Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Phân chia di sản thừa kế theo quy định của bộ luật dân sự 2005 lý luận và thực tiễn tại tòa án nhân dân tỉnh thanh hóa”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.35 KB, 71 trang )

346

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LUẬT
--------------

PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ THEO
QUY ĐỊNH CỦA BLDS 2005: LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN TẠI TAND TỈNH THANH HÓA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH LUẬT TƢ PHÁP

Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Thanh
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Liên
Lớp:

52B6 – Luật

MSSV:

1155034627

Nghệ An, tháng 5 năm 2015


LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện khóa luận này, ngồi sự cố gắng nỗ lực của bản thân, em đã
nhận được sự giúp đỡ tận tình của Hội đồng khoa học của khoa, các Thầy Cô
giáo trong tổ bộ môn Luật dân sự, các Thầy cô khoa Luật trường Đại học


Vinh. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô đã giành nhiều thời
gian và tâm huyết truyền đạt những kiến thức quý báu giúp em hoàn thành tốt
khóa luận tốt nghiệp. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng
viên Nguyễn Thị Thanh đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu, đã
hướng dẫn và đóng góp những ý kiến q báu để em hồn thiện khóa luận
này. Đó cũng là nguồn động viên lớn lao để cổ vũ và tiếp thêm nghị lực cho
em hồn thành tốt khóa luận này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các cơ,
chú, anh, chị là cán bộ của ngành Tịa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã giúp
đỡ, chỉ bảo và cung cấp những tài liệu quý báu để giúp em hồn thành khóa
luận này. Cuối cùng em xin gửi lịng biết ơn sâu sắc đến gia đình và những
bậc sinh thành đã có cơng sinh thành và ni dưỡng em đến ngày hơm nay,
những người ln hết lịng tận tụy, chăm sóc và động viên em trong lúc khó
khăn cũng như trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu. Dù cố gắng hồn
thành tốt khóa luận tốt nghiệp nhưng trong q trình nghiên cứu do năng lực
bản thân cịn hạn chế khơng tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được
sự thơng cảm và tận tình chỉ bảo của thầy cô và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!

1


MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. 0
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ...................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................... 2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 2
5. Ý nghĩa của khóa luận ................................................................................... 3

6. Kết cấu của khóa luận ................................................................................... 3
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN CHIA
DI SẢN THỪA KẾ .......................................................................................... 4
1.1. Khái niệm di sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế ............................... 4
1.1.1. Khái niệm di sản thừa kế ......................................................................... 4
1.1.2. Khái niệm phân chia di sản thừa kế ........................................................ 7
1.2. Xác định di sản thừa kế, người thừa kế...................................................... 8
1.3. Căn cứ phân chia di sản thừa kế............................................................... 13
1.3.1. Theo ý chí của người lập di chúc .......................................................... 13
1.3.2. Theo quy định của pháp luật ................................................................. 15
1.3.3. Theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế .................................. 15
1.4. Các nguyên tắc phân chia di sản thừa kế ................................................. 16
1.5. Phân chia di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam trước năm
2005 ................................................................................................................. 21
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH VỀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ TRONG
BLDS 2005 VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ PHÂN
CHIA DI SẢN THỪA KẾ TẠI TAND TỈNH THANH HÓA .................. 25
2.1. Quy định BLDS 2005 về phân chia di sản thừa kế .................................. 25
2.1.1. Trình tự phân chia di sản thừa kế .......................................................... 25
2.1.2. Phân chia di sản thừa kế theo di chúc ................................................... 30
2.1.2.1. Các trường hợp phân chia di sản thừa kế theo di chúc ...................... 30


2.1.2.2. Phân chia di sản thừa kế theo di chúc trong trường hợp có di sản dùng
vào việc thờ cúng ............................................................................................ 31
2.1.2.3. Phân chia theo di chúc trong trường hợp có di tặng .......................... 34
2.1.2.4. Phân chia di sản thừa kế theo di chúc trong trường hợp có người thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc ................................................ 36
2.1.3. Phân chia di sản thừa kế theo pháp luật ................................................ 38
2.1.4. Trường hợp hạn chế phân chia di sản ................................................... 42

2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại TAND
tỉnh Thanh Hóa ................................................................................................ 43
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT .................................................................................... 58
3.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phân chia di sản thừa
kế ..................................................................................................................... 58
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về phân chia
thừa kế trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ............................................................... 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU KHAM KHẢO .................................................... 66


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS :

Bộ luật dân sự

BLDS 2005: Bộ luật dân sự năm 2005
TAND:

Tòa án nhân dân


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bất kỳ chế độ giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan
trọng trong các chế định pháp luật dân sự. Thừa kế có ý nghĩa rất quan trọng,
đặc biệt là khi cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tài sản của
các thành viên trong xã hội cũng được tăng lên đáng kể cả về số lượng và cả
giá trị của nó. Pháp luật thừa kế bảo hộ quyền thừa kế của công dân, cho phép

công dân được để lại tài sản của mình cho người khác theo di chúc hoặc theo
pháp luật. Trong BLDS 2005, quy định về thừa kế được quy định tại phần thứ
4 gồm 4 chương từ Điều 631 đến Điều 687.
Thừa kế kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật là hai hình thức đặc
trưng cho hai quan hệ thừa kế khác nhau. Dù ở hình thức nào thì việc xác định
khối di sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế là một trong những yếu tố rất
quan trọng. Trong BLDS hiện hành, các quy định về phân chia di sản thừa kế
còn tồn tại một số quy định chung chung, chưa chi tiết, cụ thể. Chính vì thế
mà có nhiều quan điểm trái ngược nhau, nên khi áp dụng để giải quyết tranh
chấp thực tế sẽ xảy ra tình trạng khơng thống nhât. Điều đó làm cho quyền
thừa kế của cơng dân khơng được bảo đảm, thậm chí cịn gây bất ổn trong đời
sống sinh hoạt của mỗi gia đình, cộng đồng và xã hội.
Điều đó cũng góp phần làm cho các vụ tranh chấp dân sự liên quan đến
vấn đề này cũng gia tăng về số lượng. Tại TAND tỉnh Thanh Hóa các tranh
chấp về phân chia di sản cũng tăng đáng kể về số lượng. Trước nhu cầu cấp
bách cũng như tầm quan quan trọng đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu, tập hợp
làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn những quy định của pháp luật về phân chia
di sản về thừa kế trong BLDS một cách hệ thống là hết sức cần thiết hiện nay.
Trước tình hình đó, người viết đã mạnh dạn chọn đề tài “Phân chia di
sản thừa kế theo quy định của BLDS 2005: lý luận và thực tiễn tại TAND
tỉnh Thanh Hóa” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thừa kế di sản là vấn đề rộng và phức tạp lại có lịch sử hình thành và
phát triển khá phong phú mà trong đó bao gồm phân chia di sản thừa kế. Đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu về thừa kế nói chung như: " Những quy định
chung về quyền thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam" của Thạc sỹ Nguyễn

Minh Tuấn, " Chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam" của Thạc sỹ
Đinh Duy Thanh, Luật án tiến sĩ có " Thừa kế theo pháp luật của công dân
Việt nam theo qui định của pháp luật từ năm 1945 đến nay" của Tiến sĩ
Phùng Trung Tập, " Thừa kế theo di chúc theo qui định của Bộ Luật Dân Sự
Việt Nam" của Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết, và nhiều bài viết, nghiên cứu đăng
trên các tạp chí chun ngành khác.
Song, mỗi cơng trình nghiên cứu lại khai thác đề tài ở những góc độ và
khía cạnh khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu về “Phân chia di sản thừa kế theo quy
định của BLDS 2005: lý luận và thực tiễn tại TAND tỉnh Thanh Hóa” cũng là
một cách tiếp cận đem đến cái nhìn mới về quy định này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của khóa luận là nghiên cứu, phân tích các vấn đề lý luận về
phân chia di sản thừa kế. Qua đó đánh giá thực trạng áp dụng những quy định
của pháp luật về phân chia di sản thừa kế hiện nay. Góp phần vào việc nhận
thức đúng đắn hơn pháp luật dân sự và những hạn chế trong các quy định
pháp luật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật học, tác giả chỉ
tập trung vào một khía cạnh chủ yếu liên quan đến việc phân chia di sản thừa
kế theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.

2


4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng một số phương pháp khoa học chuyên ngành như:

phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so sánh, phương pháp
tổng hợp, phương pháp phân tích… để chứng minh cho những luận điểm đặt
ra trong khóa luận.
5. Ý nghĩa của khóa luận
Khóa luận nghiên cứu về một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
phân chia di sản thừa kế trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, qua đó nêu ra những
hạn chế trong một số các quy định của pháp luật cịn chưa phù hợp dẫn đến
tình trạng tranh chấp kéo dài trong thực tế chưa được giải quyết triệt để. Đồng
thời cũng đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để góp phần hồn thiện các quy
định của pháp luật trong lĩnh vực này, giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật
của người dân khi tham gia vào quan hệ pháp luật thừa kế, thúc đẩy sự tiến bộ
của xã hội.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
được cơ cấu hành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về phân chia di sản thừa kế.
Chương 2: Quy định về phân chia di sản thừa kế trong BLDS 2005 và
thực tiễn giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại TAND tỉnh
Thanh Hóa.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật.

3


CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ
1.1. Khái niệm di sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế
1.1.1. Khái niệm di sản thừa kế
Khi sống, con người khai thác công dụng của tài sản để thoả mãn cho
nhu cầu của mình, khi chết, tài sản cịn lại của họ được dịch chuyển cho người

cịn sống. Q trình dịch chuyển tài sản đó từ thế hệ này sang thế hệ khác
được gọi là thừa kế. Nhìn nhận một cách tổng quan thì “thừa kế là việc dịch
chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống”. Theo Từ điển Tiếng
Việt đã định nghĩa: “Thừa kế là hưởng của người chết để lại cho”. Khi một
người chết đi, những tài sản thuộc quyền sở hữu của người đó được truyền lại
cho những người thừa kế gọi là di sản.
Di sản là tồn bộ tài sản có giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần cùng với
các nghĩa vụ về tài sản được lưu truyền, tiêp nối từ thế hệ này sang thế hệ
khác, từ đời này sang đời khác, được bảo hộ về mặt pháp lý [2. Tr 21].
Thuật ngữ “di sản” được sử dụng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực của
đời sống. Song, trong từng lĩnh vực cụ thể: văn hóa xã hội, kinh tế... thì thuật
ngữ này lại được hiểu với những nghĩa khác nhau. Trên lĩnh vực pháp luật
thuật ngữ di sản được các nhà làm luật sử dụng để chỉ di sản thừa kế trong
pháp luật dân sự. Nó được hiểu như phần tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của
người chết để lại cho những người còn sống khác.
Từ trước đến nay trong khoa học pháp lý của nước ta chưa có một khái
niệm thống nhất, cụ thể về di sản thừa kế. Xuất phát từ tầm quan trọng của di
sản thừa kế là yếu tố đầu tiên trong quan hệ thừa kế đã rút ra được khái niệm
thừa kế trên phương diện pháp lý: “ Di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc
quyền sở hữu hợp pháp của người chết khi còn sống để lại, là đối tượng của
quan hệ dịch chuyển tài sản đó cho những người thừa kế được Nhà nước thừa
nhận và bảo đảm thực hiện”. Theo quy định tại Điều 634 BLDS 2005: “Di sản

4


bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết với người
khác ”.
Tuy nhiên do di sản thừa kế là một vấn đề hết sức phức tạp nên khi nói
về di sản thừa kế vẫn cịn nhiều cách hiểu khác nhau. Một trong những

nguyên nhân của tình trạng này chính là do cịn nhiều vấn đề tranh cãi liên
quan đến di sản thừa kế. Một trong những vấn đề cịn có nhiều ý kiến tranh
cãi đó là di sản thừa kế có bao gồm nghĩa vụ tài sản của người chết để lại hay
không. Hiện nay, trong khoa học pháp lý, vấn đề di sản thừa kế vẫn còn tồn
tại nhiều quan điểm khác nhau.
* Quan điểm thứ nhất cho rằng: Di sản thừa kế bao gồm các tài sản và các
nghĩa vụ tài sản của người chết để lại. Tức là, người để lại di sản thừa kế khi
cịn sống ngồi những tài sản mà họ có thì cịn có các khoản nợ (nghĩa vụ tài
sản) khác. Những nghĩa vụ này phát sinh từ các quan hệ dân sự như, nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng vay, nghĩa vụ trả tiền thuê
nhà... Các nghĩa vụ về tài sản họ để lại khi chết đi sẽ được dịch chuyển cho
những người thừa kế thực hiện đồng thời với việc dịch chuyển các tài sản. Pháp
luật nói chung và pháp luật thừa kế Việt Nam nói riêng trong thời kì phong
kiến phổ biến với quan điểm này. Người thừa kế sẽ phải thực hiện việc thanh
toán nợ của người chết để lại kế cả trong trường hợp tài sản của người chết để
lại không đủ để trả hết nợ và phải chịu trách nhiệm vơ hạn với nghĩa vụ đó.
Quan điểm này đã khơng cịn phù hợp với sự phát triển của đất nước, cho thấy
sự bất công của chế độ cũ, chế độ bóc lột người dân của bọn cường hào, địa
chủ. Quy định của Sắc lệnh số 97/ SL ngày 22/5/1950 đã xóa bỏ quy lệ bất
cơng này.
* Quan điểm thứ hai cho rằng: Di sản thừa kế bao gồm tài sản và các
nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản của người chết để lại. Theo quan điểm
này thì tài sản mà người chết để lại bao gồm tài sản có và tài sản nợ là ngang
bằng nhau. Người thừa kế không phải thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản riêng
của mình mà chỉ thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản người chết để lại.
Quan điểm này khác với việc thực hiện nghĩa vụ tài sản ở quan điểm thứ nhất,
5


khơng cịn tình trạng chịu trách nhiệm một cách vơ hạn đối với các khoản nợ

mà người chết để lại, người thừa kế chỉ chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ
tài sản của người chết để lại trong phạm vi di sản họ được hưởng.
* Quan điểm thứ ba cho rằng: Di sản thừa kế chỉ bao gồm các tài sản của
người chết để lại mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản. Đây là quan điểm
phù hợp với những quy định của BLDS năm 1995 và BLDS 2005. Vì:
Thừa kế là thừa hưởng của cải của người đã khuất. Theo từ điển Tiếng
Việt thì thừa kế được định nghĩa là: “hưởng của người chết để lại cho” [5, Tr
972]. Với ý nghĩa này thì ta khơng thể nói người thừa kế “ được hưởng nghĩa
vụ tài sản” hay “được hưởng các tài sản nợ”. Những “giá trị” khơng mang đến
lợi ích cho người tiếp nhận thì khơng được coi là di sản.Vì vậy, khơng thể coi
các nghĩa vụ là được thừa hưởng.
Mặt khác, về phương diện đạo đức truyền thống , theo suy nghĩ của
người Việt Nam cha mẹ sinh con thì có nghĩa vụ chăm lo, ni nấng con nên
người. Những việc làm mang tính “ bổn phận” khơng chỉ là trong hiện tại mà
cịn cho cả tương lai sau này của người con, tạo ra “tiền đề vật chất” ban đầu
cho con, cho cháu. Người con, người cháu được thừa hưởng tài sản khi cha
mẹ chết đi, dựa vào đó mà làm ăn phát triển cuộc sống và sau này lại tích lũy
tài sản cho con cái của họ. Và tất nhiên những tài sản mà người chết để lại
cho người được hưởng phải thuộc quyền sở hữu của họ, không trái với các
quy định của pháp luật. Quyền thừa kế và quyền sở hữu có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Do tính chất vĩnh viễn và tuyệt đối của quyền sở hữu mà
nguyên tắc liên tục của việc đảm nhận tư cách chủ sở hữu đối với tài sản được
đặt ra:“ Thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người chết sang cho những
người còn sống khác” [2. Tr 33]. Như vậy, với ý nghĩa trên thì di sản chỉ là tài
sản của người chết mà không bao gồm các nghĩa vụ về tài sản.
Về phương diện pháp luật thì: “Những người hưởng thừa kế có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại...”
(Khoản 1 Điều 637 BLDS 2005). Cùng với việc nhận di sản thừa kế thì người
thừa kế có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ mà người chết để lại. Cần
6



phải hiểu, ở đây người thừa kế khi thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại không phải với tư cách là một chủ thể mới, họ không thay thế vị trí của
chủ thể. Họ thực hiện nghĩa vụ tài sản bằng tài sản của người chết. Khi thực
hiện nghĩa vụ trả nợ do người chết để lại và nhưng chi phí liên quan đến di
sản thừa kế sẽ xảy ra các trường hợp:
Một là, nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác nhỏ hơn khối tài sản mà
người chết để lại, trong trường hợp này tài sản vẫn còn để chia thừa kế.
Hai là, nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác lớn hơn hoặc bằng đúng khối
tài sản mà người chết để lại, trong trường hợp này tài sản khơng cịn để chia
thừa kế. Và vì thế sẽ khơng có quan hệ nhận di sản.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 642 BLDS 2005 người thừa kế có quyền
từ chối nhận di sản. Nếu nhận di sản thì người thừa kế phải thực hiện các
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại và ngược lại nếu họ khơng nhận di sản
thì họ khơng phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Rõ ràng
ở đây người thừa kế không bắt buộc phải nhận di sản để sau đó phải thực hiện
các nghĩa vụ tài sản của người chết cho chủ nợ.
Tóm lại, di sản thừa kế đươc hiểu là tài sản, các quyền tài sản mà người
đã chết có được một cách hợp pháp, không bao gồm các nghĩa vụ tài sản của
người đó để lại cho người hưởng thừa kế.
1.1.2. Khái niệm phân chia di sản thừa kế
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế- xã hội của nước ta sau nhiều năm
qua, với những chính sách phát triển đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần… đến nay thành phần, khối lượng, giá trị tài sản thuộc
quyền sở hữu tư nhân- nguồn của di sản thừa kế cũng ngày một phong phú,
nhiều hơn và lớn hơn. Vì vậy, các tranh chấp nói chung và các tranh chấp liên
quan đến vấn đề thừa kế nói riêng có số lượng ngày càng nhiều đồng thời
mang tính chất phức tạp hơn. Đích cuối cùng của tranh chấp thừa kế giữa các
bên chủ thể là xác định di sản và phân chia di sản thừa kế đúng để đảm bảo

quyền, lợi ích của những người được hưởng thừa kế.

7


Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người có quyền thừa kế có các quyền
và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Di sản được chuyển giao về mặt pháp
lý cho những người thừa kế và thuộc sở hữu chung theo phần của những
người thừa kế. Khái niệm phân chia di sản chỉ đặt ra khi có ít nhất từ hai
người có quyền thừa kế trở lên cịn nêú như chỉ có một người duy nhất có
quyền hưởng di sản thì chỉ có mình họ phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản của
người chết để lại và cũng chỉ có mình họ được sở hữu tồn bộ khối di sản sau
khi đã thực hiện hết các nghĩa vụ.
Vậy phân chia di sản thừa kế là tập hợp các hoạt động nhằm xác lập
quyền sở hữu đối với phần di sản cho từng người một có quyền hưởng thừa kế
trong khối di sản chung sau khi đã thực hiện nghĩa vụ tài sản từ di sản.
1.2. ác định di sản thừa kế, ngƣời thừa kế
* Xác định di sản thừa kế
Từ việc quy định về quyền sở hữu của cá nhân đối với tài sản hoặc tập
hợp các tài sản mà cá nhân có được dựa trên những căn cứ hợp pháp, đó là cơ
sở pháp lý cho cá nhân thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu. Lúc cịn
sống một người có quyền sở hữu đối với những tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình, khi họ chết thì có quyền để lại tài sản đó cho người khác cịn sống.
Thực hiện việc để lại di sản là chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt thông
qua một hành vi pháp lý.
Theo Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì di sản mà người chết để lại
bao gồm: “Tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người đó trong tài
sản chung với người khác”.
- Tài sản riêng của người chết
Tài sản riêng của người chết được xác định khi người đó cịn sống, cịn

quyền sở hữu tài sản của mình một cách độc lập và tự mình chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản theo ý chí của riêng mình và khơng bị ràng buộc vào ý
chí của người khác và chỉ tuân theo pháp luật. Trong quan hệ vợ chồng, tài
sản riêng của vợ hoặc của chồng được xác định là tài sản có trước thời kỳ hơn
nhân hoặc có trong thời kỳ hôn nhân nhưng do được tặng cho riêng, được
8


thừa kế riêng mà người có tài sản riêng đó khơng định đoạt ý chí sát nhập vào
khối tài sản chung của vợ chồng thì tài sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu riêng
của vợ hoặc của chồng. Tài sản riêng của người vợ hoặc người chồng còn xác
định được trường hợp vợ, chồng đã thỏa thuận bằng văn bản chia tài sản
chung hoặc yêu cầu Tòa án chia khi có lý do chính đáng thì phần tài sản của
vợ hoặc của chồng được chia là tài sản riêng của mỗi người. Những tài sản
chung của vợ chồng không chia thì vẫn thuộc quyền sở hữu chung của vợ
chồng. Những tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân hợp
pháp là tài sản chung của vợ chồng.
- Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác.
Đây là phần tài sản của người chết nằm trong tài sản thuộc sở hữu chung
hợp nhất của vợ chồng hoặc nằm trong khối tài sản thuộc sở hữu chung theo
phần với nhiều người khác, tuỳ theo cách thức và căn cứ xác lập nên các hình
thức sở hữu đó.
Người chết là đồng sở hữu chung hợp nhất tài sản chung với vợ hoặc
chồng và người chết là sở hữu chung theo phần đối với tài sản chung với
người khác. Trong những trường hợp này, khi người này chết thì tài sản là di
sản thừa kế được xác định trong trong khối tài sản chung đó như sau:
- Đối với sở hữu chung hợp nhất, khi vợ hoặc chồng chết trước, phần di
sản của người chết trước là chồng hoặc vợ được xác định là ½ giá trị trong
tổng giá trị tài sản chung hợp nhất của vợ chồng.
- Đối với trường hợp thứ hai, khi còn sống người chết là đồng sở hữu

chung theo phần đối với tài sản, khi người này chết thì phần quyền tài sản của
người này trong khối tài sản chung là di sản thừa kế.
- Các quyền tài sản khác của người chết để lại là di sản thừa kế gồm
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, các khoản tiền bồi thường thiệt hại
về sức khỏe, tính mạng, tiền bảo hiểm là di sản thừa kế của người đó. Di sản
thừa kế của cá nhân được hiểu là toàn bộ tài sản theo quy định tại Điều 163
BLDS 2005, trong đó quyền sử dụng đất đai.

9


Di sản thừa kế chỉ bao gồm các thành phần tài sản xác định từ khối tài
sản riêng, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người
khác, không bị hạn chế về phạm vi giá trị. Di sản thừa kế có mối quan hệ hữu
cơ với quyền sở hữu tài sản của cá nhân hay nói cách khác, quyền sở hữu cá
nhân là sơ sở chủ yếu để xác định di sản thừa kế của cá nhân sau khi qua đời.
- Phần di sản được dùng vào việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của người
chết
Điều 34 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và các Điều 636, 637 và Điều 683
BLDS 2005 quy định việc thanh toán di sản thừa kế: “Kể từ thời điểm mở
thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại”. Như vậy, kể từ thời điểm mở thừa kế, thì phát sinh quyền hưởng di sản
của những người thừa kế, đồng thời cũng phát sinh nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại. Điều 637 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định: “Những người
hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản
do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.
* Xác định người thừa kế
Ðiều 631 BLDS quy định: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt
tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật;
hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Việc xác định người thừa kế

không phụ thuộc vào sổ hộ khẩu gia đình, mà sẽ phụ thuộc vào nội dung di
chúc (nếu có) hoặc theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Tại thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản chết) thì di sản
người chết để lại được chia theo di chúc hoặc theo pháp luật. Và người thừa
kế được xác định như sau:
- Là người được người để lại di sản định đoạt theo di chúc (nếu có di
chúc). Người thừa kế trong trường hợp này có thể là cá nhân hoặc tổ chức nhà
nước.
- Là người thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điều 676 BLDS.
Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và phải là những người có
quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng đối với người để lại di sản.
10


Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết;
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,
chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà
người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột, chắt ruột của người
chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu khơng cịn ai ở
hàng thừa kế trước do đã chết, khơng có quyền hưởng di sản, bị truất quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Khi xác định người thừa kế nêu trên thì cịn phải căn cứ theo các quy
định tại Điều 635, Điều 641, Điều 667, Điều 642, Điều 643 BLDS 2005. cụ

thể như sau:
- Quy định về người thừa kế: Người thừa kế là cá nhân phải là người còn
sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở
thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Người thừa kế
là pháp nhân, tổ chức thì phải cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
- Quy định về việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của
nhau mà chết cùng thời điểm: Xét theo ngun tắc thì khơng thể có trường
hợp từ hai người trở lên chết cùng thời điểm, nhưng trong thực tế xảy ra
những trường hợp nhiều người chết trong một tai nạn mà không thể xác định
được ai chết trước, ai chết sau. Do đó buộc phải suy đoán họ chết cùng một
thời điểm. Nếu những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà đều chết
cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định
được người nào chết trước thì họ khơng được thừa kế di sản của nhau. Khi đó
di sản của mỗi người được chia cho những người thừa kế của họ. Theo quy
11


định tại điều 641 BLDS, trong trường hợp con hoặc cháu của người để lại di
sản cùng chết vào một thời điểm với người để lại di sản thì cháu hoặc chắt của
họ được thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 677 BLDS.
- Trường hợp từ chối nhận di sản:
Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối
nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải
báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di
sản, cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có
địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.Thời hạn từ chối nhận di sản
là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu
khơng có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế.
- Quy định về những người không được quyền hưởng di sản: Trong quan

hệ thừa kế, những người được chỉ định trong di chúc hoặc những người là vợ
chồng,con…của người chết là những người được hưởng thừa kế. Tuy nhên,
trong thực tế đã xảy ra những trường hợp họ đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa
vụ của mình, có những hành vi trái pháp luật trái với đạo đức xã hội xâm
phạm đến danh dự, uy ín, tính mạng, sức khỏe của bố, mẹ,vợ, chồng… những
người có hành vi như vậy khơng xứng đáng được hưởng di sản của người
thừa kế để lại. Theo đó, BLDS quy định những người thuộc khoản 1 Điều 643
khôngđược quyền hưởng di sản, cụ thể:
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ ni dưỡng người để lại di sản;
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có
quyền hưởng;

12


Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Tuy nhiên để dảm bảo quyền tự định đoạt của người có di sản, những
người quy định trên vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết
hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
1.3. Căn cứ phân chia di sản thừa kế
Khi phân chia di sản thừa kế có thể phân chia theo di chúc hoặc theo
pháp luật, nhưng dù là phân chia theo di chúc hay phân chia theo pháp luật thì
đều phải căn cứ vào những quy định chung của pháp luật về thừa kế, qua đó
để xác định người thừa kế hưởng di sản theo phương thức, trình tự, thủ tục

phù hợp.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật dân sự nói
riêng, khơng tồn tại khái niệm “căn cứ phân chia di sản thừa kế” mà mới chỉ
có các khái niệm như “căn cứ pháp lý”, “căn cứ xác lập quyền sở hữu”, “căn
cứ chấm dứt quyền sở hữu”...Ngay cả trong các công trình nghiên cứu khoa
học cũng chưa có tài liệu nào đưa ra khái niệm chính thức về “căn cứ phân
chia di sản thừa kế”. Vì vậy việc đưa ra một khái niệm chuẩn là cần thiết để
có cách hiểu thống nhất về “căn cứ phân chia di sản thừa kế”.
“Căn cứ” trong Từ điển Tiếng Việt được hiểu ở các khía cạnh sau:
- Dựa vào làm cơ sở để lập luận hoặc hành động;
- Cái làm chỗ dựa, làm cơ sở để lập luận hoặc hành động [5.Tr 118].
Vậy có thể hiểu: Căn cứ phân chia di sản thừa kế là những sự kiện pháp
lý mà trên cơ sở đó các chủ thể tiến hành việc phân chia di sản thừa kế. Các
căn cứ phân chia di sản thừa kế gồm:
1.3.1. Theo ý chí của người lập di chúc
“Cơng dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà
ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh
nghiệp hoặc trong tổ chức kinh tế khác ... Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp
pháp và quyền thừa kế của công dân” (Điều 58 Hiến pháp năm 1992). Công
13


dân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Như vậy, quyền của
các chủ thể trong quan hệ thừa kế mà cụ thể là giữa người để lại di sản với
người thừa kế và các chủ thể khác cần phải được bảo đảm. Trong trường hợp
khi mở thừa kế có di chúc của người để lại di sản thì chia khối di sản theo di
chúc. Nếu người thừa kế khơng từ chối nhận di sản thì họ trở thành chủ sở
hữu đối với khối tài sản được phân chia.
Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho
người khác còn sống theo quyết định của người đó trước khi chết được thể

hiện trong di chúc [6.Tr 323]. Người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân cịn
người thừa kế là bất kì có thể là cá nhân hoặc tổ chức hoặc Nhà nước điều này
phụ thuộc vào ý chí của người lập di chúc, pháp luật khơng thể quy định trong
mọi trường hợp phải theo một khuôn mẫu nhất định do Nhà nước định ra. Tùy
vào ý chí của người lập di chúc mà người được thừa kế theo di chúc được
hưởng các phần di sản nhiều ít khác nhau thậm chí là chênh lệch rất lớn ví dụ:
người mẹ khi chết để lại di chúc cho hai người con nhưng bà lại yêu quý
người con trưởng hơn nên người con thứ được 300 triệu, người con trưởng
được 600 triệu... Nhà nước ta luôn ưu tiên phương thức dịch chuyển di sản
theo di chúc, pháp luật tôn trọng và đảm bảo ý chí của người để lại di chúc.
Họ có thể để lại di sản cho bất kì ai, kể cả những người khơng có quan hệ hơn
nhân, huyết thống, ni dưỡng với họ; họ có thể để lại một phần di sản để
tặng cho người khác, di sản dùng vào việc thờ cúng...Tuy nhiên, trong một số
trường hợp nhất định ý chí của người lập di chúc bị hạn chế, cụ thể là trường
hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được quy định
tại Điều 669 BLDS 2005, người không được quyền hưởng di sản quy định tại
khoản 1 Điều 643 BLDS 2005.
Tóm lại, phân chia di sản theo ý chí định đoạt của người lập di chúc là
một trong những căn cứ để tiến hành việc phân chia di sản thừa kế, làm phát
sinh quyền sở hữu của người có quyền hưởng thừa kế.

14


1.3.2. Theo quy định của pháp luật
Các quy định của pháp luật cũng là căn cứ để tiến hành việc phân chia di
sản thừa kế, làm phát sinh quyền sở hữu của người có quyền hưởng thừa kế.
Vì thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật đều là hai phương thức dịch
chuyển tài sản từ người chết sang cho người sống và theo các trình tự do pháp
luật quy định, phải dựa vào các quy định của pháp luật thì mới xác định được

là phân chia di sản theo di chúc hay theo pháp luật.
Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho
những người còn sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do
pháp luật quy định.
Khác với việc phân chia di sản theo ý chí của người lập di chúc người
được hưởng thừa kế theo pháp luật là những người có quan hệ huyết thống,
quan hệ hơn nhân và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Việc chia
thừa kế theo pháp luật đặt ra khi người chết để lại di sản mà không lập di chúc
hoặc có nhưng di chúc khơng có hiệu lực pháp luật, người thừa kế từ chối
nhận di sản,… đối với thừa kế theo pháp luật những người ở cùng một hàng
thừa kế thì được hưởng các phần di sản cơng bằng, ngang nhau, khơng phân
biệt độ tuổi, giới tính,năng lực hành vi dân sự.
Pháp luật thừa kế hiện đại của các nước trên thế giới trong đó có Việt
Nam quy định, cho phép áp dụng hai hình thức thừa kế theo pháp luật và theo
di chúc để chia di sản trong từng trường hợp cụ thể tức là được áp dụng đồng
thời trong việc phân chia di sản thừa kế kể cả theo di chúc và theo pháp luật.
1.3.3. Theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế
Chỉ trong trường hợp người để lại di sản thừa kế khơng để lại di chúc thì
phân chia di sản theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế mới là một
trong những căn cứ phân chia di sản thừa kế. Về nguyên tắc trường hợp này
được chia theo quy định của pháp luật song những người thừa kế có thỏa
thuận khác để xác định lại phần di sản cho mỗi người được hưởng.
Thừa kế là quan hệ giữa những người trong gia đình với nhau (ơng bà, bố
mẹ, con cái...), giữa những người thân quen nên việc phân chia di sản thừa kế
15


phải dựa trên tính tự nguyện thỏa thuận, đồn kết của những người được
hưởng thừa kế, tránh gây sứt mẻ tình cảm gia đình, bạn bè. Mặt khác, Điều 4
BLDS 2005 đã ghi nhận nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận, đây

là nét đặc thù của những quan hệ dân sự. Tôn trọng quyền định đoạt thỏa
thuận của các bên trong thừa kế là sự cụ thể hóa ngun tắc cơ bản này. Tịa
án chỉ tham gia giải quyết trong trường hợp những người thừa kế không thỏa
thuận thống nhất được với nhau. Khi những người thừa kế đã đạt được sự
thỏa thuận thống nhất về cách chia thì đó có thể là căn cứ để phân chia di sản.
Tuy nhiên, để đạt được thoả thuận này khơng phải đơn giản bởi nó liên quan
đến lợi ích kinh tế giữa mỗi người mà nhiều khi vì lịng tham, sự ích kỉ họ
khơng muốn nhường nhịn nhau để đi đến thoả thuận chung.
Khi phân chia di sản theo thỏa thuận, người thực hiện phân chia di sản có
thể tham gia nhưng đây không phải là điều kiện bắt buộc. Người thực hiện
phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản. Người phân chia di
sản thừa kế chỉ là người thừa hành các quyết định của người lập di chúc hoặc
những người hưởng thừa kế.
“Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”
(Khoản 2 Điều 681 BLDS 2005), trong trường hợp: “Những người thừa kế
theo pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di
sản được hưởng của từng người thì họ có quyền yêu cầu công chứng văn bản
thoả thuận phân chia di sản...” (Khoản 1 Điều 49 Luật Công chứng 2006).
1.4. Các nguyên tắc phân chia di sản thừa kế
a. Nguyên tắc phân chia di sản thừa kế theo di chúc
Giống như các chế định khác trong pháp luật dân sự, chế định quyền
thừa kế được ghi nhận và chịu sự điều chỉnh bởi các nguyên tắc chung của
luật dân sự. Nhưng đây là một chế định điều chỉnh một quan hệ mang nhiều
tính đặc thù trong xã hội, bị chi phối do yếu tố tình cảm, phong tục, tập quán
nên có những nguyên tắc riêng để điểu chỉnh làm cơ sở, định hướng cho
những quy phạm pháp luật về thừa kế phải tuân theo. Phân chia di sản là một
phần trong chế định thừa kế nên các nguyên tắc đó cũng được áp dụng cho
16



các phương thức phân chia di sản, nói cách khác chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Bên cạnh đó việc phân chia di sản vẫn có những nguyên tắc
riêng. Tìm hiểu các nguyên tắc này là rất cần thiết bởi phân chia di sản thừa
kế đóng vai trị quan trọng trong pháp luật thừa kế và trong thực tiễn giải
quyết các tranh chấp trong phân chia di sản thừa kế.
Một số các nguyên tắc phân chia di sản thừa kế theo di chúc sau:
* Tơn trọng ý chí của người lập di chúc
Chiếm hữu, sử dụng và định đoạt là ba quyền năng của một cá nhân đối
với tài sản. Để lại di sản thừa kế là một trong những cách thức định đoạt tài
sản của chủ sở hữu. Nhà nước ta ln tơn trọng ý chí của người lập di chúc,
các quyền của người lập di chúc được quy định tại Điều 648 BLDS 2005. Nhà
nước chỉ hạn chế ý chí của người lập di chúc trong môt số trường hợp nhất
định. Nếu di chúc không vi phạm các điều cấm của pháp luật thì việc phân
chia di sản sẽ theo di chúc của người chết. Việc này có ý nghĩa vơ cùng to lớn
đối với những người đã khuất thể hiện trách nhiệm đối với người đã khuất,
thực hiện theo đúng di nguyện của họ để họ yên tâm nhắm mắt. Mặt khác, đây
là một truyền thống lâu đời của nhân dân ta đồng thời qua đó khuyến khích
những người cịn sống cũng cố gắng tạo ra nhiều của cải vật chất khơng chỉ vì
lợi ích của bản thân mà cịn vì những người mình u thương.
* Tôn trọng sự thỏa thuận của những người thừa kế:
Thỏa thuận có một ý nghĩa rất quan trọng trong quan hệ thừa kế. Việc
phân chia di sản diễn ra có sn sẻ hay khơng phụ thuộc rất lớn vào ý chí của
những người thừa kế. Tịa án chỉ tham gia giải quyết trong trường hợp tranh
chấp xảy ra khi những người thừa kế đã thỏa thuận bàn bạc với nhau nhưng
không đạt đến kết quả thống nhất. Pháp luật quy định: “Mọi thỏa thuận của
những người thừa kế phải được lập thành văn bản”. Điều 4 BLDS 2005 ghi
nhận nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Tôn trọng sự thỏa
thuận của những người thừa kế là việc cụ thể hóa của nguyên tắc này.
* Việc phân chia phải đảm bảo tình đồn kết trong gia đình.


17


Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống
tốt đẹp quy định tại Điều 8 BLDS 2005. Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong
tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đồn kết, tương thân, tương ái, mỗi
người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp
của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Như chúng ta đã biết thừa kế là quan hệ bị chi phối bởi nhiều yếu tố tình
cảm, tập quán, tục lệ, truyền thống vì vậy việc phân chia di sản như thế nào để
đảm bảo tình đồn kết, u thương giữa các thành viên trong gia đình, bảo
đảm tính nhân văn của thừa kế hết sức có ý nghĩa. Bám sát nguyên tắc này
giúp cho việc giải quyết phân chia di sản thừa kế thêm hợp tình, hợp lý.
Nhiều trường hợp trong gia đình đã xảy ra tranh chấp xơ xát giữa các
anh, chị, em khi phân chia di sản của cha mẹ để lại; các cháu, chắt khi phân di
sản của ông, bà để lại…Điều này làm ảnh hưởng đến tình cảm của những
thành viên trong gia đình, đến truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta. Vì
vậy, tự phân chia di sản thừa kế giữa những người thừa kế là cách tốt nhất để
đảm bảo tinh thần đoàn kết trong nội bộ trong gia đình. Trường hợp khơng
thoả thuận được thì cần phân chia một cách bình đẳng, đảm bảo việc khai
thác, sử dụng di sản, lợi ích kinh tế của những người thừa kế…Chỉ khi những
người thừa kế đã thỏa thuận với nhau nhưng không đạt đến kết quả thống nhất
Tòa án mới tham gia giải quyết. Trên thực tế để giải quyết vấn đề này là hết
sức khó khăn với những người làm cơng tác chun mơn, họ luôn phải theo
sát những nguyên tắc nền tảng để vừa đảm bảo cho mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình được bền vững lại vừa đảm bảo cho việc thực hiện
phân chia di sản theo ý chí của người đã khuất.
* Phân chia di sản phải ưu tiên cho một số thành viên trong gia đình.
Ưu tiên cho một số thành viên trong gia đình khơng có nghĩa là thiên vị

họ hơn những người khác trong gia đình, cũng khơng có nghĩa là trái với
ngun tắc bình đẳng và khơng tơn trọng ý chí của người lập di chúc. Bởi về
bản chất thừa kế mang tính nhân văn sâu sắc, góp phần giúp cho những người
18


trong gia đình thêm đồn kết, u thương nhau. Khi phân chia di sản cần chú
ý đến năng lực hành vi, tuổi tác, hoàn cảnh kinh tế của từng người thừa kế.
Quan tâm tới những người chưa thành niên, người khơng có khả năng lao
động, người già yếu... khi chia thừa kế để những người này có điều kiện sống
tốt hơn, ít nhất là trong giai đoạn trước mắt. Đây cũng là đạo lý của người
Việt Nam ta.
Về nguyên tắc trong trường hợp di chúc hợp pháp có hiệu lực thì những
người thừa kế sẽ được hưởng đúng phần người lập di chúc chỉ định, sự định
đọat này được pháp luật tôn trọng. Tuy nhiên trong trường hợp người lập di
chúc khơng cho hoặc cho hưởng phần ít hơn so với quy định của pháp luật đối
những đối tượng là: con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con đã thành
niên mà khơng có khả năng lao động hưởng thừa kế thì pháp luật sẽ ưu tiên
cho những người này, họ được hưởng một tỷ lệ nhất định trong khối di sản
người chết để lại. Xét cho cùng, đây là những người có quan hệ tình cảm gần
gũi với người đã chết, có quan hệ hơn nhân, huyết thống, họ có các quyền và
nghĩa vụ đối với người chết hoặc ngược lại người lập di chúc có các quyền,
nghĩa vụ đối với họ như: chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ già, con nhỏ... nên
điều này là hoàn toàn hợp lý.
b. Nguyên tắc phân chia di sản thừa kế theo pháp luật:
Nếu như ở phần trên ta đã nói đến các nguyên tắc phân chia di sản thừa
kế theo di chúc thì ở phần này chúng ta sẽ đề cập về các nguyên tắc phân chia
di sản theo pháp luật. Tìm hiểu các nguyên tắc này là rất cần thiết bởi quyền
lợi của những người thừa kế thừa kế sẽ bị ảnh hưởng nếu vi phạm các nguyên
tắc của thừa kế.

* Ưu tiên chia cho những người ở hàng thừa kế trước
Di sản của người chết được chia cho những người thân thích, gần gũi đối
với người chết.Tuy nhiên mức độ gần gũi, thân thiết của những người thân
thích đó với người chết là khác nhau khiến cho việc phân chia di sản thừa kế
trở nên khó khăn, phức tạp. Vấn đề này xảy ra ở rất nhiều nước trên thế giới
chứ không phải chỉ ở riêng Việt Nam. Và phần lớn các nước đặt ra qui định
19


về hàng thừa kế để giải quyết vấn đề này. Theo pháp luật hiện hành những
người thừa kế theo pháp luật được quy định thành từng hàng (Khoản 1 Điều
676 BLDS 2005). Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất được coi là
những người có quan hệ gần gũi nhất đối với người chết, tiếp đến là những
người ở hàng thừa kế thứ hai và thứ ba. Khi sống người ta làm ra của cải
khơng chỉ chăm lo cho mình mà cịn cho những nguời thân thiết như: ni
con; ni cháu; chăm sóc cha, mẹ già… Tâm lý chung khi họ ra đi là muốn để
lại tài sản cho những người gần gũi, yêu quý. Vì vậy, pháp luật ưu tiên chia
cho những người ở hàng thừa kế trước: “Những người ở hàng thừa kế sau chỉ
được hưởng thừa kế, nếu khơng cịn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, khơng
có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”
(Khoản 3 Điều 676 BLDS 2005).
* Chia hết cho những người ở hàng thừa kế trước
Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần
gũi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa
kế mà người chết để lại. Mà như đã nói ở trên khi phân chia di sản theo luật sẽ
ưu tiên cho những người ở hàng thừa kế trước. Do đó, di sản sẽ được chia
thành những phần bằng nhau và chia hết cho những người trong hàng thừa kế
thứ nhất. Nếu khi chia thừa kế mà khơng cịn ai ở hàng thừa kế thứ nhất vì đã
chết trước người để lại di sản thừa kế mà khơng có ai thế vị hoặc có nhưng họ
từ chối nhận di sản hay khơng có quyền hưởng di sản theo Điều 643 BLDS

2005 hoặc bị người để lại di di sản truất quyền thừa kế thì lúc này di sản mới
được chia hết cho những người thừa kế thuộc hàng thứ hai. Tương tự như vậy
ở hàng thừa kế thứ hai thì di sản được chia cho những người thuộc hàng thừa
kế thứ ba.
Nếu khơng có ai trong hàng thừa kế thứ ba (người này khơng có họ hàng
thân thích, con cháu, sống lẽ loi cơ độc...) thì di sản sẽ thuộc về nhà nước
(Điều 644 BLDS 2005).
* Chia đều bằng nhau cho những người thừa kế cùng hàng

20


×