BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ HỌC PHẦN 1
CHUYÊN ĐỀ 19: QUYỀN ĐỐI VỚI BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
A. MỞ ĐẦU
Sự ra đời của pháp luật cho đến ngày nay bắt nguồn từ những nhu cầu
thường ngày của con người, đó là tất cả những nhu cầu vật chất và tinh thần đơn
giản nhất, thiết yếu nhất. Từ đó, pháp luật là công cụ, phương tiện để phục vụ,
bảo vệ lợi ích cho các thành viên trong xã hội của một nhà nước nói chung và
giai cấp cầm quyền nói riêng. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận, đựợc nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điểu
chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
Những nhu cầu của con người ngày càng tăng dần theo mức độ phát triển
của xã hội, khi mà các quan hệ xã hội hình thành ngày càng nhiều, thì theo đó
đòi hỏi phải có những quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
mới này. Trong đó phát sinh một loại quan hệ giữa các chủ thể có quyền sở hữu
đối với các bất động sản liền kề nhau. Do đặc tính tự nhiên của đất đai là không
di dời được, mà trong thực tế lại có những trường hợp bất động sản này bị vây
bọc bởi các bất động sản khác, cho nên việc chủ sở hữu của bất động sản này
cần sử dụng bất động sản của người khác nhằm các mục đích hợp lý như: mở
đường đi, xây dựng hệ thống tải điện, xây dựng hệ thống thoát nước... là một
nhu cầu chính đáng và cấp thiết, nhưng nó cũng hết sức nhạy cảm, cần sự điều
chỉnh của pháp luật.
Do vậy, sự ra đời của một chế định về quyền đối với bất động sản liền kề
là một điều tất yếu. Đây là chế định “dẫn xuất” (hay chế định phát sinh) của chế
định quyền sở hữu. Quyền đối với bất động sản liền kề phát sinh từ tính chất tự
nhiên của bất động sản và hậu quả của việc phân chia, dịch chuyển, sáp nhập bất
động sản.
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm chung về quyền đối với bất động sản liền kề
1.Bất động sản
Để quy định rõ những gì là tài sản cũng như khắc phục khiếm khuyết của
các bộ luật trước, Bộ luật dân sự (BLDS) 2015 đã nêu ra trong khoản 1, điều
105: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Từ đây, dựa trên
thuộc tính tự nhiên của tài sản là có dịch chuyển cơ học được hay không mà
pháp luật dân sự Việt Nam thông qua phương pháp loại trừ chia tài sản thành bất
động sản và động sản. Theo đó, khoản 1 điều 107 BLDS 2015 quy đinh như sau:
“Bất động sản bao gồm:
a)
b)
c)
d)
Đất đai;
Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;
Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;
Tài sản khác theo quy định của pháp luật.”
Việc phân loại tài sản thành động sản và bất động sản không chỉ có ý
nghĩa về lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Bởi đi liền với việc phân
biệt còn là những quy chế pháp lý khác biệt, việc xác lập, thực hiện giao dịch
liên quan đến hai loại tài sản rất khác nhau, là căn cứ để tạo điều kiện thuận lợi
cho chủ sở hữu và là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp. Xác định một tài
sản có là bất động sản hay không còn làm cơ sở cho việc xác định bất động sản
liền kề. Khi pháp luật có quy định về bất động sản và quyền với bất động sản thì
sẽ phải điều chỉnh quan hệ giữa các chủ sở hữu, chủ sử dụng bất động sản liền
kề nhau.
2. Bất động sản liền kề
Các bất động sản phân lập với nhau thông qua ranh giới. Tuy nhiên không
phải giữa tất cả bất động sản đều tồn tại ranh giới, mà chỉ có những bất động sản
có bản chất không di dời được mới có ranh giới, điều này đồng nghĩa với việc
chỉ có những bất động sản này mới tồn tại định nghĩa “bất động sản liền kề”.
Trong bộ luật dân sự 2015 không có quy định về khái niệm bất động sản liền kề,
tuy nhiên bất động sản liền kề có thể hiểu là bất động sản có sự tiếp giáp nhau
về ranh giới giữa các bất động sản. Do nhiều yếu tố tác động trong quá trình
hình thành và tồn tại nên các bất động sản có sự tiếp giáp lẫn nhau. Hai bất động
sản liền kề theo đúng nghĩa pháp lý để áp dụng quyền đối với bất động sản liền
kề khi và chỉ khi chúng thuộc các chủ sở hữu khác nhau và có chung một ranh
giới.
3. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề
Ranh giới, cách xác định ranh giới là vấn đề hết sức quan trọng để xác
định quyền sử dụng, phạm vi sử dụng của chủ sở hữu một bất động sản, nó có ý
nghĩa trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp trong thực tế. Vậy làm thế nào
để xác định được cách phân chia ranh giới?
Theo quy định tại khoản 1, điều 175 BLDS 2015 thì có hai cách phân chia
ranh giới như sau: “ Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo
thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới
đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp.
Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách kể cả trường hợp
ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn
trọng, duy trì ranh giới chung”
Có thể thấy, trong mỗi cách xác định ranh giới mà bộ luật quy định đều có
2 cách thức nhỏ, tuy nhiên không có thứ tự ưu tiên cách thức nào trước mà chỉ
nối bằng từ “hoặc”. Điều này rất dễ gây ra những cách hiểu khác nhau dẫn đến
nhiều tình trạng lách luật diễn ra. Theo tư duy logic cũng như bản chất của quan
hệ dân sự thì sự thỏa thuận của các bên luôn được ưu tiên áp dụng trước nếu sự
thỏa thuận đó là hợp pháp, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
đạo đức xã hội, không xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Cũng theo điều này, có thể xác định được ranh giới giữa các
bất động sản liền kề có thể là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng... nhưng pháp
luật cũng chưa có một khái niệm rõ ràng cho những loại ranh giới này.
4. Quyền đối với bất động sản liền kề
Quyền đối với bất động sản liền kề là một quyền khách quan của công
dân được pháp luật công nhận và bảo vệ. Các vấn đề liên quan đến quyền đối
với bất động sản liền kề được quy định cụ thể tại mục 1, chương XIV, BLDS
2015.
Điều 245, BLDS 2015 với tiêu đề “Quyền đối với bất động sản liền kề”
quy định: “Quyền đối với bất động sản liền kề là quyền được thực hiện trên một
bất động sản (gọi là bất động sản chịu hưởng quyền) nhằm phục vụ cho mục
đích khai thác một bất động sản khác thuộc quyền sở hữu của người khác (gọi
là bất động sản hưởng quyền)”
Có thể hiểu rằng, điều luật này cho phép chủ sở hữu bất động sản hưởng
quyền có thể mở lối đi, hệ thống dẫn, thoát nước, đường dây tải điện, thông tin
liên lạc hay các nhu cầu cần thiết khác trên phạm vi bất động sản của người khác
để “phục vụ cho mục đích khai thác” bất động sản của mình. Quyền đối với bất
động sản liền kề chỉ được xác lập đối với bất động sản có vị trí khó khăn, bị vây
bọc bởi các bất động sản khác không thể tiếp giáp với công trình hạ tầng kĩ
thuật. Đây là một hiện thực khách quan từ thực tiễn của nhà ở và đất đai.
Điều 245, BLDS 2015 là một điểm mới tiến bộ trong lịch sử pháp luật dân
sự Việt Nam về chế định quyền đối với bất động sản liền kề. Tại sao lại như
vậy? Bởi lẽ đây là lần đầu tiên trong một bộ luật dân sự nêu ra được một cách
hoàn chỉnh, đầy đủ và chi tiết khái niệm quyền. Cùng với thuật ngữ “Quyền đối
với bất động sản liền kề” thay cho thuật ngữ “Quyền sử dụng hạn chế bất động
sản liền kề” .Trong khi đó, các bộ luật dân sự trước đây (1995 và 2005) đều
chưa đưa ra được khái niệm này, cụ thể trong điều 278 BLDS 1995 và điều 273
BLDS 2005 đều quy định: “Chủ sở hữu nhà, người sử dụng đất có quyền sử
dụng bất động sản liền kề thuộc sở hữu của người khác để đảm bảo các nhu cầu
của mình về lối đi, cấp, thoát nước, đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các
nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý nhưng phải đền bù, nếu không có thỏa
thuận khác”. Hai điều luật này chỉ nêu ra những quyền năng của “chủ sở hữu
nhà, người sử dụng đất” là những chủ thể có khả năng được hưởng các quyền
“về lối đi, cấp, thoát nước, đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu
cần thiết khác” trong phạm vi “một cách hợp lý” trên bất động sản liền kề thuộc
chủ quyền của người khác mà chưa nêu được khái niệm quyền đối với bất động
sản liền kề.
II. Căn cứ xác lập và chấm dứt quyền đối với bất động sản liền kề
1.
Căn cứ xác lập quyền đối với bất động sản liền kề
Điều 246, BLDS 2005 quy định: “Quyền đối với bất động sản liền kề
được xác lập do địa thế tự nhiên, theo quy định của luật, theo thỏa thuận hoặc
theo di chúc”.Theo điều này, có 4 phương thức xác lập quyền đối với bất động
sản liền kề là: “do địa thế tự nhiên, theo quy định của luật, theo thỏa thuận hoặc
theo di chúc”.
1.1.
Quyền đối với bất động sản liền kề xác lập theo địa thế tự nhiên
Đây là một cơ sở hoàn toàn mới trong BLDS 2015 mà các BLDS trước
đây chưa từng đề cập đến. Trong thực tế có nhiều nơi theo địa thế tự nhiên cùng
với sự tác động của địa hình, khí hậu và thời tiết theo thời gian dần dần xuất
hiện các dấu hiệu để có thể xác lập quyền đối với bất động sản liền kề. Ví dụ
như một bất động sản ở nơi có địa hình cao, trải qua mưa nắng, nước mưa chảy
thành thành dòng qua nhiều bất động sản liền kề khác để ra sông, hồ đã làm trôi
dạt đất trên dòng chảy và vô tình tạo thành các đường rãnh nước, mương nước
hình thành một hệ thống thoát nước tự nhiên cho bất động sản này. Ở đây,
BLDS 2015 có quy định đến điều kiện này tức là pháp luật đã có sự điều chỉnh,
vì vậy mọi người cần tôn trọng điều đó. Đây cũng sẽ là một cơ sở để người sử
dụng bất động sản ở nơi địa hình cao có quyền giữ nguyên hoặc theo đó xây
dựng hệ thống thoát nước trên phạm vi các bất động sản xung quanh để bảo đảm
nhu cầu khai thác bất động sản của mình. Đây là một ví dụ điển hình cho cơ sở
xác lập quyền đối với bất động sản liền kề theo địa thế tự nhiên, ngoài ra trong
thực tế còn diễn ra nhiều trường hợp khác vô cùng phức tạp.
1.2.
Quyền đối với bất động sản liền kề xác lập theo thỏa thuận
Trong quan hệ pháp luật dân sự thì tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận
là một nguyên tắc cơ bản đặc trưng, được quy định tại khoản 2, điều 3 BLDS
2015: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa
thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực
thực hiện đối với các bên phải được chủ thể khác tôn trọng”. Nguyên tắc này
cho phép các chủ thể đưa ra ý chí, nguyện vọng của mình giao tiếp, thỏa thuận
với nhau và đặc biệt phải tuân thủ theo quy định của pháp luật và không trái với
đạo đức xã hội để đạt được nhu cầu một cách hợp lý. Chẳng hạn như một chủ sở
hữu nhà đạt được thỏa thuận với một người sử dụng bất động sản liền kề mở
một con đường nhằm vận chuyển, tàng trữ ma túy, thì theo pháp luật quyền này
không có hiệu lực.
Mặc dù BLDS 2015 có quy định ở điều 246 về quyền đối với bất động
sản liền kề, tuy nhiên không phải trong mọi hoàn cảnh người sử dụng bất động
sản đều có thể yêu cầu người khác đáp ứng theo nguyện vọng của mình.Ở một
khía cạnh nào đó, việc thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề sẽ tạo ra một
sự bất tiện với bất động sản chịu hưởng quyền, ít nhiều làm hạn chế phạm vi của
chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền. Pháp luật dân sự luôn luôn đề cao
tính tự do, tự nguyện và ưu tiên phương thức thỏa thuận trong mọi giao dịch dân
sự. Chỉ khi nào việc thỏa thuận giữa hai bên không đi đến được kết quả cuối
cùng thì lúc đó mới đến công việc của tòa án. Và cũng chỉ khi nào đạt được thỏa
thuận với người sử dụng bất động sản chịu hưởng quyền thì người sử dụng bất
động sản hưởng quyền mới được tiến hành các hoạt động nhằm thỏa mãn nhu
cầu khai thác bất động sản của mình.
Trong trường hợp một bất động sản bị bao bọc bởi nhiều bất động sản
khác thì người sử dụng bất động sản hưởng quyền phải có thỏa thuận với một
trong số chủ sở hữu các bất động sản chịu hưởng quyền, điều này không ngoại
trừ trường hợp người sử dụng bất động sản hưởng quyền phải thỏa thuận với
nhiều chủ sở hữu khác nhau để xác lập quyền đối với bất động sản liền kề trên
nhiều bất động sản khác nhau.
Khi quá trình thỏa thuận không đạt được kết quả, thì chủ sở hữu nhà,
người sử dụng đất bị bao bọc có quyền làm đơn yêu cầu các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền giải quyết. Căn cứ vào đó cùng với những điều tra trong thực tế,
tòa án sẽ đưa ra quyết định bác bỏ hoặc chấp nhận yêu cầu bằng một bản án.
1.3.
Quyền đối với bất động sản liền kề xác lập theo quy định của
luật
Một số quyền phát sinh trong quy định của pháp luật mà không phải do sự
thỏa thuận của các chủ thể. Bao gồm:
- Hiệu lực của quyền đối với bất động sản liền kề
Theo quy định tại điều 247 BLDS 2015: “Quyền đối với bất động sản
liền kề có hiệu lực đối với mọi cá nhân, pháp nhân và được chuyển giao khi bất
động sản được chuyển giao, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”
Căn cứ vào điều luật này thì mọi cá nhân, pháp nhân đều có thể có quyền
đối với bất động sản liền kề, đây cũng là một điểm mới trong BLDS 2015 quy
định rõ phạm vi đối tượng có hiệu lực của quyền. Tuy nhiên không phải là các
cá nhân, pháp nhân đều luôn sử dụng một bất động sản vĩnh viễn mà một thời
gian sau phải có sự chuyển giao (bán, cho, tặng…). Điều này làm cơ sở để bộ
luật dân sự cần có một quy định về quyền đối với bất động sản liền kề sau quá
trình chuyển giao. Cũng theo điều luật này thì quyền đối với bất động sản “được
chuyển giao khi bất động sản được chuyển giao” , nhưng “trừ trường hợp luật
liên quan có quy định khác”.Điều này có nghĩa là: sau khi chuyển giao, người
được chuyển giao quyền sở hữu bất động sản nghiễm nhiên được hưởng quyền
đối với bất động sản liền kề mà không cần thỏa thuận gì thêm. Tuy vậy, nếu có
thỏa thuận thêm giữa hai bên thì pháp luật không cấm, trừ trường hợp luật liên
quan có quy định khác.
Thêm nữa, khi chuyển giao bất động sản chịu hưởng quyền thì chủ sở hữu
phải có trách nhiệm thông báo cho người thứ ba về tình trạng quyền đối với bất
động sản liền kề mà bất động sản đó đang phải chịu (quyền của người thứ ba đối
với bất động sản được chuyển giao). Quyền đối với bất động sản không thay đổi
dù có sự chuyển giao giữa các chủ sở hữu nên quyền này cũng gắn liền với hai
bất động sản mà không phụ thuộc vào chủ sở hữu.
- Xác lập quyền đối với bất động sản liền kề theo thời hiệu
Điều 236, BLDS 2015 quy định: “Người chiếm hữu, người được lợi về
tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong
thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành
chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ
luật này, luật khác có liên quan quy định khác”
Như nhận định rằng: quyền đối với bất động sản liền kề gắn liền với bất
động sản. Vì vậy, khi một người chiếm hữu, người được lợi về bất động sản
trong ba mươi năm thì pháp luật đương nhiên thừa nhận quyền đối với bất động
sản liền kề mặc dù bất động sản thuộc sở hữu người khác. Sau ba mươi năm,
pháp luật công nhận quyền sở hữu bất động sản với đối tượng này thì quyền đối
với bất động sản liền kề sẽ vẫn tiếp tục cho đến khi có căn cứ chấm dứt quyền
này.
1.4. Quyền đối với bất động sản liền kề xác lập theo di chúc
Việc xác lập quyền đối với bất động sản liền kề có thể dựa trên di chúc.
Khi một người lập di chúc để lại bất động sản của mình chia cho những người
thừa kế thì người lập di chúc có thể đưa ra yêu cầu về quyền đối với bất động
sản liền kề cho một hoặc nhiều bất động sản con là một điều kiện trong nội dung
di chúc. Ngoài ra, quyền đối với bất động sản liền kề xác lập theo di chúc hay
khi phân chia bất động sản được quy định tại khoản 3, điều 254 BLDS 2015:
“Trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ
sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong
theo quy định tại khoản 2 điều này mà không có đền bù”.
Thực tế cho thấy khi một bất động sản bị phân chia thành nhiều phần cho
các chủ sở hữu khác nhau thì có thể dẫn đến tình trạng một hay nhiều bất động
sản con sau khi phân chia không có lối đi ra đường công cộng. Vì thế, điều luật
này ra đời là một quy định của pháp luật xác lập quyền đối với bất động sản liền
kề khi phân chia bất động sản: “khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người
phía trong”. Việc tạo lập lối đi này được thực hiện ngay trên chính bất động sản
bị phân chia mà không cần thông qua yêu cầu các chủ sở hữu bất động sản liền
kề và cũng không có đền bù. Mặc dù, điều luật chỉ đề cập đến quyền tạo lối đi
mà không quy định đến các quyền khác có liên quan. Tuy nhiên, việc xác lập về
lối đi có thể coi là phức tạp hơn cả, các quyền đối với bất động sản liền kề khác
vẫn có thể được thực hiện thông qua áp dụng tương tự pháp luật dân sự.
2.
Căn cứ chấm dứt quyền đối với bất động sản liền kề
Theo quy định tại điều 256, BLDS 2015 quyền đối với bất động sản liền
kề chấm dứt trong trường hợp sau đây:
1. Bất động sản hưởng quyền và bất động sản chịu hưởng quyền thuộc
quyền sở hữu của một người;
Một điều kiện quan trọng để xác lập quyền đối với bất động sản liền kề là
giữa các bất động sản phải tồn tại ranh giới mà một ranh giới chỉ có ý nghĩa
pháp lý khi hai bất động sản đó thuộc quyền sở hữu của hai chủ sở hữu và không
thuộc tài sản chung. Trong trường hợp chúng thuộc khối tài sản chung của hai
hay nhiều chủ thể độc lập thì các chủ thể có quyền hoặc phần quyền ngang nhau
đối với khối tài sản chung. Vì vậy, khi bất động sản chịu hưởng quyền và bất
động sản hưởng quyền thuộc sở hữu của một người hay nói cách khác là nhập
thành một thì sẽ không tồn tại ranh giới về mặt pháp lý nữa. Theo đó, quyền đối
với bất động sản liền kề cũng sẽ chấm dứt đối với hai bất động sản này.
Ví dụ: Mảnh đất nhà ông A với mảnh đất nhà bà B liền kề nhau và ngăn
cách bởi một hàng tre. Hai người thỏa thuận lấy hàng tre đó làm ranh giới giữa
hai mảnh đất. Sau này nhà bà B chuyển đi nơi khác bán lại mảnh đất cho ông A
thì hàng tre lúc này chỉ còn giá trị kinh tế chứ không còn là ranh giới nữa và
quyền đối với bất động sản liền kề cũng được chấm dứt.
2.Việc sử dụng, khai thác bất động sản không còn làm phát sinh nhu cầu
hưởng quyền;
Đến một thời điểm nhất định nào đó, việc sử dụng, khai thác bất động sản
không còn cần đến quyền đối với bất động sản liền kề nữa, thì chủ sở hữu bất
động sản hưởng quyền có thể từ bỏ quyền này. Việc này phải được thể hiện qua
hành vi pháp lý đơn phương. Hành vi đó có thể là: loại bỏ công dụng của hệ
thống phục vụ, không tiếp tục sủ dụng bất động sản liền kề, thỏa thuận chấm dứt
quyền đối với bất động sản liền kề…
3. Theo thỏa thuận của các bên;
Cũng như căn cứ xác lập thì căn cứ chấm dứt cũng có một trường hợp là
thỏa thuận của các bên. Khi bên chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền không
cần đến quyền này để thỏa mãn nhu cầu khai thác bất động sản của mình nữa,
cũng như bên chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền cảm thấy quá bất tiện
và mất đi nhiều quyền lợi thì các chủ thể có thể bàn bạc, đưa ra ý chí, nguyện
vọng của mình, thỏa thuận với nhau để chính thức chấm dứt quyền đối với bất
động sản liền kề. Và đương nhiên việc thỏa thuận phải tuân thủ theo quy định
của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội, đi kèm theo đó là các bên phải
giải quyết hậu quả pháp lý sau thỏa thuận.
4. Trường hợp khác theo quy định của luật.
III. NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN QUYỀN VÀ THAY ĐỔI VIỆC THỰC
HIỆN QUYỀN.
1. Nguyên tắc thực hiện quyền
Theo quy định tại điều 248, BLDS 2015: Việc thực hiện quyền đối với bất
động sản liền kề theo thỏa thuận của các bên. Trường hợp các bên không có
thỏa thuận thì thực hiện theo các nguyên tắc sau đây:
- Bảo đảm nhu cầu hợp lý của việc khai thác bất động sản hưởng quyền
phù hợp với mục đích sử dụng của cả bất động sản hưởng quyền và bất động
sản chịu hưởng quyền;
Ví dụ một bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở
hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng thì chủ sở hữu
bất động sản bị vây bọc có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành
cho mình một lối đi hợp lý trên đất của họ. Lối đi được mở sao cho thuận tiện và
hợp lý nhất, điều này phải tính toán đến đặc điểm tự nhiên cụ thể của địa điểm,
lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại là ít nhất cho bất động sản có mở
lối đi. Đây là nguyên tắc cần thiết để dung hòa lợi ích của các bên có liên quan.
Nhưng cần có sự ưu tiên hơn quyền lợi của chủ thể chịu hưởng quyền bởi trong
quan hệ này, chủ thể chịu hưởng quyền là chủ thể phải gánh chịu những thiệt hại
nhất định.
- Không được lạm dụng quyền đối với bất động sản chịu hưởng quyền;
Trong mối quan hệ này, ở một mức độ nào đó, bất động sản chịu hưởng
quyền phải chịu một sự tác động nhất định. Do đó, cần điều hòa sự tác động này
ở một mức độ cũng như cường độ một cách hợp lý. Ví dụ như khoản 2, điều
254, BLDS 2015 quy định: “Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao
của lối đi do các bên thỏa thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây
phiền hà cho các bên…”.
- Không được thực hiện hành vi ngăn cản hoặc làm cho việc thực hiện
quyền đối với bất động sản hưởng quyền trở nên khó khăn
Nếu chủ sở hữu bất động sản bị hưởng quyền từ chối, hoặc có các hành vi
ngăn cản việc thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề thì việc hưởng quyền
khó có thể thực hiện được. Để tránh tình trạng này, pháp luật quy định cấm các
hành vi ngăn cản hoặc gây khó khăn cho việc thực hiện quyền. Nguyên tắc này
là nguyên tắc đối trọng với nguyên tắc thứ hai: “Không được lạm dụng quyền
đối với bất động sản chịu hưởng quyền”
2.Thay đổi việc thực hiện quyền
“Trường hợp có sự thay đổi về sử dụng, khai thác bất động sản chịu
hưởng quyền dẫn đến thay đổi việc thực hiện quyền đối với bất động sản hưởng
quyền thì chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền phải thông báo trước cho
chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền trong một thời hạn hợp lý. Chủ sở hữu
bất động sản chịu hưởng quyền phải tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu bất
động sản hưởng quyền phù hợp với thay đổi này”. Đây là quy định tại điều 249,
BLDS 2015 nhằm bảo vệ quyền lợi cho cả hai bên. Khi có sự thay đổi từ phía
bất động sản chịu hưởng quyền dẫn đến ảnh hưởng quyền đối với bất động sản
liền kề cần có sự thông báo trước cho phía chủ sở hữu bất động sản hưởng
quyền trong một thời gian nhất định. Điều này để chủ sở hữu bất động sản
hưởng quyền có thời gian chủ động tìm những phương án thay thế, đảm bảo cho
việc khai thác bất động sản không bị gián đoạn.
IV. NỘI DUNG QUYỀN ĐỐI VỚI BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ THEO
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
1. Quyền về lối đi qua bất động sản liền kề
Như đã biết, trong quyền đối với bất động sản liền kề thì quyền về lối đi
là một vấn đề lớn và không dễ giải quyết vì nó ảnh hưởng nhiều nhất đến các
chủ sở hữu bất động sản liền kề. Nó không chỉ tác động bằng việc lấy đi một
diện tích đất mà còn ảnh hưởng thường xuyên, liên tục đến cuộc sống cũng như
điều kiện sinh hoạt, sản xuất của họ. Nhưng chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc
được chọn bất động sản nào trong số các bất động sản vây bọc để làm lối đi
qua? Việc làm lối đi qua phải lưu ý những điều kiện gì? Đó sẽ là những câu hỏi
được giải đáp trong phần này.
Quyền về lối đi được quy định tại khoản 1, điều 254, BLDS 2015:
Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ
sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền
yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên
phần đất của họ.
Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện
và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động
sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.
Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ
sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Theo quy định tại điều luật này thì chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc có
quyền yêu cầu mở lối đi ra đường công cộng, người phải đáp ứng yêu cầu là chủ
bất động sản liền kề với tiêu chí của lối đi là phải “thuận tiện và hợp lý nhất”.
Theo nguyên tắc, bất cứ ai trong các chủ sở hữu bất động sản vây bọc đều phải
có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu đó. Tuy nhiên, việc yêu cầu ai trong số các chủ sở
hữu bất động sản liền kề phải dựa vào tình hình thực tế: vị trí địa lý giữa bất
động sản bị vây bọc với bất động sản liền kề và các yếu tố khác như vị trí công
trình xây dựng, cây cối… để sao cho có một lối đi thuận tiện nhất, ít thiệt hại
nhất cho bất động sản có mở lối đi.
Vậy như thế nào là thuận tiện nhất, gây thiệt hại ít nhất? Thông thường,
đường đi thuận tiện được hiểu là ngắn nhất, chiếm không gian ít nhất, ít gây bất
tiện nhất cho chủ sở hữu bất động sản liền kề. Khoản 2, điều 254, BLDS 2015
quy định: “Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên
thỏa thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên;
nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác xác định”. Có thể thấy rằng, thuận tiện ở đây không phải là
một khái niệm tuyệt đối, mà khái niệm này cần được áp dụng trong thực tế
khách quan. Vì trong mỗi trường hợp đều có những đặc điểm hết sức riêng biệt
mà không thể áp dụng một cách dập khuôn, cứng nhắc. Tính thuận tiện và hợp
lý ở đây phải kết hợp hài hòa quyền lợi của các bên trong việc tạo lập lối đi, nếu
chỉ nghiêng về một phía sẽ làm trầm trọng hơn tình trạng của bên kia.
Căn cứ vào khoản 2 điều luật này, chủ sở hữu bất động sản bị bao bọc và
chủ sở hữu bất động sản liền kề phải có thỏa thuận để quyết định các yếu tố về
vị trí, chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi. Trong trường hợp không thể
thống nhất “thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác
xác định”.
2. Quyền về cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề
Nước là một yếu tố quan trọng chiếm 70% trọng lượng cơ thể người, ¾
diện tích Trái Đất và là một bộ phận cấu thành nên môi trường sống của con
người. Người ta có thể nhịn ăn 8 tuần nhưng không thể nhịn uống quá 5 ngày.
Vì thế, dù thức ăn có thể thiếu, nhưng nước thì không thể. Ai cũng có quyền
được sử dụng nước để đảm bảo cho sinh hoạt và lao động. Để đảm bảo cho chủ
sở hữu bất động sản bị vây bọc được tiếp cận với nguồn nước cũng như thoát
nước ra hệ thống chung cần có sự trợ giúp của những chủ sở hữu bất động sản
liền kề thông qua bất động sản của họ. Điều 252, BLDS 2015 quy định:
“Trường hợp do vị trí tự nhiên của bất động sản mà việc cấp, thoát nước buộc
phải qua một bất động sản khác thì chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua
phải dành một lối cấp, thoát nước thích hợp, không được cản trở hoặc ngăn
chặn dòng nước chảy.
Người sử dụng lối cấp, thoát nước phải hạn chế đến mức thấp nhất thiệt
hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua khi lắp đặt đường dẫn nước;
nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trường hợp nước tự nhiên chảy từ vị trí
cao xuống vị trí thấp mà gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước
chảy qua thì người sử dụng lối cấp, thoát nước không phải bồi thường thiệt hại”
Quyền về dẫn nước qua bất động sản liền kề cũng được quy định tại điểm
đ, khoản 1, điều 43, Luật Tài Nguyên Nước 2012: “Tổ chức, cá nhân khai thác,
sử dụng tài nguyên nước có quyền sau đây: đ) Được dẫn nước qua bất động sản
liền kề thuộc quyền quản lý, sử dụng của tổ chức, cá nhân khác theo quy định
của pháp luật”.
Theo quy định tại điều 252, BLDS 2015 thì có thể phân tích quyền này
theo hai phần nhỏ: quyền được cấp nước do vị trí tự nhiên và quyền được thoát
nước do vị trí tự nhiên. Thông thường, bất động sản bị vây bọc sau khi giải
quyết được vấn đề về lối đi thì việc cấp, thoát nước thường được sử dụng qua lối
đi đó. Tuy nhiên, vị trí tự nhiên để hưởng quyền cấp, thoát nước qua bất động
sản liền kề không đồng nhất với tình trạng bị vây bọc để hưởng quyền có lối đi.
2.1. Quyền được cấp nước do vị trí tự nhiên.
Do vị trí tự nhiên mà một bất động sản không thể tiếp cận được với nguồn
nước tự nhiên hay nguồn nước máy thì chủ sở hữu bất động sản có thể sử dụng
quyền đối với bất động sản liền kề để yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc
cho sử dụng bất động sản của họ xây dựng hệ thống dẫn nước. Vị trí đặt đường
ống do các bên tự thỏa thuận sao cho thích hợp. Tuy vậy, điều luật này cũng có
một số điểm chưa rõ ràng trong việc quy định về “vị trí tự nhiên” là bất động sản
nằm ở đâu? Tọa lạc ở vị trí nào? Các điều kiện về cơ sở hạ tầng như thế nào? Và
việc quy định về “lối cấp thoát nước” như thế nào là thích hợp? Những điều này
vẫn còn là một sự tương đối và phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh thực tế.
2.2. Quyền được thoát nước do vị trí tự nhiên.
Cấp nước và thoát nước là hai mặt của một vấn đề, có cấp nước ắt phải có
thoát nước, trong một số trường hợp thì chỉ có thoát nước mà không có cấp nước
(nước mưa tự nhiên, nước đào giếng…). Quyền thoát nước do vị trí tự nhiên có
thể được chia thành hai loại: thoát nước tự nhiên và thoát nước thải sinh hoạt.
- Thoát nước tự nhiên
Thoát nước tự nhiên được hiểu là thoát nước từ nguồn nước được tạo ra
bởi tự nhiên (nước mưa, nước ngầm, nước của dòng chảy tự nhiên…) mà không
có sự tác động của con người hoặc vượt quá khả năng kiểm soát của con người.
Nước tự nhiên có trên bất động sản của ai thì thuộc sở hữu của người đó. Nhưng
người ta không thể giữ mãi lượng nước đó mà phải có sự thoát nước có thể sẽ
gây ảnh hưởng đến lợi ích của người khác.
Theo điều 250, BLDS 2015 quy định về nghĩa vụ của chủ sở hữu trong
việc thoát nước mưa: “Chủ sở hữu nhà, công trình xây dựng khác phải lắp đặt
đường dẫn nước sao cho nước mưa từ mái nhà, công trình xây dựng của mình
không được chảy xuống bất động sản của chủ sở hữu bất động sản liền kề”.Từ
điều luật này, chúng ta biết rằng khi nước mưa đã được tích tụ từ mái nhà, công
trình xây dựng không được chảy trực tiếp xuống bất động sản liền kề mà phải
“lắp đường dẫn nước” xuống bất động sản của mình. Nếu nước mưa đã chảy
xuống bất động sản của mình mà chảy tràn sang bất động sản liền kề thì không
vi phạm điều luật này mà được áp dụng theo trường hợp nước tự nhiên chảy từ
vị trí cao xuống vị trí thấp. Trích theo điều 252, BLDS 2015: “Trường hợp nước
tự nhiên chảy từ vị trí cao xuống vị trí thấp mà gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất
động sản có nước chảy qua thì người sử dụng lối cấp, thoát nước không phải
bồi thường thiệt hại”. Theo quy luật tự nhiên, nước luôn chảy từ vị trí cao
xuống vị trí thấp. Vì vậy, khi nước tự nhiên chảy theo quy luật tự nhiên, thì đó
được coi là sự kiện ngẫu nhiên gây thiệt hại nên chủ bất động sản bị thiệt hại
phải gánh chịu. Nhưng nếu nước tự nhiện được tích tụ do con người rồi bị trào
ra do sự cố thì sẽ phải bồi thường.
- Thoát nước thải sinh hoạt
Khác với thoát nước tự nhiên, thoát nước thải sinh hoạt sẽ gây ảnh hưởng
đến chủ sở hữu bất động sản liền kề. Nếu như nước mưa rơi xuống cả một vùng
rộng lớn, có tính chất nhất thời và được coi là nước sạch thì nước thải là nước đã
qua sử dụng, không còn sạch và mang tính thường xuyên liên tục. Do yêu cầu
giữ vệ sinh chung cũng như bảo vệ môi trường thì nước thải cần phải được dẫn
thoát theo một đường ống xác định. Điều 251, BLDS 2015 quy định: “Chủ sở
hữu nhà, công trình xây dựng khác phải làm cống ngầm hoặc rãnh thoát nước
để đưa nước thải ra nơi quy định, sao cho nước thải không chảy tràn sang bất
động sản của chủ sở hữu bất động sản liền kề, ra đường công cộng hoặc nơi
sinh hoạt công cộng”. Nếu bất động sản bị vây bọc mà không thể thoát trực tiếp
nước thải ra nơi quy định thì có thể sử dụng bất động sản liền kề để “làm cống
ngầm hoặc rãnh thoát nước để đưa nước thải ra nơi quy định”. Ở đây điều luật
không quy định chỉ được sử dụng bất động sản liền kề mà có thể sử dụng bất kì
bất động sản nào. Tuy vậy, vị trí đường ống vẫn phải được xác định dựa trên
thỏa thuận của các chủ sở hữu, nếu việc đặt đường ống dẫn thoát nước gây thiệt
hại thì chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc phải bồi thường cho chủ sở hữu bất
động sản có đường dẫn nước chảy qua.
3. Quyền về tưới, tiêu nước trong canh tác
Trong sản xuất nông nghiệp nói riêng và trong xã hội nói chung, nước là
một yếu tố đặc biệt quan trọng, không thể thiếu, điều đó được đúc kết qua câu
thành ngữ của ông cha để lại về kinh nghiệm canh tác: “Nhất nước, nhì phân,
tam cần, tứ giống”. Vai trò của nước trong hoạt động sản xuất nông nghiệp là
không thể phủ nhận. Vấn đề thủy lợi đã, đang và sẽ là một trong những vấn đề
quan trọng được quan tâm trong chính sách của nước ta.
Quyền về tưới, tiêu nước được quy định trong điều 253, BLDS 2015:
“Người có quyền sử dụng đất canh tác khi có nhu cầu về tưới nước, tiêu nước,
có quyền yêu cầu những người sử dụng đất xung quanh để cho mình một lối dẫn
nước thích hợp, thuận tiện cho việc tưới, tiêu; người được yêu cầu có nghĩa vụ
đáp ứng yêu cầu đó; nếu người sử dụng lối dẫn nước gây thiệt hại cho người sử
dụng đất xung quanh thì phải bồi thường”.Theo quy định này thì quyền được
tưới, tiêu nước chỉ được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp. Phạm vi quyền
yêu cầu không chỉ bó hẹp ở người sở hữu bất động sản liền kề mà mở rộng ra
với “những người sử dụng đất xung quanh”. Người có quyền sử dụng đất canh
tác là người đang trực tiếp canh tác trên đất đó, họ có thể là người được Nhà
nước giao đất, cho thuê đất, hoặc những người khác (người khai hoang, phục
hóa...). Thực tế cho thấy, nước là một yếu tố không thể thiếu trong hoạt động
sản xuất nông nghiệp. Việc tưới nước, tiêu nước luôn liên quan đến lợi ích của
người canh tác bởi nó kèm theo những chi phí nhất định mà họ phải bỏ ra. Xét
về mặt kinh tế, người canh tác phải làm đường dẫn nước sao cho “thích hợp,
thuận tiện cho việc tưới tiêu” . Thích hợp và thuận tiện như thế nào thì cần phải
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: khối lượng nước cần tưới, tiêu; vị trí của mảnh
đất canh tác với nguồn nước; phương tiện lấy nước...Theo quan niệm chung thì
đường dẫn nước thích hợp có thể coi là đường dẫn nước ngắn nhất, nhưng nếu
các bên có thỏa thuận dẫn nước theo hướng khác thì pháp luật không cấm.
Những chủ sử dụng đất xung quanh có nghĩa vụ tôn trọng và đáp ứng nhu cầu
chính đáng này của họ. Ngược lại, nếu người sử dụng lối dẫn nước gây thiệt hại
cho người sử dụng đất xung quanh thì phải bồi thường.
4. Quyền mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc
Nhu cầu về điện, thông tin liên lạc là nhu cầu cần thiết và là yếu tố quan
trọng để sản xuất, kinh doanh cũng như đời sống sinh hoạt. Điện năng chỉ có thể
được truyền tải thông qua hệ thống đường dây tải điện mà tất cả các hộ gia đình
đều phải sử dụng đến phương tiện này. Vì vậy, BLDS đã có quy định về quyền
được mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc qua bất động sản khác tại điều
255, BLDS 2015: “Chủ sở hữu bất động sản có quyền mắc đường dây tải điện,
thông tin liên lạc qua bất động sản của các chủ sở hữu khác một cách hợp lý,
nhưng phải bảo đảm an toàn và thuận tiện cho các chủ sở hữu đó; nếu gây thiệt
hại thì phải bồi thường”.
Căn cứ vào quy định này, pháp luật dân sự đã cho phép chủ sở hữu bất
động sản có quyền mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc qua bất động sản
của các chủ sở hữu khác mà không phụ thuộc vào vị trí của các bất động sản có
liền kề hay không, tuy vậy, phải đảm bảo an toàn và thuận tiện cho các chủ sở
hữu đó. Dù việc mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc thuộc về phần kỹ
thuật của cơ quan cung cấp dịch vụ, nhưng để được mắc đường dây thì phải có
sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các chủ sở hữu bất động sản liền kề.
Quan niệm an toàn và thuận tiện có thể hiểu là các hệ thống đường dây
này không được gây cản trở, nguy hiểm, không gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại cho cho chủ sở hữu bất động sản có đường dây tải điện đi qua. Trong
trường hợp hệ thống này gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản mà nó đi qua
thì phải bồi thường. Tuy nhiên người chịu trách nhiệm bồi thường và bồi thường
theo chế định nào không được điều luật quy định cụ thể. Do vậy, có thể hiểu
rằng nếu đường dây tải điện, thông tin liên lạc gây thiệt hại thì chủ sở hữu
đường dây đó phải chịu trách nhiệm, trừ trường hợp chứng minh được lỗi của
nhà cung cấp điện, thông tin liên lạc.
V. MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ
ĐỊNH VỀ QUYỀN ĐỐI VỚI BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ.
1. Theo quy định tại khoản 3, điều 254, BLDS 2015:“Trường hợp bất
động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác
nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định
tại khoản 2 điều này mà không có đền bù”. Thực tế cho thấy có thể việc phân
chia bất động sản là một ngôi nhà nhiều tầng và phân chia theo từng tầng. Vậy
thì khoản này chưa thỏa đáng ở chỗ “dành lối đi cần thiết cho người phía
trong” nên kiến nghị bổ sung thêm dành lối đi cần thiết cho người phía trên.
2. Quyền được xây dựng hệ thống tải điện, thông tin liên lạc qua bất động
sản liền kề quy định tại điều 255, BLDS 2015 là quyền của chủ sở hữu bất động
sản bị vây bọc. Tuy nhiên, việc mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc trong
hợp đồng cung cấp dịch vụ thường do bên cung cấp dịch vụ đảm nhiệm.Vì vậy
nếu pháp luật chỉ quy định chủ sở hữu bất động sản có quyền mắc đường dây tải
điện, thông tin liên lạc qua bất động sản liền kề là chưa chặt chẽ. Do đó cần bổ
sung thêm các tổ chức cung cấp dịch vụ vào nhóm chủ thể có quyền mắc đường
dây tải điện, thông tin liên lạc qua bất động sản.
3. Khoản 1, điều 254, BLDS 2015 có nhắc đến “lối đi thuận tiện, hợp lý”
trong phần quyền về lối đi qua bất động sản liền kề nhưng như vậy là chưa rõ.
Về lối đi thuận tiện, hợp lý, BLDS 2015 chỉ quy định: “Vị trí, giới hạn, chiều
rộng, chiều cao của lối đi do các bên thỏa thuận bảo đảm thuận tiện cho việc đi
lại và ít gây phiền hà cho các bên”. BLDS 2015 chưa quy định rõ lối đi thuận
tiện, hợp lý chỉ là lối đi lại thông thường phục vụ cho sinh hoạt cá nhân hay lối
đi dành cho mục đích kinh doanh thương mại? Điều này là chưa đáp ứng được
với nhu cầu đặt ra của những hộ gia đình kinh doanh thương mại, vì vậy cần
được quy định bổ sung cho phần này.
4. Về vấn đề thỏa thuận đền bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề dành
lối đi BLDS 2015 cần quy định về các biện pháp xử lý, giải quyết trong trường
hợp chủ sở hữu bất động sản bất động sản liền kề không cho phép chủ sở hữu
nhà, người sử dụng đất tạo lối đi, cấp thoát nước… trên đất của họ mặc dù
những người này đã thỏa thuận đền bù.
5. Về thay đổi việc thực hiện quyền đối với bất động sản liền kề. Điều
249, BLDS 2015 có đoạn quy định: “Trường hợp có sự thay đổi về sử dụng,
khai thác bất động sản chịu hưởng quyền dẫn đến thay đổi việc thực hiện quyền
đối với bất động sản hưởng quyền thì chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng
quyền phải thông báo trước cho chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền trong
một thời hạn hợp lý...” Ở đây, BLDS 2015 không quy định rõ “thời hạn hợp lý”
là bao lâu? Đây là kẽ hở để kẻ xấu có thể lợi dụng theo đó làm lợi cho mình.
Tranh chấp sẽ rất dễ xảy ra khi các bên không đồng quan điểm về “thời hạn hợp
lý”. Vì thế, cần có sự bổ sung thuyết phục về phần này.
C. KẾT LUẬN
Xã hội loài người luôn luôn vận động và phát triển không ngừng theo
hướng ngày càng văn minh và hiện đại, điều đó yêu cầu pháp luật phải dự tính
được những tiêu cực có thể nảy sinh để có được sự điều chỉnh kịp thời và phù
hợp. Trong đó, chế định quyền đối với bất động sản liền kề là một dạng quyền
đối với tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của người khác, là một vấn đề vừa
mang tính lịch sử, vừa mang tính thời đại, nó không chỉ có ý nghĩa về mặt lý
luận mà còn mang tính thực tiễn sâu sắc.
Hiện tại, về chế định quyền đối với bất động sản liền kề, BLDS 2015 đã
có nhiều điểm mới tiến bộ so với các bộ luật cũ, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một
vài bất cập nhỏ cần giải quyết. Mong rằng, trong tương lai, chế định quyền đối
với bất động sản liền kề sẽ tiếp tục được hoàn thiện hơn nữa, qua đó góp phần
nâng cao chất lượng pháp luật nước nhà, phục vụ tốt nhất cho nhu cầu của nhân
dân.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 1,
Nxb Chính trị quốc gia, 2014.
2. Bộ luật Dân sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015,
Nxb Lao Động.
3. PGS.TS Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của bộ
luật dân sự năm 2015, Nxb Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam.
4. TS. Đinh Trung Tụng (2016), Bối cảnh xây dựng và một số nội dung mới chủ
yếu của Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb Tư pháp.
5. Luật Tài nguyên nước (2012)
6.
/>
43218/
7.
/>
lien-ke.htm
8.
/>
theo-phap-luat-viet-nam-hien-nay-43582.html
Thuật ngữ viết tắt trong bài
BLDS: Bộ luật dân sự