng hay khơng…, tất cả đều liên quan đến việc dạy dỗ của ngƣời thầy. Nhìn
vào đội ngũ giáo viên tiểu học hiện nay, chúng ta khơng khó nhận ra nhiều trƣờng hợp
hạn chế về tiếng Việt và văn chƣơng. Do đó, để cơng cuộc đổi mới giáo dục tiểu học nói
chung, đổi mới việc dạy học văn nói riêng, Bộ Giáo dục và Đào tạo rất cần phải xem lại
từ khâu tuyển sinh đến tuyển dụng và bố trí chun mơn. Đã đến lúc, nhà trƣờng tiểu
học cần phải tính tới phƣơng án bố trí giáo viên giảng dạy theo từng bộ mơn cụ thể, nhất
là với những mơn nhƣ Tiếng Việt, Tốn…

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn Hồng (2012), “Tản mạn về Con chuột mù”, Văn học thiếu nhi nửa thế kỉ một con
đƣờng, Nxb Kim Đồng.
2. Nguyễn Huy (2011), “GS Ngô Bảo Châu đối thoại với học sinh Đà Nẵng”,
nphongonline.
619


3. Trần Mạnh Hƣởng – Nguyễn Trại – Phạm Trƣơng (1995), Một số bài tập làm văn
chọn lọc lớp 4, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Lê Nhật Ký (2011), Thể loại truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam hiện đại
(Luận án TS Ngữ Văn), ĐHQG TP. Hồ Chí Minh.
5. Ngô Quân Miện (1982), “Đồng thoại với việc bồi dƣỡng tâm hồn các em”, Vì tuổi
thơ, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
6. Vũ Tú Nam – Phạm Hổ – Bùi Hiển – Nguyễn Quang Sáng (1998), Văn miêu tả, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
7. Nhiều tác giả (1999), Tuyển tập truyện viết cho thiếu nhi từ sau cách mạng tháng

Tám (Phong Thu tuyển chọn & bình), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Nhiều tác giả (2005), Hồi nhỏ các nhà văn học văn nhƣ thế nào?, Nxb Trẻ, TP.
HCM.
9. Lê Lƣu Oanh (2010), “Tƣ duy


620

đồng

thoại

trong

thơ

hiện

nay”,



×