Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thực hiện pháp luật về phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc việt nam từ thực tiễn tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM CẨM THỦY

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGHỆ AN, 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM CẨM THỦY

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
MÃ SỐ: 60.38.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Hồng

NGHỆ AN, 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ cơng trình khoa học nào khác.
Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của trường Đại học Vinh.
Vậy, tôi viết lời cam đoan này kính đề nghị Trường Đại Vinh cho tơi đươc
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả Luận văn

Phạm Cẩm Thủy


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài luận văn: “Thực hiện pháp luật về phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nghệ An”, tôi xin chân thành
cảm ơn tập thể quý thầy cô giáo Khoa Luật, phòng Sau đại học trường Đại học
Vinh cùng với người thân, bạn bè đã động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tơi trong q trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lịng biết ơn sâu sắc tới TS. Phạm
Thị Hồng, người đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt q trình làm luận
văn.
Tuy đã cố gắng rất nhiều, nhưng chắc chắn luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy, tơi rất mong nhận được sự thơng cảm, đóng góp ý kiến
từ phía các nhà khoa học và quý thầy cô giáo!
Trân trọng cảm ơn!

Nghệ An, ngày tháng năm 2017
Tác giả

Phạm Cẩm Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHẢN
BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ............................ 9
1.1. Vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
hệ thống chính trị................................................................................................... 9
1.2. Thực hiện pháp luật về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam . 13
1.3. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện pháp luật về
phản biện xã hội .................................................................................................. 25
Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................... 33
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHẢN BIỆN
XÃ HỘI CỦA ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỈNH NGHỆ
AN ....................................................................................................................... 34
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Nghệ An ................... 34
2.2. Đánh giá việc thực hiện pháp luật về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tỉnh Nghệ An ...................................................................................... 38
Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................... 54
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN ...... 56
3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng việc thực hiện pháp luật vê phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nghệ An .................... 56
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng việc thực hiện pháp luật về phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nghệ An .................... 62

Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................... 72
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 75



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở nước ta, việc đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân, do một Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo, thì việc phát huy vai
trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Là
một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta hiện nay, là cơ sở chính
trị của chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự
nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, gắn bó mật thiết giữa nhân dân
với Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Trên tinh thần đó, Đảng ta rất chú trọng phát huy sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc, quyền làm chủ của nhân dân. Một trong những biểu hiện của vấn đề này
là coi trọng hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể. Nghị quyết Đại hội X của Đảng khẳng định: “Phát huy vai trò và tạo
điều kiện thuận lợi để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng
đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, thực hiện
vai trò giám sát và phản biện xã hội” [4,tr.304-305]. Đại hội cũng khẳng định
chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc đối với việc hoạch
định đường lối, chủ trương, chính sách, các quyết định lớn của Đảng và việc tổ
chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ. Đây là một bước tiến

quan trọng trong tiến trình đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng lãnh
đạo của Đảng, đồng thời xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.
Với tư cách là người làm chủ, nhân dân có quyền giám sát mọi hoạt động
của Nhà nước. Và việc thực hiện phản biện xã hội chính là cơng cụ rất hữu hiệu
để nhân dân phát huy vai trị này của mình. Trong thời gian qua, các văn kiện,


2
nghị quyết, dự thảo, nhiều quyết sách quan trọng, dự án lớn đã tranh thủ được ý
kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân. Đại diện của nhân dân ngày càng phát
huy được vai trò và trách nhiệm của mình, phản ánh được ý chí, nguyện vọng
của nhân dân thông qua các phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp
Quốc hội; Hội đồng Nhân dân các cấp… Sự điều chỉnh kịp thời và có hiệu quả
những quyết sách đó khơng chỉ đã chứng tỏ “Ý Đảng hợp với lòng dân” mà còn
thể hiện hiệu ứng tích cực của phản biện xã hội. Những kết quả đó đã được thể
hiện qua các kênh cơng khai, có tổ chức, có mục đích cụ thể như việc bảo vệ các
chương trình, đề tài khoa học nhà nước được hội đồng đánh giá, việc thẩm định
các kế hoạch đề án, dự án… Tuy nhiên tình trạng lộng quyền, quan liêu, tham
nhũng trong Đảng vẫn còn là vấn đề nhức nhối. Vì vậy, việc thực hiện pháp luật
về phản biện xã hội, phát huy dân chủ sẽ tránh được tình trạng này, giúp Đảng
đề ra đường lối, chủ trương đúng với mong muốn chính đáng của nhân dân.
Phản biện xã hội tốt sẽ góp phần giải quyết vấn đề lớn hiện nay là xây dựng
Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị, trong đó có Mặt trận và các đoàn thể
ngày càng trong sạch vững mạnh.
Trong những năm qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tỉnh Nghệ An
và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng cơng cuộc đổi mới,
phát triển kinh tế, xã hội, giữ gìn an ninh trật tự, xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư. Trong thực hiện pháp luật về phản biện xã hội, Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam và các đoàn thể ở Nghệ An đã tham gia góp ý, kiến nghị đối với dự
thảo một số dự án luật; chủ trương chính sách, chương trình, dự án của Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân; dự thảo văn kiện của Đảng, đề án nhân sự trước các
kỳ đại hội của tổ chức đảng các cấp. Kiến nghị với các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền điều chỉnh một số chính sách liên quan trực tiếp tới quyền lợi của người
dân và cán bộ ở cơ sở, khối xóm...


3

Tuy nhiên, thực tế việc thực hiện pháp luật về phản biện xã hội của Mặt
trận và các tổ chức đồn thể các cấp ở tỉnh Nghệ An cịn bộc lộ nhiều hạn chế về
nội dung, hình thức và phương pháp, nhất là đối với các tổ chức đoàn thể. Nội
dung, phương thức phản biện còn lúng túng, chất lượng phản biện chưa đáp ứng
được mong muốn và nguyện vọng của người dân. Do đó, cần phải có những
cơng trình nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đề xuất những kiến nghị để phát
huy vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
tỉnh Nghệ An ngày càng hiệu quả hơn.
Xuất phát từ thực tế nói trên, tơi đã chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nghệ An”
làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học nên đã có rất nhiều
những cơng trình nghiên cứu trong lĩnh vực này. Cụ thể:
- Phan Xuân Sơn (chủ biên), Vai trị của các đồn thể nhân dân trong việc
bảo đảm dân chủ ở cơ sở, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Đây
là một cơng tình nghiên cứu khoa học góp phần trình bày tương đối hệ thống
quá trình hình thành, phát triển, nội dung, phương thức hoạt động của các đoàn
thể nhân dân nhằm thực hiện chức năng chính trị là cầu nối giữa Đảng, Nhà

nước và nhân dân; bảo vệ lợi ích và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, đặc
biệt là việc bảo đảm dân chủ ở cấp xã trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong khi khẳng
định những thành tựu, tác giả cũng chỉ ra những bức xúc, yếu kém trong hoạt
động của các đoàn thể nhân dân theo hướng hồn thiện hệ thống chính trị ở nước
ta. Đây là một trong những vấn đề có ý nghĩa lý luận, thực tiễn to lớn, có tính
thời sự cấp bách.


4

- Nguyễn Thị Hiền Oanh (2006), Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay,
Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội. Tác giả đã có những nghiên cứu về vấn đề lí
luận và thực tiễn về mặt trận và công tác Mặt trận ở nước ta hiện nay như: vai
trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân; phương hướng, giải pháp để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy được
quyền làm chủ ấy.
- Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (chủ biên), Nguyễn Thị
Hồng Diễm (2009), Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nhóm tác giả đã trình bày khái niệm, bản chất, đặc
điểm, chủ thể, khách thể, đối tượng, nguyên tắc và phương thức của phản biện
xã hội. Vấn đề phản biện xã hội trong nền dân chủ pháp quyền ở Việt Nam nói
chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
- Huỳnh

Đảm (2011), Phát huy vai trị giám sát, phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết XI của Đảng,

tạp chí Cộng sản, số 829. Bài viết này đã góp phần đưa ra định hướng cho tác
giả luận văn trong quá trình đưa ra các giải pháp để thực hiện tốt hơn hoạt động
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận.
- Nguyễn Đức Thành, Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc và các đồn thể - Nhìn từ thực tiễn tỉnh Nghệ An, Tạp chí Mặt trận
số 108 năm 2012. Tác giả đã chỉ ra thực trạng hoạt động giám sát và phản biện
xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Nghệ An và các đồn thể, từ
đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động giám
sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc.
- Nguyễn Thị Lan, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xây dựng sự đồng thuận xã
hội trong công cuộc đổi mới đất nước, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2012. Tác giả đã đưa ra những quan niệm về đồng thuận xã hội, xây dựng sự


5
đồng thuận xã hội là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, các lực lượng xã hội,
trong đó Mặt trận đóng vai trị rất quan trọng. Tác giả đề ra những nhóm giải
pháp để Mặt trận thực hiện tốt hơn nhiệm vụ này. Trong quá trình nghiên cứu,
tác giả đã đề cập đến hoạt động phản biện xã hội, tuy nhiên, không đi sâu nghiên
cứu vào vấn đề này.
- Bộ Chính trị (2013), Quyết định số 217-QĐ/TW về việc Ban hành Quy
chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể chính trị-xã hội có 5 chương, 19 điều. Quyết định số 218-QĐ-TW ban hành
Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn thể chính trị-xã hội và
nhân dân tham gia góp ý, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền có 5 chương,
21 điều. Đây là những chủ trương hết sức quan trọng nhằm tiếp tục phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, quyền, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
đồn thể chính trị-xã hội và nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền
trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng,
hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, đồng thời tiếp tục thể chế hóa cơ chế

Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; tăng cường mối quan hệ
mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
- Vũ Hồng Anh (chủ biên), Dương Văn Sao, Đinh Thị Mai (2013), Phản
biện xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước của Quốc hội, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nhóm tác giả
đã trình bày khái niệm, tính chất, đặc điểm, đối tượng, chủ thể, nguyên tắc, vai trò
của phản biện xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết định những vấn
đề quan trọng của đất nước. Thực trạng, yêu cầu và giải pháp tăng cường phản
biện xã hội trong hoạt động lập pháp, hoạt động quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước.
Đây là những cơng trình tham khảo hữu ích cho những ai nghiên cứu về
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng như vai trị của Mặt trận trong cơng tác phản
biện xã hội. Tuy nhiên, nghiên cứu về việc thực hiện pháp luật về phản biện xã


6
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nghệ An cho đến nay chưa
có cơng trình nào. Do vậy có thể nói đề tài nghiên cứu mà tác giả luận văn chọn:
“Thực hiện pháp luật về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Nghệ An” là cơng trình đầu tiên nghiên cứu vấn đề này dưới góc
độ khoa học pháp lý.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đề
tài góp phần làm rõ việc thực hiện pháp luật về vai trò này của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nghệ An, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về phản biện xã hội của Mặt trận cũng như
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới.
Để đạt được mục đích trên, Luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam.

- Phân tích, đánh giá thực trạng về những kết quả đạt được và hạn chế
trong việc thực hiện pháp luật về phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tỉnh Nghệ An trong thời gian vừa qua, rút ra được những mặt được,
chưa được và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị thiết thực để phát huy hơn nữa chất
lượng việc thực hiện pháp luật về hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về vai trò phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Nghệ An.
- Trong Luận văn này, tác giả chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện pháp luật về phản biện xã hội
trong giai đoạn hiện nay.


7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở các quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về dân chủ, về kiểm soát quyền lực, về vai trò của nhân dân, của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị-xã hội trong việc giám sát hoạt động của
bộ máy Đảng và Nhà nước, thực hiện phản biện xã hội trong quá trình hình thành
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn vận dụng tổng hợp những nguyên
tắc, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các
phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, hệ thống,
so sánh, lơgic, lịch sử…
6. Những đóng góp của đề tài
- Luận văn là một trong những cơng trình nghiên cứu một cách tương đối
hệ thống, chuyên sâu về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực

hiện pháp luật về phản biện xã hội.
- Luận văn đưa ra những đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về phản
biện xã hội của Mặt trận và các tổ chức đoàn thể cấp tỉnh ở Nghệ An trong
những năm gần đây.
- Luận văn đưa ra một số kiến nghị về phương hướng, giải pháp chủ yếu
về cơ chế, chính sách nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong việc thực hiện hoạt động phản biện xã hội.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn cịn có thể làm tài liệu tham khảo cho
hoạt động nghiên cứu, giảng dạy…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận việc thực hiện pháp luật về phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.


8
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về phản biện xã hội của Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Nghệ An.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng việc thực
hiện pháp luật về phản biện xã hội cua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Nghệ An.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1.1. Vị trí, vai trị, chức năng và nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong hệ thống chính trị

1.1.1. Vị trí, vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống
chính trị
Khi cách mạng chưa giành được chính quyền về tay nhân dân, theo yêu
cầu của cách mạng, Mặt trận có lúc đã thực hiện chức năng của chính quyền
trong vùng giải phóng. Ngay sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân,
Mặt trận đã trở thành một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị nước ta.
Theo Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16-8-1999, Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, thì hệ thống chính trị nước ta bao gồm
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội.
Sự quy định này xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu khách quan của sự
nghiệp cách mạng, là xuất phát từ thể chế chính trị: Nước ta là nước dân chủ,
mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Đây còn là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền
thống từ khi có Đảng Cộng sản là có Mặt trận. Ngay sau khi giành được chính
quyền, Đảng, chính quyền, Mặt trận là những bộ phận hợp thành hệ thống chính
trị. Tuy vai trị, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động có khác nhau nhưng
đều là cơng cụ để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân và cùng có
chung mục đích là phấn đấu xây dựng nhà nước Việt Nam hịa bình, độc lập,
thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế.
Vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị được quy
định rõ. Với Đảng, Mặt trận Tổ quốc do Đảng lãnh đạo. Với chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Với các


10
đoàn thể nhân dân, Mặt trận là nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành
động của các thành viên.
Theo Điều 9, Hiến pháp năm 2013 đã xác định: Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị,
các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các
giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước

ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân;
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng
thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, nhà nước,
hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [26,tr.2324]. Điều này càng khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận khơng
thể thiếu của hệ thống chính trị nước ta.
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không phải tự Mặt trận khẳng
định mà do nhân dân và lịch sử thừa nhận; đã được thể hiện trong nhiều văn
kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trị của quần chúng trong lịch sử, vị trí của khối đại đoàn kết toàn
dân trong các thời kỳ của cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
xác định nhiệm vụ chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong cách
mạng giải phóng dân tộc cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế thế giới
hiện nay. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ trước đến nay đã khẳng định vị trí,
vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị.
Thắng lợi huy hồng của cách mạng Tháng Tám năm 1945 gắn liền với sự
nghiệp của Mặt trận Việt Minh. Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự
kế tục sự nghiệp cách mạng đã được chuẩn bị từ trước của Hội Phản đế đồng
minh (1930-1936) và của Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939).


11
Tiếp theo Mặt trận Việt Minh là Mặt trận Liên Việt đã góp phần đưa cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi.
Kế tục Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời (1955) đã
đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
Miền Bắc, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

đã cùng Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực
lượng dân tộc dân chủ và hịa bình Việt Nam đồn kết nhân dân cả nước làm
tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hồn
thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Từ khi đất nước thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò quan
trọng trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ cách mạng mới.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, Mặt trận không ngừng được lớn mạnh và
phát triển cùng với những chặng đường lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam.
Ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng, Mặt trận dân tộc Việt Nam có những
hình thức và tên gọi khác nhau cho phù hợp với nhiệm vụ nhưng đều nhằm mục
đích xây dựng, tập hợp các tầng lớp nhân dân thành một khối đồn kết, thống nhất
về ý chí và hành động để hoàn thành những mục tiêu cách mạng do Đảng Cộng
sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
Ở nước ta, việc đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân, do một Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo thì việc phát huy vai
trị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Hiến pháp 2013 cũng như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi) năm
2015 đã có nhiều quy định mới liên quan đến quyền và trách nhiệm cũng như
chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.


12
Theo đó, chức năng và nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao
gồm: tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng
cường đồng thuận xã hội; tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện quyền làm
chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tham

gia xây dựng Đảng, Nhà nước; thực hiện giám sát, phản biện xã hội; tập hợp,
tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân để phản ánh, kiến nghị với
Đảng, Nhà nước; thực hiện hoạt động đối ngoại nhân dân.
Từ chức năng và nhiệm vụ chung của Mặt trận Tổ quốc nêu trên, Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc từng cấp căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong
từng thời kỳ và tình hình cụ thể của mỗi địa phương để đề ra chương trình
hành động cho Mặt trận cấp mình trong mỗi kỳ đại hội, hay chương trình phối
hợp thống nhất hành động từng năm một cách phù hợp và có tính khả thi.
Nghị quyết Đại hội đại biểu tồn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ
VIII, nhiệm kỳ 2014-2019 đã nêu rõ mục tiêu hành động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam trong thời gian tới đó là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tập trung đổi mới
mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả tuyên truyền,
vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội, phát huy dân chủ, thực
hiện giám sát và phản biện xã hội, tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính
quyền vững mạnh, góp phần phát triển bền vững kinh tế, xã hội, đầy nhanh sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nơng thôn mới, đô thị văn minh,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh và hạnh phúc của nhân dân.


13

1.2. Thực hiện pháp luật về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam
1.2.1. Khái niệm
Theo nghĩa từ nguyên, phản có nghĩa là nghĩ, xét lại, biện là phân tích,
biện luận. Nếu gắn phản với biện có nghĩa là phân định xấu, tốt, trên cơ sở phân
tích, biện luận. Phản biện, có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, tuy nhiên

theo nghĩa hẹp, phản biện được hiểu là xem xét, đánh giá, bàn bạc trao đổi vấn
đề ở nhiều khía. Phản biện, thường có tác dụng làm cho vấn đề đưa ra phản biện
hồn thiện hơn, thơng qua việc người phản biện chỉ ra những thiếu sót hạn chế
của nó đồng thời đưa ra hướng khắc phục. Vì vậy, người phản biện phải là người
am hiểu sâu sắc các vấn đề mà mình phản biện. Ban đầu khái niệm phản biện
thường dùng để nhận xét, đánh giá chất lượng một cơng trình khoa học, sau đó
dần mở rộng ra lĩnh vực chính trị-xã hội. Trên thực tế có nhiều loại phản biện
khác nhau với nhiều chủ thể tham gia (phản biện khoa học, phản biện xã hội…)
trong đó phản biện xã hội có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đặc biệt đối với nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
Khái niệm phản biện đã được nhiều tác giả chỉ ra. Theo Từ điển Tiếng
Việt do Nhà xuất bản Đà Nẵng cùng trung tâm từ điển học xuất bản năm
1998, giải thích thuật ngữ “phản biện” là: đánh giá đúng chất lượng một
cơng trình khoa học khi cơng trình được đưa ra bảo vệ để lấy học vị trước
hội đồng chấm thi” [30, tr.342] Chẳng hạn phản biện luận án tiến sĩ, luận
văn thạc sĩ, phải có người học vị tiến sĩ hoặc tương đương trở lên thì mới có
thể thực hiện việc phản biện, làm nhiệm vụ nhận xét, đánh giá chất lượng về
lý luận, thực tiễn và giá trị của luận văn, luận án. Đây là một quy trình khoa
học, bắt buộc để đánh giá một cơng trình khoa học. Như vậy, phản biện ở
đây là hoạt động của cá nhân, nhóm người nhằm đánh giá, nhận định chất
lượng về lý luận, thực tiễn, giá trị khoa học đối với cơng trình nghiên cứu
của một cá nhân hoặc nhóm người.


14
Theo tác giả cuốn sách “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại
hội X của Đảng” thì phản biện “là nhận xét, đánh giá, bình luận, thẩm định
cơng trình khoa học, dự án, đề án trong các lĩnh vực khác nhau”; “phản biện
xã hội là phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, ý
thức trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, góp ý

kiến với cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước” [20, tr.182].
Phản biện xã hội là sự phản biện nói chung, nhưng có quy mơ và lực
lượng rộng rãi hơn của xã hội, của nhân dân, và các nhà khoa học về nội dung,
phương hướng, chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế-xã hội, khoa
học-công nghệ, giáo dục, y tế, mơi trường, trật tự an ninh chung tồn xã hội của
Đảng, Nhà nước và các tổ chức liên quan.
Tác giả Vũ Ngọc Lân viết: “Phản biện xã hội là sự thẩm định, đánh giá,
nhận xét của một số tổ chức chính trị-xã hội này đối với một đường lối, nghị
quyết, kế hoạch, chương trình hành động, đề án, dự án chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội… của một tổ chức chính trị-xã hội khác đưa ra, liên quan đến sự ổn
định đất nước, địa phương được đưa ra lấy ý kiến trước khi quyết định, đưa vào
thực hiện” [43, tr.42].
Điều 1, Chương I, trong Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị-xã hội của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng ban hành kèm theo Quyết định 217-QĐ/TW, ngày 12 tháng
12 năm 2013 nêu rõ: “Phản biện xã hội là việc nhận xét, đánh giá, nêu chính
kiến, kiến nghị đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước” [2, tr.2]. Đây là một minh chứng thể hiện tính dân
chủ, tính khoa học trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Về phía Nhà nước, để
phát huy quyền phản biện xã hội của các tầng lớp nhân dân.
Một nhận thức khác: Phản biện xã hội là sự phản tư của các lực lượng xã
hội đối với những kiến tạo chính sách, thể chế... trực tiếp liên quan đến quyền
lợi của các thành viên trong cộng đồng, từ đó giúp các cơ quan hữu quan điều


15
chỉnh chủ trương, chính sách cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Như vậy, về
bản chất, phản biện xã hội là sự tương tác, giao thoa về quan điểm, tư tưởng
giữa các lực lượng (chính trị, kinh tế, xã hội) trong một cộng đồng. Do đó, thực
tiễn và chất lượng của hoạt động phản biện nói lên tính chất tiến bộ, trình độ dân

chủ, văn minh của cộng đồng ấy. Nghiên cứu phản biện xã hội, vì vậy, khơng
thuần túy là nghiên cứu một hiện tượng mang tính liên chủ thể (chính trị-kinh tếvăn hóa-xã hội) mà cịn tạo tiền đề để giải phẫu những vấn đề cốt yếu, nền tảng
của toàn bộ hệ thống xã hội.
Như vậy, phản biện xã hội là tiếng nói nhận thức của xã hội, của các
lực lượng xã hội. Đó là những lập luận có chứng cứ (khoa học, thực tiễn)
nhằm phát hiện, bổ sung, chứng minh, khẳng định hoặc bác bỏ, phủ định một
chủ trương, chính sách hay đề án xã hội được cơng bố hay đang hình thành.
Việc thực hiện pháp luật về phản biện xã hội chính là sự đánh giá chất lượng
chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về kinh
tế, xã hội, chính trị… góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn
đời sống xã hội, đáp ứng tốt nhất cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước trong
giai đoạn cách mạng hiện nay.
Từ nhiều định nghĩa nêu trên có thể rút ra những đặc trưng chung
nhất của phản biện xã hội như sau:
Phản biện là một hoạt động phân tích độc lập. Đây là một yếu tố rất quan
trọng bảo đảm tính khách quan và chính kiến của chủ thể phản biện. Mất đi yếu
tố này thì phản biện sẽ giảm hoặc khơng cịn giá trị.
Phản biện xã hội là xem xét, phân tích, lập luận các mặt khác nhau của
một vấn đề để tiệm cận chân lý. Đó là đặc điểm chung giống như mọi loại phản
biện khác.
Phản biện xã hội được tiến hành bởi lực lượng xã hội, thơng qua các tổ chức
xã hội được hình thành theo nguyên tắc tự lập, tự nguyện, tự dưỡng; hoặc được tiến
hành một cách trực tiếp bởi các thành viên của xã hội.


16
Phản biện xã hội có tính xây dựng đối với hệ thống lãnh đạo và quản lý,
nó khác với phản kháng mang động cơ chống lại sự lãnh đạo và quản lý xã hội.
Phản biện xã hội nhằm vào mọi lĩnh vực hoạt động diễn ra trong đời sống
xã hội, từ khâu hoạch định đến khâu tổ chức thực hiện mọi chủ trương, chính

sách, pháp luật, bao gồm cả sự việc liên quan đến bộ máy tổ chức và con người
thực hiện.
Phản biện xã hội về thực chất chính là sự phản biện của nhân dân, nhân
dân là chủ thể của phản biện xã hội. Với tư cách là người làm chủ, nhân dân có
quyền giám sát đối với mọi hoạt động của Nhà nước. Thực hiện phản biện xã
hội chính là cơng cụ rất hữu hiệu cho nhân dân trong việc thực hiện quyền giám
sát đó. Với tư cách là đối tượng chịu sự quản lý của Nhà nước, nhân dân có
quyền bảo vệ những lợi ích, quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mình trước
những chủ trương, chính sách đề án của Nhà nước chưa đáp ứng đầy đủ hoặc
xâm phạm các quyền lợi đó, giúp Nhà nước điều chỉnh chủ trương, chính sách
phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Như vậy, bản chất của phản biện xã hội là
sự thực hành dân chủ, là đặc trưng rõ ràng của đời sống dân chủ xã hội.
Thể chế hóa các quy định về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tại Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đồn thể chính trị - xã hội (ban hành theo Quyết định số 217-QĐ/TW
ngày 12/12/2013) của Bộ Chính trị (Khóa XI), Khoản 1, Điều 32 Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam năm 2015 đã quy định: Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trực tiếp
hoặc đề nghị tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhận xét,
đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối với dự thảo văn bản pháp luật, quy
hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án (gọi chung là dự thảo văn bản)
của cơ quan nhà nước.
Từ khái niệm nêu trên có thể rút ra: Thực hiện pháp luật về phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận và các tổ chức


17
đoàn thể từ những quy định của pháp luật, tham gia góp ý kiến, kiến nghị, đề
xuất đối với các dự thảo chủ trương, đường lối, chính sách, quyết định lớn của
Đảng; dự thảo các văn bản pháp luật của Nhà nước, giải pháp phát triển kinh

tế-xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học-công nghệ, y tế, môi trường, an ninh
quốc phịng, trật tự xã hội, một số cơng trình, dự án sẽ được thực thi ở địa
phương. Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc được thực hiện một cách khoa
học, mang tính thuyết phục cao và được sự đồng thuận của xã hội do ý kiến
phản biện được tập hợp từ các tầng lớp nhân dân, trong đó nịng cốt là ý kiến
của các chun gia, nhà khoa học, của người có chun mơn về lĩnh vực được
đưa ra phản biện.
1.2.2. Cơ sở pháp lý việc thực hiện pháp luật về phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Ở nước ta, việc đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân, do một Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo, thì việc phát huy vai
trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cho dù
ở giai đoạn trước kia hay hiện nay, thì vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc vẫn
đúng theo tinh thần của Điều 9, Hiến pháp 2013, có chức năng là tổ chức liên
minh chính trị, liên hiệp một cách tự nguyện, rộng rãi của tổ chức chính trị-xã
hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã
hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Khoản 1, Điều 9 Hiến pháp 2013 quy định: “…Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện
xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [36.tr3]. Lần đầu tiên trong Hiến pháp, chức
năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được đề cập một cách có


18
hệ thống và sau đó được cụ thể hóa bằng Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các

đồn thể chính trị - xã hội (ban hành theo Quyết định số 217-QĐ/TW ngày
12/12/2013) của Bộ Chính trị (Khóa XI).
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Điều lệ
Đảng; Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban
bí thư khóa XI; ngày 12/12/2013, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 217QĐ/TW về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị-xã hội, và Quyết định số 218-QĐ/TW
về ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính
trị-xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Đây là hai quyết định có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của Đảng,
thể hiện sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng đối với việc phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là chủ thể phản biện giữ vị trí và vai trị quan
trọng nhất. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi) năm 2015 đã khẳng định:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại
diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận
xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt
động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện các nghị quyết, quy định của Đảng, Hiến pháp năm 2013, Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ngày 15/6/2017, Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ và Đồn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã
phối hợp tổ chức lễ ký kết Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-


19

UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWWMTTQVN về các hình thức giám sát, phản biện
xã hội.

Với vị trí như vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hồn tồn có cơ sở pháp lý
và cơ sở thực tiễn trong tập hợp ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân
để thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội của mình. Để việc thực
hiện pháp luật về phản biện xã hội của Mặt trận, các đồn thể thực sự có hiệu
quả thì cần thực hiện tốt quy trình: các cấp ủy Đảng và cơ quan quyền lực nhà
nước các cấp khi đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, cẩn thân các dự thảo nghị quyết,
kế hoạch, dự án, đề án… thì sẽ đưa ra Mặt trận Tổ quốc thực hiện vai trò, chức
năng phản biện xã hội của mình. Muốn vậy, Đảng, Nhà nước cũng như các cơ
quan tham mưu giúp việc phải thực sự mở rộng dân chủ, tránh tư tưởng cục bộ,
mà tất cả vì lợi ích lâu dài của quốc gia, dân tộc. Sau khi thực hiện phản biện,
nếu nghị quyết, kế hoạch, chương trình phải thay đổi, chỉnh sửa thì phải tiếp tục
thực hiện phản biện lại.
1.2.3. Chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Thực hiện pháp luật về phản biện xã hội là vai trị vơ cùng quan trọng của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhằm phát hiện những nội dung còn thiếu, chưa
đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ quan Đảng, Nhà nước,
kiến nghị những nội dung thiết thực, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp
với thực tiễn đời sống xã hội và tính hiệu quả trong việc hoạch định chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội.
Đánh giá cao vai trò của phản biện xã hội, văn kiện Đại hội XI của Đảng
đã chỉ rõ: “Đảng tơn trọng tính tự chủ, ủng hộ hoạt động tự nguyện, tích cực
sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến của mặt trận và các đồn thể. Đảng,
Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để mặt trận và các đồn thể nhân
dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội” [5,
tr.87]. Đây là một minh chứng thể hiện tính dân chủ, tính khoa học trong hoạt


×