Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 110 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN KIM TUYẾN

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Nghệ An, 2017


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN KIM TUYẾN

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60.38.01.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hoàng Thế Liên

Nghệ An, 2017


1

LỜI CẢM ƠN
Để làm hoàn thành luận văn này, trước tiên em xin chân thành cảm ơn:
Trường Đại học Vinh, Khoa Luật và Phòng Đào tạo sau Đại học Trường Đại
học Vinh đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt q trình học tập.
Em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS. Hoàng Thế Liên đã
tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết luận văn này. Em cũng xin chân
thành cảm ơn lãnh đạo và các cán bộ, nhân viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Nghệ An đã giúp đỡ em trong quá trình thu thập số liệu, tài liệu để viết luận văn.
Đồng thời, xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến Tiến sĩ Đinh Ngọc Thắng - Trưởng
khoa Luật - Trường Đại học Vinh cùng các quý Thầy, Cô trong khoa Luật,
trường Đại học Vinh đã tận tình truyền đạt kiến thức trong thời gian em học tập
ở đây.
Em cũng chân thành cảm ơn lãnh đạo và các đồng nghiệp ở Viện kiểm sát
quân sự Quân khu 4 và Viện KSQS khu vực 41 cùng gia đình, bạn bè đã tạo
điều kiện, giúp đỡ em trong q trình học tập và hồn thành luận văn này.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù rất cố gắng song luận văn không
tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được tự chỉ dẫn, góp ý của quý thầy
cô giáo và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn!
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn


Trần Kim Tuyến


2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

CQTT

Cơ quan tố tụng

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐTV

Điều tra viên

KSĐT


Kiểm sát điều tra

KSV

Kiểm sát viên

THTT

Tiến hành tố tụng

TTHS

Tố tụng hình sự

THQCT

Thực hành quyền cơng tố

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Quyền con người là một vấn đề lớn của thế giới ngày nay, là giá trị mang
tính phổ biến chung của nhân loại, là kết quả của quá trình đấu tranh, phát triển
lâu dài của tất cả các dân tộc, nhân dân trên toàn thế giới. Được thúc đẩy từ năm
1945 kể từ khi thành lập Liên Hợp Quốc, quyền con người thu hút sự quan tâm
rộng rãi của dư luận và có sự tác động mạnh mẽ tới các quan hệ chính trị, pháp
lý, xã hội ở tất cả các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Nó khơng chỉ là nhận
thức, là quan điểm mà hữu hình bằng các quy phạm pháp lý được các quốc gia
thừa nhận chung, phản ánh quy luật và hướng tất yếu của xã hội lồi người cũng
như sự hình thành các cơ chế bảo đảm để quyền con người được thực thi trên
thực tế.
Tôn trọng, bảo vệ quyền con người là chủ trương lớn và nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta. Sự nghiệp bảo vệ quyền con người đã trở thành ý chí
thống nhất của toàn Đảng và toàn dân. Ngày 08/12/1956, tại lớp Nghiên cứu
Chính trị khóa hai trường Đại học nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng khẳng định: “Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân” [29, tr. 276].
Nhân dân là những con người cụ thể có những quyền thiêng liêng, khơng ai có
thể xâm phạm được. Cùng với việc ghi nhận quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992,
2013, Đảng và Nhà nước ta đã thực thi nhiều chính sách bảo đảm quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tham gia hầu hết các điều ước
quốc tế về quyền con người như Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân
biệt chủng tộc năm 1965, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa năm 1966, Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Cơng
ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979,
Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật
năm 2006 v.v… Vì thế, trong việc thực hiện và hoạch định các chính sách phát


4


triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng những năm gần đây, Đảng và Nhà
nước ta đã đặt “Con người” là trung tâm - chủ thể của chiến lược, quá trình phát
triển. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Con người là trung tâm của chiến
lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền
làm chủ của nhân dân” [18].
Ở nước ta, quyền con người được đảm bảo và thực hiện bằng Hiến pháp
và pháp luật. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
"Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã nhấn mạnh những yêu cầu của
công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp
phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công l‎ý, quyền con
người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội
chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm.
Thế nhưng, việc nghiên cứu và áp dụng quyền con người còn nhiều bất
cập và hạn chế. Giai đoạn trước năm 2013 những nghiên cứu về quyền con
người đều mang tính nhận thức, lý luận chung, với mục đích chính để đấu tranh,
bác bỏ các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch cho rằng Việt Nam vi
phạm nhân quyền. Điều 50 Hiến pháp năm 1992 xác định: "Ở nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định
trong Hiến pháp và luật”[46]. Đây là lần đầu tiên Hiến pháp thừa nhận cả hai
khái niệm quyền con người, quyền công dân, nhưng chưa có sự phân định rạch
rịi: đâu là quyền và nghĩa vụ của con người nói chung và đâu là quyền và nghĩa
vụ của công dân. Nội hàm khái niệm quyền con người được thu nạp vào nội hàm
của phạm trù quyền công dân. Trong giai đoạn này, những nghiên cứu để triển
khai quyền con người trên thực tế còn ít.



5

Gần đây, thể chế hóa đường lối của Đảng, Hiến pháp năm 2013, Chương
về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” đã được đưa lên
vị trí thứ 2, chỉ sau Chương I về “Chế độ chính trị”. Quy định này phản ánh
quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong thực hiện quyền con người,
quyền cơng dân. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 còn quy định rõ trách nhiệm
của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công
dân. Sau khi Hiến pháp 2013 được ban hành và có hiệu lực thi hành, nhiều bộ
luật, luật được ban hành đáp ứng yêu cầu bảo đảm quyền con người theo Hiến
pháp mới, những nghiên cứu về quyền con người cũng nở rộ ở nước ta, tuy
nhiên, thực tiễn áp dụng mới trong thời gian ngắn, chưa có nhiều cơ sở để đánh
giá việc áp dụng quyền con người trong thực tiễn.
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự (TTHS), giai đoạn khởi tố, điều tra là hai
giai đoạn đầu tiên và giữ vai trị quan trọng trong tồn bộ q trình đi tìm sự thật
khách quan của vụ án. Giai đoạn khởi tố, điều tra nhận đảm đương công việc
thực chất về xác minh, điều tra sự thật phạm tội. Thành cơng hay thất bại của
việc đấu tranh phịng, chống tội phạm ở một mức độ nào đó là do việc xác minh,
điều tra quyết định. Chỉ có qua xác minh, điều tra mới có thể biết rõ tình hình vụ
án, xác định có tội phạm hay khơng. Q trình xác minh, điều tra xác lập cơ sở
để truy cứu trách nhiệm hình sự và thực hiện nội dung quyền công tố. Trong giai
đoạn này, Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS) có quyền áp dụng các
biện pháp ngăn chặn hạn chế tự do hay một số biện pháp liên quan, ảnh hưởng
đến quyền con người. Nếu hoạt động xác minh, điều tra của CQĐT đúng pháp
luật, VKS làm tốt chức năng thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát
điều tra (KSĐT), sẽ bảo vệ được quyền con người, nếu các hoạt động này có bất
kỳ sai lầm nào dù to hay nhỏ, nhiều hay ít đều dẫn tới hệ quả tiêu cực xâm phạm
quyền con người.
Với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Viện kiểm sát nhân dân
có vai trị chủ động trong việc bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền con người trong



6

các hoạt động tố tụng khi các Cơ quan tiến hành tố tụng (các cơ quan khác được
giao thực hiện một số hoạt động tố tụng) thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự.
Với việc ngăn chặn các hành vi vi phạm quyền con người, phát hiện vi phạm, để
từ đó khơi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị vi phạm, áp dụng và kiến nghị các
biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện vi phạm, Viện kiểm sát nhân dân
thực sự là “một lá chắn đáng tin cậy bảo vệ quyền con người” [11, tr. 48]. Thực
tiễn cho thấy, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con
người trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và việc bảo đảm quyền con
người trong giai đoạn khởi tố, điều tra nói riêng đã đạt được những kết quả nhất
định. Các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân về cơ bản đã được bảo đảm,
đã hạn chế được tình trạng oan, sai. Tuy nhiên, thực tế vẫn cịn có nhiều trường
hợp các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Cơ quan điều tra chưa bảo đảm
thực hiện đầy đủ các quyền con người, quyền cơng dân, thậm chí là vi phạm
quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự (có thể là các cơ quan tố tụng
và những người tiến hành tố tụng lạm dụng việc bắt giữ, khởi tố, bắt tạm giam
sau đó Viện kiểm sát khơng phê chuẩn việc bắt giữ, bắt tạm giam hoặc phải đình
chỉ điều tra do khơng phạm tội…). Một số vụ án như: vụ án ông Nguyễn Thanh
Chấn ở Bắc Giang, ông Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận, ông Trần Văn Thêm ở
Bắc Ninh.v.v... và còn nhiều vụ án khác thẫm đẫm nước mắt vẫn còn được nhắc
đến như là một bài học đắt giá trong ngành Tư pháp của nước ta. Những vi
phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập, hạn chế của pháp
luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng (THTT), các quy
định về chế độ trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, người THTT đối với công
dân, và có một phần khơng nhỏ trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân chưa
thực hiện được đầy đủ vai trị, trách nhiệm của mình trong hoạt động tố tụng
hình sự, đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố - điều tra các vụ án hình sự.

Đối với hai cấp Viện kiểm sát nhân tỉnh Nghệ An, những năm qua, hoạt
động bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự,


7

đã được quan tâm, chú trọng. Hai cấp Viện đã chủ động phối hợp chặt chẽ với
Cơ quan điều tra ngay từ khi phát hiện tội phạm và trong suốt q trình khởi tố,
điều tra; ln bám sát mọi hoạt động tố tụng, giải quyết kịp thời những vấn đề
vướng mắc phát sinh; Khi phát hiện những thiếu sót, vi phạm đã nhanh chóng
yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục, đảm bảo việc xử lý vụ án được toàn diện có
căn cứ, đúng pháp luật, bảo vệ quyền con người.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động bảo đảm quyền con người
của hai cấp Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An ở giai đoạn khởi tố, điều tra
các vụ án hình sự cũng cịn những hạn chế, thiếu sót như: Viện kiểm sát khơng
nắm được số liệu thực tế tội phạm đã xảy ra, chưa thực sự quản lý được số
lượng nguồn tin báo, tố giác tội phạm; chưa kiểm sát chặt chẽ hoạt động xác
minh, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra
và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra,
nên việc chủ động phát hiện được việc oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm ngay từ đầu
còn khó khăn; các vụ, việc quá hạn trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
còn xảy ra; án trả điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn cịn.
Tình trạng bắt hình sự rồi phải trả tự do do việc tạm giữ khơng có đủ căn cứ
hoặc Viện kiểm sát không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ vẫn cịn; cịn
xảy ra tình trạng quá lạm dụng biện pháp tạm giam; các biện pháp ngăn chặn
khơng giam giữ rất ít được áp dụng trên thực tế...
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về cơ chế bảo đảm thực thi quyền con
người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án
hình sự là hết sức cần thiết, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, kiểm sát
viên về vai trị, trách nhiệm, quyền hạn của mình trong việc thực hiện chức

trách, nhiệm vụ được phân công, nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh
phịng chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm
các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.


8

Xuất phát từ những vấn đề như vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Bảo đảm
quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Nghệ An” làm đề tài luận văn thạc sĩ, là
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ta, bảo vệ quyền con người nói chung và bảo đảm quyền con
người trong hoạt động tư pháp nói riêng là vấn đề đã được Đảng, Nhà nước cùng
các nhà khoa học xã hội hết sức quan tâm nghiên cứu, nhất là trong thời kỳ đổi
mới. Bên cạnh việc thành lập Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người trực
thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu Quyền
con người trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, hiện nay các cơng trình khoa
học nghiên cứu liên quan đến đề tài: “Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn
khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân” có thể chia thành ba
nhóm chính sau đây:
- Nhóm thứ nhất: Những cơng trình đề cập đến vấn đề quyền con người
nói chung có một số cơng trình khoa học tiêu biểu sau: a) "Quyền con người
trong thế giới hiện đại" do PGS. Phạm Khiêm Ích và GS. TS Hồng Văn Hảo
chủ biên, Viện Thông tin Khoa học Xã hội xuất bản năm 1995 ; b) Trung tâm
Nghiên cứu Quyền con người biên tập hai tập chuyên khảo: “Quyền con người,
quyền công dân” của nhiều tác giả, xuất bản năm 1995; c) Báo cáo tổng thuật
Đề tài KX.07- 16 nghiên cứu về “Các điều kiện đảm bảo quyền con người,
quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước” do GS.TS Hoàng Văn Hảo
chủ nhiệm… Đặc biệt, đáng chú ý là cuốn sách: “Giáo trình lý luận và pháp

luật về quyền con người” của tập thể tác giả do GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, T.S
Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2011 và cuốn sách nhiều tập “Quyền con người" tiếp cận đa ngành, liên
ngành của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội,
2010; v.v…


9

Trong các cơng trình này, các tác giả đã nghiên cứu khái niệm và các đặc
điểm Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
nói riêng; nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân;
nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền.
- Nhóm thứ hai: Các cơng trình nghiên cứu là các sách chun khảo, các
bài viết liên quan đến bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra
các vụ án hình sự như: a) “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền”, do TSKH Lê Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Nxb.
Đại học quốc gia, Hà Nội, 2004; b) “Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ
của cơng dân theo luật hình sự Việt Nam” của TS. Trịnh Tiến Việt (chủ biên),
Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2010; c) “Về tự do cá nhân và biện pháp
cưỡng chế tố tụng hình sự” của TS. Trần Quang Tiệp, Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội, 2005; d) “Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam”
của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, 2000; đ) “Bảo vệ
quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam” của TS.
Trần Quang Tiệp, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2004; e) “Bảo vệ quyền con
người bằng pháp luật tố tụng hình sự” của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, Tạp chí
Khoa học, chuyên san Luật học, số 23(2)/2009; v.v…
- Nhóm thứ ba: Các cơng trình nghiên cứu là các đề tài nghiên cứu khoa
học, luận văn, luận án liên quan đến bảo vệ quyền con người trong giai đoạn
khởi tố, điều tra các vụ án hình sự như: a) Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia

“Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự
trong giai đọan xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do GS.TSKH. Lê
Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí, Ths. Trịnh Quốc Toản (đồng chủ trì), Hà Nội,
2004; b) Đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội: “Quyền con người
trong lĩnh vực tư pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn thiện pháp
luật” do GS.TSKH Lê Văn Cảm (chủ trì), Hà Nội, 2013; c) Luận án tiến sĩ luật
học “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” của


10

tác giả Hoàng Thị Sơn, bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội, 2003; d) Luận án tiến sĩ
luật học “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lại Văn Trình, bảo vệ tại Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh, 2011; v.v…
Ngồi ra, cịn nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả khác đã được
đăng trong các tập san, tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Tồ án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát,
Tạp chí Lập pháp….
Mặc dù đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực quyền
con người, nhưng nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề
cập đến những vấn đề lý luận chung về quyền con người, từng lĩnh vực hoạt
động cụ thể về quyền con người, về tổ chức và hoạt động của các bộ máy Nhà
nước, về việc xây dựng pháp luật về bảo đảm quyền con người nói chung. Trong
đó, chỉ có một vài khía cạnh đề cập cụ thể về quyền con người trong hoạt động
tư pháp. Vấn đề bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ
án hình sự ở Việt Nam, đặc biệt là vai trò của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm
quyền con người trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án hình sự trên địa bàn một tỉnh lớn như Nghệ An, chưa được nghiên cứu
một cách toàn diện và trực tiếp về cả lý luận và thực tiễn. Tuy vậy, các cơng

trình nêu trên vẫn là những tài liệu tham khảo quan trọng đối với tác giả trong
quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý về bảo đảm quyền con người
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, đồng
thời nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng
trên địa bàn tỉnh Nghệ An, làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra những
kiến nghị và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người ở giai đoạn khởi tố,


11

điều tra vụ án hình sự cũng như nâng cao vai trò, thẩm quyền của Viện kiểm sát
nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra
vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và pháp l‎‎ý về bảo đảm quyền con người
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
- Phân tích thực trạng bảo đảm quyền con người trong khởi tố, điều tra vụ
án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An.
- Đưa ra các giải pháp tăng cường đảm bảo quyền con người trong giai
đoạn khởi tố, điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi
tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Nghệ An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn trên những phạm vi như

sau:
- Nghiên cứu việc bảo đảm quyền con người chỉ trong hai giai đoạn khởi
tố và điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
- Nghiên cứu thực trạng (trong vòng 5 năm từ 2012-2016) và tăng cường
việc bảo đảm quyền con người chỉ trong hai giai đoạn khởi tố và điều tra vụ án
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Tác giả sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng của Chủ
nghĩa Mác - LêNin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đề tài còn được thực hiện trên cơ


12

sở những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về quyền
con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền - phương pháp đặc
thù khi nghiên cứu quyền con người. Ngồi ra, là các phương pháp như: phân
tích, tổng hợp, so sánh, thống kê. Đặc biệt là phương pháp nghiên cứu liên
ngành luật học và phương pháp nghiên cứu đa ngành khoa học xã hội.
6. Những đóng góp khoa học mới của luận văn
Đề tài là một trong những cơng trình nghiên cứu có tính hệ thống về lý
luận và thực tiễn bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra và vai
trò của Viện kiểm sát trong việc đảm bảo quyền con người trong hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam, có những
điểm nổi bật như sau:
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, đặc điểm và nội dung của quyền con
người được bảo đảm trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự ở Việt
Nam.

- Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm
quyền con người trong hoạt động thực hành quyền cơng tố và kiểm sát điều tra
các vụ án hình sự ở Việt Nam
- Nhận diện việc vi phạm quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ
án hình sự, đánh giá thực trạng quyền con người được bảo đảm trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự ở tỉnh Nghệ An.
- Đề ra giải pháp trong việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự.
7. Ý nghĩa l‎ý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài là một đóng góp khiêm tốn trong việc giải quyết về mặt khoa học
một trong những nội dung cấp thiết hiện nay ở nước ta là bảo vệ quyền con
người. Luận văn sẽ đóng góp một phần lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho


13

việc thực hiện có hiệu quả việc bảo vệ quyền con người trong quá trình điều tra
các vụ án hình sự của các cơ quan thực hành tố tụng nói chung và Viện kiểm sát
nói riêng trong việc thi hành pháp luật. Kết quả của luận văn có giá trị tham
khảo cho những ai quan tâm đến lĩnh vực này.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục từ ngữ viết tắt, danh mục tài
liệu tham khảo. Nội dung của luận văn kết cấu gồm 3 chương, như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người trong giai
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo đảm quyền con người trong giai
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An.
- Chương 3: Giải pháp góp phần tăng cường bảo đảm quyền con người
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.



14

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Khái niệm quyền con người có nguồn gốc từ thời Hy Lạp dưới dạng các
quyền tự nhiên của con người. Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, người nô lệ không
được coi là con người, họ khơng có và khơng được xã hội thừa nhận các quyền
con người. Chế độ phong kiến đã tiến một bước tiến so với chế độ chiếm hữu nô
lệ, bước đầu trong việc giành lại quyền tự do và giải phóng con người. Đến giai
cấp tư sản, quyền con người được đề cập tới một cách trực tiếp, giai cấp này lần
đầu tiên biết nêu cao ngọn cờ nhân quyền, biết lợi dụng các tư tưởng tự do, bình
đẳng, cơng lý… vốn là yêu cầu cấp thiết của tầng lớp nhân dân lao động, tuyệt
đối hóa tự do cá nhân, đặc biệt nhấn mạnh yếu tố cá nhân trong khái niệm quyền
con người. Theo đó lần đầu tiên các quyền con người được đề cập từ cuộc Cách
mạng tư sản Anh với Luật về các quyền năm 1689, sau đó chính thức ghi nhận
trong các văn kiện quan trọng như Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: “Tất
cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đến Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền Pháp 1789 tiếp tục khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng
về quyền lợi và phải ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Liên hợp quốc tuyên bố chính thức về
các quyền và tự do của con người bằng Hiến chương Liên hợp quốc 1945 và
Tun ngơn tồn thế giới về nhân quyền năm 1948. Cụ thể hoá quyền con người
trong các văn bản trên, năm 1966, Liên hợp quốc thông qua Công ước Quốc tế



15

về các quyền dân sự, chính trị và Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội,
văn hóa.
Có thể chia thành ba nhóm quan điểm về quyền con người như sau:
Quan điểm thứ nhất: Quyền con người là đặc quyền tự nhiên. Đặc quyền
tự nhiên này do pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật thực định. Các
quyền này khơng một xã hội hay một chính phủ nào có thể ban phát, xóa bỏ
hoặc “chuyển nhượng” và nó khơng phụ thuộc vào phong tục, tập qn, truyền
thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng
đồng hay nhà nước nào.
Quan điểm thứ hai: Trái với quan điểm thứ nhất, quan điểm này cho rằng
các quyền con người không phải những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên,
không thể bị tước bỏ, quyền con người là quyền pháp lý và nó phụ thuộc vào ý
chí của tầng lớp thống trị cũng như các yếu tố phong tục, tập quán, truyền thống
văn hóa… của các xã hội.
Quan điểm thứ ba: Là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề
quyền con người. Xuất phát từ việc coi con người là một thực thể tự nhiên, mang
đặc tính xã hội, do đó, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề quyền con người:
"Về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội” [2]. Quyền con người là một
phạm trù tổng hợp, vừa là "chuẩn mực tuyệt đối" mang tính phổ biến, vừa là "sản
phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu dài ln ln tiến hóa và phát triển".
Quyền con người "khơng thể tách rời", đồng thời cũng khơng hồn tồn phụ thuộc
vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội… [31].
Các học giả quốc tế thường viện dẫn khái niệm quyền con người của Văn
phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc: "Quyền con người là những bảo đảm pháp lý tồn
cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc
sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do của con

người" [65].
Ở Việt Nam, đã có nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu đưa ra những định


16

nghĩa, các tiếp cận khác nhau về vấn đề quyền con người.
Trong Từ điển Tiếng Việt định nghĩa khái niệm “quyền” là: “điều mà
pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi
(quyền bầu cử và quyền ứng cử)" [61, tr.815].
Theo GS.TSKH Lê Văn Cảm: "Quyền con người là một phạm trù lịch sử
cụ thể, là giá trị xã hội cáo quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh
nhân loại và là đặc trưng tự nhiên vốn có cần được tơn trọng và không thể bị
tước đoạt của bất kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất, đồng thời phải
được bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, cũng
như bởi cộng đồng quốc tế" [5, tr. 11].
Còn theo TS Trần Quang Tiệp: "Quyền con người là những đặc lợi vốn có
tự nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định" [51, tr. 14].
Như vậy, có thể hiểu quyền con người là những đặc lợi mà chỉ có con
người mới được hưởng. Điều đó có nghĩa, trong tự nhiên có nhiều thực thể sinh
học khác nhau, nhưng với tính chất là một thực thể sinh học - xã hội, chỉ con
người mới được hưởng những đặc lợi do địa vị làm người đem lại. Do con người
là một thực thể sinh học - xã hội nên quyền con người cũng vừa mang tính tự
nhiên vừa mang tính xã hội.
Mặt khác, cũng do con người là một thực thể sinh học – xã hội nên quyền
con người vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù. Tính phổ biến của
quyền con người thể hiện qua việc quyền này được áp dụng phổ biến ở nhiều
nơi, cho mọi đối tượng. Cịn tính đặc thù của quyền con người có nghĩa, quyền
này ở mỗi quốc gia, mỗi lãnh thổ do điều kiện khác nhau mà có đặc điểm riêng

phù hợp với mỗi quốc gia, lãnh thổ đó. Tính phổ biến và tính đặc thù của quyền
con người có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, khơng thể đối lập
tính phổ biến với tính đặc thù và ngược lại. Tuyệt đối hóa tính đặc thù sẽ khơng
tiếp thu được những giá trị phổ biến, sẽ là yếu tố cản trở quá trình tiếp thu có


17

chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, những giao lưu, hợp tác
quốc tế về quyền con người, ngược lại, tuyệt đối hóa tính phổ biến, sẽ bị rơi vào
sự lệ thuộc về văn hóa, tư tưởng của quốc gia khác.
Quyền con người mà người dân Việt Nam có được ngày hơm nay là thành
quả của cuộc đấu tranh gian khổ, trường kì giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giải phóng con người
gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Chỉ dưới tiền đề độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, thì quyền con người mới có điều kiện đảm bảo rộng rãi,
đầy đủ và trọn vẹn nhất. Quyền con người thống nhất với quyền dân tộc cơ bản
và chỉ có trong độc lập dân tộc. Nước Việt nam độc lập, người dân Việt Nam
mới có quyền tự do, có quyền con người. Trong chủ nghĩa xã hội, có sự kết hợp
hài hịa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích tồn xã hội: lợi ích cá nhân
là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, đồng thời đảm bảo lợi ích của tập
thể, của tồn xã hội. Nói cách khác, quyền con người đặt trong mối quan hệ với
nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người đối với xã hội và được giải quyết trên cơ
sở đảm bảo lợi ích của tồn xã hội.
Như vậy, dù tiếp cận hay nghiên cứu quyền con người ở góc độ nào, thì
khái niệm về quyền con người vẫn cần đảm bảo thể hiện được những thuộc tính
thuộc về quyền tự nhiên và quyền pháp lý của con người. Vì vậy, theo tác giả,
quyền con người có thể được định nghĩa như sau:
Quyền con người là những giá trị tự nhiên mà con người được hưởng,
phù hợp với những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định, được

Nhà nước đảm bảo thực hiện bao gồm các quyền về dân sự, chính trị như quyền
được tơn trọng và bảo vệ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; quyền tự do, quyền
bình đẳng trước pháp luật…
1.1.2. Nội dung quyền con người trong tố tụng hình sự
Như trên đã phân tích, quyền con người là phạm trù phức tạp, nó liên
quan đến nhiều ngành khoa học như luật học, triết học, xã hội học, chính trị học,


18

đạo đức học… Nhưng gần gũi hơn cả là luật học, bởi về nguyên tắc, các nhà
nước trên thế giới chỉ bảo đảm thực hiện những quyền pháp lý – những nhu cầu,
lợi ích tự nhiên, vốn có của con người đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng giữa các cá nhân con người trong xã
hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân với tập thể, cộng đồng, nhà nước,
thơng qua việc pháp điển hóa các quyền và tự do tự nhiên, vốn có của cá nhân.
Nói cách khác pháp luật chính là phương tiện để thực hiện q trình chuyển hóa
quyền tự nhiên thành những quyền con người. Pháp luật đóng vai trị là cơng cụ
giúp nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền con người của các chủ thể
khác nhau trong xã hội, đồng thời cũng là công cụ của các cá nhân trong việc bảo
vệ các quyền con người của chính họ thơng qua việc vận dụng các quy phạm và
cơ chế pháp lý quốc gia và quốc tế [13, tr. 46 - 48]. Vì vậy, pháp luật có vai trị
đặc biệt, khơng thể thay thế trong việc ghi nhận, đảm bảo việc thực hiện quyền
con người và thúc đẩy các quyền con người.
Hiện nay, quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự, được các nhà
nghiên cứu rất quan tâm, nhất là trong quá trình triển khai, thi hành Hiến pháp
2013, khi mà quyền con người được nhắc đến và ghi nhận một cách chi tiết, cụ
thể hơn.
Có thể nói, trong tố tụng hình sự, quyền con người được thể hiện trên hai
khía cạnh:

Thứ nhất, việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý, khắc phục những thiệt hại và
trừng trị những người phạm tội gây ra những thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp
pháp của con người, cũng như đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, là góp
phần bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân [11, tr. 13].
Thứ hai, những hoạt động tố tụng hình sự rất dễ xâm phạm đến quyền con
người của những người bị tình nghi thực hiện tội phạm - đây là những người bị
đưa vào vòng quay tố tụng. Bởi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng là những chủ thể được Nhà nước trao quyền, đại diện cho nhà nước, thể


19

hiện tính chủ động, độc lập trong q trình giải quyết vụ án hình sự, khi mà khả
năng truy nguyên dấu vết, đánh giá chứng cứ cịn hạn chế thì khả năng các
quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân có thể bị xâm phạm và khả năng xảy ra
việc làm oan sai, bỏ lọt tội phạm là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, khi giải quyết
vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải có trách
nhiệm tơn trọng và bảo đảm quyền con người, không được lợi dụng việc tiến
hành giải quyết vụ án xâm phạm đến quyền con người.
Theo các Công ước quốc tế về quyền con người thì quyền con người trong
tố tụng hình sự bao gồm:
* Quyền an tồn thân thể, danh dự, nhân phẩm… của cá nhân hoặc quyền
không bị giam giữ một cách tùy tiện, được quy định tại Điều 9 (1) Công ước
quốc tề về các quyền dân sự và chính trị, 1966 (viết tắt là ICCPR). Cụ thể: “Mọi
người đều có quyền hưởng tự do và an tồn cá nhân. Khơng ai bị bắt hoặc bị
giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền tự
do đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định” [28].
Trên cơ sở của Điều 9 Tun ngơn quốc tế về quyền con người năm 1948,
thì Hiến chương Châu Phi về quyền con người và quyền dân tộc; Công ước
Châu Mỹ về quyền con người hay Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con

người và tự do cơ bản nhấn mạnh yếu tố “không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày
một cách tùy tiện”. Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do
đều có quyền yêu cầu được xét xử trước Tịa án, nhằm mục đích để Tịa án có
thể quyết định khơng chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự
do cho họ, nếu giam giữ là bất hợp pháp. Trong trường hợp sử dụng tạm giữ,
tạm giam như là một biện pháp ngăn chặn, việc này không được tiến hành một
cách tùy tiện mà phải tiến hành dựa theo các trình tự thủ tục theo quy định của
pháp luật, đồng thời phải đảm bảo được quyền được Tòa án quyết định tính hợp
pháp của việc giam giữ, quyền được yêu cầu bồi thường trong trường hợp bị bắt
hoặc bị giam giữ bất hợp pháp.


20

Bên cạnh đó, về ngun tắc, khơng được phép đối xử với bị can theo cách
thức trái với Điều 7 của Cơng ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay
đối xử tàn ác vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm, để buộc bị can phải thú tội.
“Pháp luật quốc gia phải đảm bảo những lời khai, những lời nhận tội có được
bằng phương thức trái với nguyên tắc không được coi là chứng cứ, trừ khi
chúng được sử dụng làm bằng chứng của việc tra tấn hoặc những đối xử khác
trái quy định”. Công ước trên cũng xác định trách nhiệm thuộc về nhà nước
trong việc phải chứng minh rằng những lời khai của bị cáo là do họ tự nguyện
trình bày.
- Quyền được xét xử cơng bằng bởi một thủ tục TTHS và tịa án công
bằng, công khai. Ðiều 10 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người quy định:
“Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai trước
một tòa án độc lập và khách quan, để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ,
cũng như để phán quyết về bất cứ sự buộc tội nào với họ”.
Theo đó, Điều 14 (1) Cơng ước quốc tề về các quyền dân sự và chính trị
cũng quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước các tịa án và cơ quan tài phán.

Mọi người đều có quyền được xét xử cơng bằng và cơng khai bởi một tịa án có
thầm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết
định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự..”
Điều 2 – Quy ước đạo đức của quan chức thi hành pháp luật nêu rõ: Trong
khi thực hiện nhiệm vụ của mình, các cán bộ thi hành pháp luật phải tôn trọng,
bảo vệ nhân phẩm và duy trì, nêu cao quyền con người của tất cả mọi người.
- Quyền được suy đoán vô tội: được quy định cụ thể tại Điều 11 (1) Tuyên
ngôn quốc tế về quyền con người, Điều 14 (2) Cơng ước quốc tề về quyền dân
sự và chính trị. Theo đó, nếu một người bị cáo buộc về hình sự, thì họ có quyền
được coi là vơ tội cho tới khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại
một phiên tịa xét xử cơng khai mà người đó được bảo đảm những điều kiện cần
thiết để bào chữa cho mình.


21

Theo Nguyên tắc 8 Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người
bị giam hay tù dưới bất kỳ hình thức nào quy định: “Những người đang bị giam
phải được đối xử đúng với địa vị chưa bị kết án của họ. Do vậy bất cứ khi nào
có thể, họ phải được tách riêng khỏi những người đang bị tù”.
- Quyền được bào chữa và biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức chậm
trễ. Quyền trên được thể hiện tại các quyền như:
+ Quyền được bảo vệ bởi luật sư: Được quy định tại Điều 14 (3) (b) của
ICCPR, Điều 8 (2) (c) và 8 (2) (d) của Công ước Châu Mỹ về quyền con người,
Nguyên tắc 1, 6 Các Nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư, Nguyên tắc 17
(2), 18 Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay tù dưới
bất kỳ hình thức nào.
Theo đó những người bị bắt hoặc bị giam giữ có hoặc khơng có tội hình
sự có quyền có luật sư hỗ trợ trong mọi trường hợp không muộn hơn 48 giờ kể
từ thời điểm bị bắt tạm giam và được thường xun tiếp xúc với luật sư


của

mình; được phép tiếp đón các luật sư của mình. Bất cứ ai trong hồn cảnh bị bắt,
bị giam giữ mà khơng có luật sư riêng đều có quyền có một luật sư có kinh
nghiệm và năng lực phù hợp với tính chất của tội phạm đã quy kết cho họ về
mặt pháp lý một cách hiệu quả và miễn phí nếu họ khơng có đầy đủ khả năng
chi trả cho những dịch vụ như vậy.
+ Quyền được thông tin: Quy định tại Điều 9 (2) ICCPR, Nguyên tắc 10,
11 (2), 13, 14 của Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam
hay tù bất kỳ hình thức nào, Điều 7 (4), Điều 8 (2) (B) Công ước Châu Mỹ về
quyền con người, Điều 5 (2) Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người và
tự do cơ bản), tức là, bất cứ ai bị bắt đều có quyền được biết chính xác lý do
khiến mình bị bắt và được thông báo kịp thời về bất cứ cáo buộc nào chống lại
mình. Nguyên tắc 14, Nguyên tắc 16 (2) Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả
những người bị giam hay tù dưới bất kỳ hình thức nào, Điều 36 Công ước Viên
về quan hệ lãnh sự thì một người bị bắt, giam giữ hay bị tù có quyền được hiểu


22

đầy đủ các thơng tin qua ngơn ngữ mình hiểu thơng qua sự trợ giúp miễn phí của
phiên dịch. Quyền này đặc biệt có ý nghĩa với người nước ngồi hoặc người
thuộc dân tộc thiểu số, nhằm bảo đảm quyền bào chữa cho những người này.
+ Quyền được tiếp cận với thế giới bên ngoài: là biện pháp bảo vệ cơ bản
chống lại vi phạm nhân quyền như tra tấn, ngược đãi và mất tích. Nguyên tắc
15, 16 (1) (4), 19, 24 Tập hợp các nguyên tắc bảo vệ tất cả những người bị giam
hay tù dưới bất kỳ hình thức nào. Một người bị giam tù có quyền được các thành
viên trong gia đình người đó đến thăm, trao đổi thư từ và phải được tạo cơ hội
đầy đủ để liên lạc với thế giới bên ngoài, nhưng vẫn phải tuân thủ những điều

kiện và hạn chế hợp lý do luật pháp hay các quy chế hợp pháp quy định.
Một người bị giam hay cầm tù là người nước ngồi thì người đó cũng phải
được thơng báo ngay về quyền được liên lạc, bằng các phương tiện thích hợp,
với lãnh sự quán hoặc ngoại giao đoàn của quốc gia mà người đó là cơng dân,
hoặc nếu khơng, của quốc gia được quyền nhận những thông tin như vậy theo
pháp luật quốc tế, hoặc được liên lạc với đại diện của tổ chức quốc tế có thẩm
quyền, nếu người đó là người tị nạn hoặc là người được một tổ chức liên chính
phủ bảo vệ.
- Người chưa thành niên phải được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt.
Điều 14 (4) ICCPR quy định: “Tố tụng áp dụng đối với những người
chưa thành niên phải xem xét tới độ tuổi của họ và mục đích thức đẩy sự phục
hồi nhân cách của họ”. Theo Quy tắc 20 (a), (b), 21 (a), (b), 22 (a), (b), 27, 31
của Các tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về việc đối xử với tù nhân, 1995,
quy tắc 13 Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về tư pháp người
chưa thành niên, Quy tắc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do:
Những tù nhân bị bắt giữ hay đang chờ xét xử phải được giam giữ riêng với tù
nhân đã tuyên án. Những tù nhân trẻ tuổi chưa xét xử phải được giam giữ riêng
với những người lớn tuổi và về nguyên tắc phải được giam giữ trong những nhà
tù riêng… Việc nơi ăn, chốn ở đặc biệt là nơi ngủ phải đáp ứng các yêu cầu về y


23

tế, có chú ý đến các điều kiện khơng khí, diện tích sàn tối thiểu, ánh sáng, sưởi
ấm và thơng hơi. Ngay cả nơi vệ sinh cũng phải được thỏa đáng để có thể đáp
ứng nhu cầu tự nhiên khi cần thiết.
- Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm. Quyền không bị kết tội hai
lần về cùng 1 hành vi. Quyền được nhanh chóng minh oan và yêu cầu được bồi
thường nếu bị kết án oan… được quy định tại Điều 14 (5), (6), (7) ICCPR.
- Các quyền con người trong thi hành án hình sự và sau xét xử.

Ở Việt Nam, về đối tượng của quyền con người trong tố tụng hình sự có
hai quan điểm khác nhau, dẫn đến định nghĩa khác nhau về quyền con người
trong tố tụng hình sự
Cụ thể, trong giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2014, do PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên đưa ra định
nghĩa:
Quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự là tổng hợp các quyền
thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị, nhằm mục đích khẳng định việc bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, tơn trọng danh dự, nhân phẩm của con người trong mọi
hoàn cảnh cũng như bảo đảm việc xét xử công bằng bởi một tòa án độc lập
khách quan đối với những người yếu thế (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người bị kết án và những người tham gia tố tụng khác) khỏi sự tùy tiền và sự
lạm quyền của các cơ quan và nhân viên nhà nước trong các hoạt động tố tụng
hình sự [11, tr. 43].
Theo định nghĩa trên, đối tượng của quyền con người trong tố tụng hình
sự là quyền của những nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội, bao
gồm 03 nhóm sau (gọi chung là những người tham gia tố tụng hình sự):
- Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (gọi chung là nhóm người
bị tình nghi phạm tội);
- Người người phạm tội đã bị kết án và phải chấp hành hình phạt do Tịa
án tun;


×