Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Tài liệu Vụ kiện bán phá giá Việt Nam tại Mỹ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.54 KB, 9 trang )

Vụ kiện phá giá Việt Nam tại Mỹ
Thương mại quốc tế ngày càng phát triển đặc biệt là trong thập kỷ vừa qua, nó đóng vai trò lớn đối với các nền
kinh tế trên thế giới, mở ra nhiều cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp và người tiêu dùng toàn cầu. Tuy nhiên
bên cạnh những thuận lợi, thương mại quốc tế cũng đem lại không ít khó khăn, thách thức đối với các doanh
nghiệp khi thâm nhập thị trường quốc tế, mà các doanh nghiệp Việt Nam không là ngoại lệ. Thông qua vụ kiện
bán phá giá tôm của các doanh nghiệp Việt Nam trên đất Mỹ giúp chúng ta có cách nhìn nhận xác thực hơn về
tình hình thương mại quốc tế hiện nay. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đồng thời nhìn nhận nghiêm túc về
chính sách thương mại của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Vì lý do đó mà tôi chọn đề tài:
Bán phá giá là gì?
Bán phá giá trong thương mại quốc tế là hiện tượng xảy ra khi một loại hàng hóa được XK với giá thấp hơn
giá bán của mặt hàng đó tại thị trường nội địa nước XK. Như vậy có thể hiểu đơn giản là nếu giá XK của một
mặt hàng thấp hơn giá nội địa của nó thì sản phẩm đó bị coi là bán phá giá. Ví dụ: lạc nhân của nước A bán tại
thị trường nước A với giá (X) nhưng lại được XK sang nước B với giá (Y) (Y<X) thì xảy ra hiện tượng bán phá
giá đối với sản phẩm này XK từ A sang B.
Tại sao bán phá giá?
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới hiện tượng bán phá giá trong thương mại quốc tế. Nhiều trường hợp cố tình
bán phá giá nhằm đạt được những lợi ích nhất định như: Bán phá giá để loại bỏ các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường nước NK từ đó chiếm thế độc quyền; Bán giá thấp tại thị trường nước NK để chiếm lĩnh thị phần; Bán
giá thấp để thu ngoại tệ mạnh... Đôi khi việc bán phá giá là việc bất đắc dĩ do nhà sản xuất, XK không bán
được hàng, sản xuất bị đình trệ, sản phẩm lưu kho lâu ngày có thể bị hỏng... nên đành bán tháo để thu hồi
vốn. Trong thương mại quốc tế, thuế chống bán phá giá có thể bị áp đặt mà không quan tâm đến lý do vì sao
nhà sản xuất bán phá giá. Bán phá giá sang thị trường nước ngoài thường bị coi là một hiện tượng tiêu cực do
nó làm giảm khả năng cạnh tranh về giá và thị phần của sản phẩm nội địa của nước NK. Tuy nhiên, bán phá
giá có thể có tác động tích cực đối với nền kinh tế: người tiêu dùng được lợi vì giá rẻ; nếu hàng bị bán phá giá
là nguyên liệu đầu vào của một ngành sản xuất khác, giá nguyên liệu rẻ có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất
định của ngành đó,... Vì thế không phải mọi hành vi bán phá giá đều bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
Theo quy định của WTO, các biện pháp chống bán phá giá chỉ được thực hiện trong những hoàn cảnh nhất
định và phải đáp ứng các điều kiện nhất định. Cụ thể, các biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng khi
xác định được đủ ba điều kiện sau đây: Hàng NK bị bán phá giá; Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của
nước NK bị thiệt hại đáng kể; Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng NK bán phá giá và thiệt hại nói trên.
Thuế chống bán phá giá?


Thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung bên cạnh thuế NK thông thường, đánh vào sản phẩm nước
ngoài bị bán phá giá vào nước NK. Đây là loại thuế nhằm chống lại việc bán phá giá và loại bỏ những thiệt hại
do việc hàng NK bán phá giá gây ra. Trên thực tế, thuế chống bán phá giá được nhiều nước sử dụng như một
hình thức "bảo hộ hợp pháp" đối với sản xuất nội địa của mình. Để ngăn chặn hiện tượng lạm dụng biện pháp
này, các nước thành viên WTO đã cùng thoả thuận về các quy định bắt buộc phải tuân thủ liên quan đến việc
điều tra và áp đặt thuế chống bán phá giá, tập trung trong một Hiệp định về chống bán phá giá của WTO -
Hiệp định ADA.
Biện pháp chống bán phá giá và thủ tục áp dụng biện pháp chống bán phá giá trong thương mại quốc tế
Xuất phát từ quan điểm cho rằng hành vi bán phá giá, ở một mức độ nghiêm trọng nhất định là hành vi thương mại
không công bằng, luật lệ của GATT trước đây và WTO hiện nay đều cho phép các quốc gia áp dụng biện pháp có tính
trả đũa, tự vệ thương mại. Trong các biện pháp hạn chế thương mại như áp dụng hạn ngạch, hạn chế số lượng, tăng thuế,
các biện pháp hạn chế có tính kỹ thuật, phi thuế quan khác, để chống lại hành vi bán phá giá, các quốc gia chỉ có quyền
áp dụng biện pháp tăng thuế nhập khẩu. Nói cách khác, quốc gia bị thiệt hại chỉ có thể áp dụng thuế bổ sung (thuế chống
bán phá giá) đối với hàng hóa nhập khẩu bị xác định là bán phá giá. Các biện pháp hạn chế số lượng hay các biện pháp
hạn chế phi thuế quan khác không được coi là hợp pháp. Quyền áp dụng thuế bán phá giá của quốc gia bị thiệt hại thực
chất là quyền có tính ngoại lệ đối với hai nguyên tắc trong thương mại đa biên: Thứ nhất, đó là ngoại lệ đối với nguyên
tắc Đối xử tối huệ quốc (MFN). Thuế chống bán phá giá chỉ áp dụng đối với hàng hóa cụ thể của quốc gia xuất khẩu cụ
thể, đã bị xác định là đối tượng của hành vi bán phá giá;
Thứ hai, áp dụng thuế bán phá giá cũng là ngoại lệ đối với nguyên tắc tôn trọng các cam kết về cắt giảm thuế. Quốc gia
bị thiệt hại không có nghĩa vụ tôn trọng giữ nguyên mức thuế đã cam kết đối với các hàng hóa nhập khẩu là đối tượng
của hành vi bán phá giá bị cấm.
[4]
Việc xác định mức thuế chống bán phá giá phải dựa trên trên biên độ phá giá của sản phẩm có liên quan. Biên độ phá
giá chính là sự chênh lệch về giá giữa giá xuất khẩu đang xem xét với giá thông thường của sản phẩm tại thị trường nội
địa, hoặc giá xuất khẩu sang nước thứ ba, hoặc giá cấu thành của sản phẩm. Về bản chất, thuế chống bán phá giá là
khoản thuế bổ sung, đánh vào hàng nhập khẩu nhằm triệt tiêu tác dụng hay ngăn ngừa việc bán phá giá đối với sản phẩm
đó (điều VI.2 của GATT). Mục đích cuối cùng của thuế chống bán phá giá là tạo dựng lại thế cạnh tranh cân bằng giữa
sản phẩm trong nước và sản phẩm nhập khẩu, bảo vệ thị trường nội địa chống lại các hành vi cạnh tranh quốc tế không
lành mạnh. Cũng chính vì mục đích này mà việc áp dụng mức thuế chống bán phá giá được yêu cầu là không vượt quá
biên độ bán phá giá, nhằm tránh tình trạng lạm dụng thuế chống bán phá giá làm công cụ bảo hộ bất hợp pháp thị trường

nội địa.
Hiệp định GATT 1947 không có các quy định về thủ tục áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Hiệp định mặc nhiên
thừa nhận quyền tự do của các quốc gia trong việc xây dựng các thủ tục để xác định hiện tượng bán phá giá và áp dụng
biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình. Tình trạng này là nguyên nhân chủ yếu để
nhiều nước lợi dụng áp dụng pháp luật chống bán phá giá như là công cụ thực hiện chính sách bảo hộ thái quá thị trường
nội địa. Hiệp định ADP đã tiến một bước dài so với GATT 1947 về điểm này. Bên cạnh việc đưa ra những tiêu chí cụ
thể hơn để xác định hành vi bán phá giá, có thể nói Hiệp định ADP đã có bước tiến dài trong việc hài hòa hóa hoạt động
tố tụng của các quốc gia từ việc điều tra xác định bán phá giá, đến việc áp dụng và kiểm soát các biện pháp chống bán
phá giá [3, tr.634].
Để có thể áp dụng biện pháp chống bán phá giá, Hiệp định ADP yêu cầu nước nhập khẩu hàng hóa phải tiến hành điều
tra. Hoạt động điều tra này nhằm mục đích xác định “có sự tồn tại việc bán phá giá không cũng như xác định mức độ và
hậu quả của trường hợp bị nghi ngờ là bán phá giá” (điều 5.1 Hiệp định ADP). Cuộc điều tra này được tiến hành trên cơ
sở đơn yêu cầu của ngành sản xuất trong nước hoặc của người đại diện của ngành sản xuất trong nước chịu thiệt hại do
hành vi bán phá giá gây ra.
[5]
Đơn yêu cầu phải đưa ra các bằng chứng về việc bán phá giá, sự tổn hại do hành vi đó gây
ra, mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá hàng nhập khẩu và thiệt hại mà ngành sản xuất trong nước phải gánh
chịu (điều 5.2 Hiệp định ADP) [7, tr.198-199]. Ngoài ra, để đảm bảo việc điều tra và áp dụng biện pháp chống bán phá
giá được ủng hộ bởi số lớn các nhà sản xuất nội địa, Hiệp định ADP còn đề ra hai tiêu chí bổ sung khác: Thứ nhất, đơn
yêu cầu chỉ được coi là đại diện cho ngành sản xuất trong nước nếu như được ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối
thiểu 50% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự làm bởi các nhà sản xuất đã bày tỏ ý kiến phản đối hoặc tán thành đơn
yêu cầu đó. Thứ hai, cuộc điều tra chỉ được tiến hành khi các nhà sản xuất ủng hộ đơn yêu cầu chiếm ít nhất 12% tổng
sản lượng của sản phẩm tương tự được ngành sản xuất nội địa làm ra (điều 5.4 Hiệp định ADP). Quá trình điều tra bán
phá giá cũng phải tuân thủ những điều kiện cụ thể, được quy định trong Hiệp định ADP: về thời hạn, một cuộc điều tra
không kéo dài hơn 12 tháng. Trong trường hợp đặc biệt, thời hạn này cũng không thể vượt quá 18 tháng; Hoạt động điều
tra phải đảm bảo quyền được trình bày ý kiến, quyền cung cấp chứng cứ của các bên đương sự; Cơ quan tiến hành điều
tra có thể tham khảo ý kiến của các bên có liên quan, bao gồm cả thông tin và ý kiến từ phía người tiêu dùng.
Trong quá trình điều tra, nếu đã có kết luận ban đầu về việc bán phá giá và thiệt hại do việc bán phá giá mang lại, nước
nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp tạm thời. Các biện pháp tạm thời bao gồm áp đặt thuế chống phá giá tạm thời
hoặc yêu cầu đảm bảo bằng tiền mặt tương đương với mức thuế chống bán phá giá dự tính. Các biện pháp này nhằm

mục đích ngăn chặn các tổn hại diễn ra trong quá trình điều tra. Các biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng sớm nhất là 60
ngày kể từ khi cuộc điều tra chống bán phá giá bắt đầu và tồn tại không quá 4 tháng. Trong trường hợp đặc biệt, biện
pháp tạm thời có thể được kéo dài đến 9 tháng (điều 7 Hiệp định ADP).
Hoạt động điều tra có thể bị đình chỉ hoặc chấm dứt mà không cần áp dụng bất cứ biện pháp tạm thời hay thuế chống
phá giá nếu các nhà xuất khẩu đưa ra cam kết về giá. Đây là trường hợp nhà xuất khẩu cam kết tăng giá hàng xuất khẩu,
xóa đi khoản chênh lệch về giá tương đương với biên độ phá giá được sơ bộ xác định. Việc đưa ra cam kết về giá của
nhà xuất khẩu chỉ được chấp nhận khi cơ quan điều tra thấy rằng thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước đã được
loại bỏ và bản thân hành động cam kết về giá cũng không đương nhiên chấm dứt hoạt động điều tra.
Theo quy định của Hiệp định ADP, cũng như thực tiễn của tất cả các nước, hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp
tạm thời và thuế chống bán phá giá thuộc thẩm quyền của cơ quan hành pháp. Để đảm bảo tính công bằng của các hoạt
động này, bên cạnh việc quy định vấn đề chống bán phá giá có thể trở thành đối tượng của tranh chấp thương mại theo
thủ tục của WTO nói chung, Hiệp định ADP còn quy định tại điều 13 về rà soát tư pháp. Theo quy định của Điều này,
các quốc gia thành viên có nghĩa vụ đảm bảo rằng các hoạt động về đánh giá hành vi bán phá giá, áp dụng các biện pháp
chống phá giá phải được kiểm soát bởi các cơ quan tư pháp, hoạt động độc lập với các cơ quan đã đưa ra quyết định
trong lĩnh vực chống bán phá giá. Bên cạnh đó, việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá cũng được đảm bảo bởi nhiều
các quy định thủ tục khác: theo quy định tại Điều 10 của Hiệp định ADP, thuế chống bán phá giá không có giá trị hồi tố;
thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá không vượt quá 5 năm, trừ trường hợp mở cuộc điều tra mới (điều 11.3 Hiệp
định ADP).
II. Một số liên hệ đối với Việt Nam
Việc mở cửa nền kinh tế, tham gia ngày càng tích cực vào thị trường khu vực và quốc tế đang đặt ra cho nền kinh tế Việt
Nam nhiều vấn đề của thương mại quốc tế, trong đó có vấn đề bán phá giá. Việt Nam vừa có nguy cơ là đối tượng của
hành vi bán phá giá của các nước xuất khẩu khác, đồng thời cũng có nguy cơ bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá
đối với hàng xuất khẩu ra nước ngoài.
Một mặt, về việc thị trường nội địa Việt Nam bị thiệt hại do hành vi bán phá giá của hàng nhập khẩu nước ngoài: với đặc
điểm là nền kinh tế chuyển đổi, đang trong quá trình hoàn thiện các thiết chế của kinh tế thị trường, các doanh nghiệp
sản xuất của Việt Nam còn rất yếu kém trong hoạt động cạnh tranh, đặc biệt cạnh tranh trong thương mại quốc tế. Tình
trạng này dẫn đến việc hàng hóa nước ngoài có thể dễ dàng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam thông qua cơ chế giá. Hiện
tượng bán phá giá của hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu ở lĩnh vực hàng công nghiệp, đặc biệt các mặt hàng
điện tử dân dụng; cơ khí dân dụng; đồ mỹ phẩm; thuốc chữa bệnh; nước giải khát; đồ may mặc…[8, tr. 95-132]. Nguy
cơ này thực sự đến gần khi Việt Nam sẽ tiếp tục cắt giảm đối thuế đối với gần 700 mặt hàng nhập khẩu xuống còn từ 0

đến 5% trong nửa cuối năm 2003 này, nhằm thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA giữa các nước ASEAN [5].
Đặc biệt, do cơ cấu ngành hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam và các nước ASEAN tương đối giống nhau, trong khi đó
nền kinh tế của các nước này lại có rất nhiều lợi thế so với nền kinh tế Việt Nam [1, tr.176-178], do vậy nguy thị trường
Việt Nam phải chịu những thiệt hại do cạnh tranh không lành mạnh trong cơ chế giá là rất lớn.
Mặt khác, với những ưu thế về lực lượng lao động trẻ, đông về số lượng, rẻ về giá thành, trong bối cảnh thực hiện chính
sách tăng cường xuất khẩu, hàng hóa Việt Nam đang và sẽ là đối tượng chịu sự áp đặt các biện pháp chống bán phá giá
của nhiều thị trường khác. Trong bối cảnh các rào cản thương mại có tính chất số lượng, thuế quan ngày càng bị ngăn
cấm, cắt giảm, các nước có xu hướng tăng cường bảo hộ thị trường nội địa của mình thông qua các biện pháp kỹ thuật,
phi thuế quan. Một trong những biện pháp đó là hiện tượng lạm dụng thuế chống bán phá giá để bảo hộ sản phẩm trong
nước. Theo số liệu thống kê, những nước đạt kỷ lục về sử dụng biện pháp thuế chống phá giá lại chính là những thị
trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam như Cộng đồng châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Úc, Ca-na-đa [7,tr.203], [4,
tr.353-369]. Gần đây nhất, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã không ngừng bị áp dụng các thủ tục và biện pháp
chống phá giá tại thị trường EU, Mỹ như mặt hàng cá da trơn đông lạnh, tôm đông lạnh, bật lửa gaz, giầy dép…
[6]
.
Đứng trước hiện trạng và những nguy cơ trên, liên quan đến hoạt động chống bán phá giá, quá trình hội nhập kinh tế của
Việt Nam vừa phải đảm bảo ngăn chặn và xử lý các hành vi bán phá giá của hàng nhập khẩu nước ngoài nhằm bảo vệ thị
trường nội địa, vừa đấu tranh chống lại sự lạm dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa của Việt Nam
nhằm giữa vững và tăng cường hoạt động xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Để đáp ứng được hai yêu cầu song
hành đó, bên cạnh việc tìm kiếm các biện pháp tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế nói
chung, thì việc xây dựng và hoàn thiện chính sách và pháp luật về chống bán phá giá nói riêng và pháp luật về hội nhập
kinh tế quốc tế nói chung là mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài đối với Việt Nam. Có thể đưa ra một số nhận xét, kiến
nghị ban đầu như sau:
Thứ nhất, chúng ta cần sớm ban hành văn bản ở cấp độ luật về vấn đề chống bán phá giá trong thương mại quốc tế. Cho
đến hiện nay, Việt Nam còn rất thiếu các văn bản pháp luật quy định về các biện pháp có tính tự vệ thương mại, chống
lại các hành vi thương mại thiếu lành mạnh, không công bằng nhằm bảo vệ thị trường nội địa. Gần đây nhất, UBTVQH
đã ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam [10]. Pháp lệnh này quy định về các
biện pháp tự vệ và thủ tục áp dụng các biện pháp đó trong trường hợp nhập khẩu hàng hóa quá mức vào Việt Nam gây
thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước (điều 1). Như vậy, đối tượng áp dụng của Pháp lệnh không phải là tình
trạng nhập khẩu hàng hóa quá mức, gây thiệt hại cho sản xuất trong nước do hành vi cạnh tranh không công bằng về giá

của nhà xuất khẩu nước ngoài (hiện tượng bán phá giá), cũng không phải là hiện tượng cạnh tranh không công bằng của
hàng hóa nước ngoài do được chính phủ nước xuất khẩu trợ giá (hiện tượng trợ cấp chính phủ).
Về vấn đề bán phá giá, ngày 26/4/2001 UBTVQH đã thông qua Pháp lệnh Giá, tại khoản 3 điều 4 có định nghĩa: “Bán
phá giá là hành vi bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để chiếm
lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân sản xuất
kinh doanh và lợi ích của Nhà nước”[11]. Pháp lệnh cũng đưa ra các thủ tục, biện pháp điều tra và xử lý chống bán phá
giá. Tuy nhiên, Pháp lệnh này chỉ có thể điều chỉnh các hành vi bán phá giá của các tổ chức cá nhân nước ngoài, khi họ
“hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam” (khoản 2 điều 1 Pháp lệnh Giá). Do vậy, Pháp lệnh không điều chỉnh
được các hành vi bán phá giá đối với hàng nhập khẩu nước ngoài vào Việt Nam. Khoản 2 Điều 9 Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định áp dụng thuế bổ sung đối với hàng hóa nhập khẩu vào
Việt Nam “với giá bán quá thấp so với giá thông thường do được bán phá giá”.
Như vậy, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có một văn bản pháp lý quy định cụ thể về vấn đề điều tra chống bán phá giá
và biện pháp chống bán phá giá hàng nước ngoài vào Việt Nam. Trong thời gian gần, việc ban hành một Pháp lệnh về
vấn đề này là rất cấp bách. Đáp ứng các yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế, các quy định của pháp lệnh này có mục
đích cao nhất là bảo vệ thị trường nội địa, nhưng cũng cần tính tới các chuẩn mực và thông lệ của WTO, mà cụ thể là
của Hiệp định ADP. Đồng thời, việc ban hành pháp lệnh về chống bán phá giá hàng nhập khẩu cũng cần tính đến sự
đồng bộ, thống nhất với các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam nói chung như các quy định về thuế, về quản lý
giá, cạnh tranh, về tự vệ trong thương mại và chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu…
Thứ hai, để chống lại hiện tượng lạm dụng thủ tục chống bán phá giá nhằm hạn chế hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam,
nhiều chính sách, biện pháp đồng bộ cần phải được tiến hành: một mặt, cần đẩy mạnh quá trình gia nhập WTO của Việt
Nam. Việc gia nhập này sẽ mang đến những thách thức, khó khăn lớn, tuy nhiên cũng đem lại những cơ hội kinh tế và
pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng [2]. Liên quan đến việc hạn chế sự lạm dụng thủ tục chống bán phá giá đối với
hàng xuất khẩu của nước ta, tham gia WTO sẽ đem lại những lợi thế như: các nước nhập khẩu khi xem xét vấn đề bán
phá giá đối với hàng xuất khẩu từ Việt Nam sẽ phải tôn trọng những quy định của WTO về vấn đề này; có thể sử dụng
cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để chống lại những nước nhập khẩu sử dụng thuế chống bán phá giá nhằm đối xử
phân biệt hoặc hạn chế hàng xuất khẩu từ Việt Nam; tham gia WTO sẽ đương nhiên đem lại cho Việt Nam quy chế “nền
kinh tế thị trường”, hạn chế được sự bất lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam khi bị nước nhập khẩu xem xét vấn đề bán
phá giá [12]. Mặt khác, khi tham gia ký kết các hiệp định thương mại song phương, Việt Nam cũng cần có những thỏa
thuận thích đáng về các vấn đề tự vệ thương mại, trợ cấp chính phủ và bán phá giá, trên cơ sở các chuẩn mực thương
mại quốc tế, tránh tình trạng để bên ký kết nước ngoài tự do đơn phương áp dụng pháp luật của họ. Hơn nữa, trong pháp

luật về chống bán phá giá của Việt Nam cũng cần quy định nguyên tắc có đi có lại và nguyên tắc áp dụng trả đũa đối với
những nước đối xử bất bình đẳng và phân biệt đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
[7]

Thứ ba, để đồng thời chống lại hiện tượng bán phá giá tại thị trường Việt Nam và áp dụng biện pháp chống bán phá giá
đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường nước ngoài thì công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và tổ chức
các nhà sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Xuất phát từ hiện trạng kinh nghiệm và vốn
kiến thức kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế, việc tuyên truyền pháp luật Việt Nam
về thương mại quốc tế, về các quy định và thực tiễn của các thiết chế kinh tế thương mại quốc tế, cũng như các quy định
pháp luật nội địa của các thị trường nước ngoài quan trọng sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thêm kiến thức để
tự bảo vệ mình. Đồng thời, trong hoạt động chống bán phá giá, việc tổ chức các nhà sản xuất, xuất khẩu thành các tổ
chức, hiệp hội nghề nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Sự liên kết, thống nhất giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu theo
ngành, nghề sẽ tạo thành tiếng nói chung có giá trị pháp lý để bảo vệ quyền lợi của chính họ.
Kết luận
Là một trong những biện pháp có tính chất tự vệ trong thương mại quốc tế, việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với
hàng hóa nhập khẩu của các quốc gia được GATT trước đây và WTO hiện nay thừa nhận. Mục đích cao nhất của thuế
chống bán phá giá là nhằm hạn chế và loại bỏ những thiệt hại do hành vi bán phá giá của hàng hóa nước ngoài, nhằm
giữ vững thế cân bằng trong cạnh tranh giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất nội địa. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có
những trường hợp nước nhập khẩu lạm dụng thuế chống bán phá giá để bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Chính vì vậy,
Hiệp định ADP của WTO đã có những quy định chi tiết hóa các điều kiện, thủ tục về điều tra và áp dụng thuế chống bán
phá giá trong thương mại quốc tế.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, với đặc điểm là nền kinh tế chuyển đổi, đang phát triển, Việt Nam đồng thời
phải đối mặt với tình trạng bán phá giá của hàng hóa nước ngoài tại thị trường nội địa và tình trạng hàng hóa xuất khẩu
bị áp dụng các biện pháp bảo hộ tại thị trường nước ngoài, trong đó có biện pháp lạm dụng thuế bán phá giá. Trong bối
cảnh đó, nhu cầu cấp bách đặt ra là Việt Nam sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại nói chung và
pháp luật về chống bán phá giá nói riêng, trên cơ sở hài hòa hóa với các quy định và thực tiễn của thương mại quốc tế
Lý do nào đã khiến các công ty theo đuổi và thực hiện hành vi bán phá giá?
Thực tiễn thương mại cho thấy có những lý do tối đa hoá lợi nhuận khiến một công ty muốn thực hiện định
giá phân biệt. Ví dụ, một công ty sản xuất một triệu bật lửa một năm bằng một nhà máy duy nhất với chỉ
làm ca ban ngày. Giả sử nó định ra giá bật lửa này trong thị trường nội địa 1 đồng một chiếc và lãi được 0,1

đồng/chiếc. Các biến phí (bao gồm nguyên vật liệu, lương công nhân, ...) là 0,7 đồng/ chiếc và các định phí
(khấu hao nhà máy, trang thiết bị, ...) là 0,2 đồng/chiếc. Nếu nhà máy bán hết 1 triệu bật lửa mỗi năm, lãi
0,1 đồng/chiếc thì rõ ràng đã bù đắp xong mọi định phí từ doanh thu bán hàng tại thị trường nội địa. Bây
giờ, công ty nảy ra ý tưởng có thể bán thêm bật lửa sang thị trường nước láng giềng với bất cứ giá nào cao
hơn biến phí 0,7 đồng/chiếc và thấp hơn 1 đồng 1/chiếc để kiếm thêm tiền lời.
Bây giờ nhà máy có thể làm thêm ca đêm và sản xuất 0,5 triệu chiếc bật lửa nữa. Các định phí, theo giả
định, đã được trang trả xong từ việc bán 1 triệu chiếc bật lửa đầu tiên. Nếu bán 0,5 triệu bật lửa này sang
thị trường nước láng giềng với giá 0,9 đồng/chiếc thì cũng làm tăng lợi nhuận của công ty thêm 100.000
đồng. Dĩ nhiên, việc bán sản phẩm ca đêm không ảnh hưởng tới giá bán của một triệu bật lửa ban đầu. Điều
này ít nhiều dẫn đến việc phân khúc thị trường, nghĩa là phải tìm kiếm một thị trường khác hẳn với thị
trường ca ngày. Mặt khác, công ty phải đảm bảo rằng người mua ở thị trường mới không dễ gì chuyển hàng
ngược lại thị trường thứ nhất (ví dụ định giá ở thị trường mới sao cho chênh lệch giá không đủ bù đắp chi
phí vận chuyển theo chiều ngược lại). Nếu không, giá bán của thị trướng thứ nhất sẽ bị ảnh hướng theo
chiều hướng giảm giá.
Một số các liệu chuẩn phổ biến 1 để xác định việc bán phá giá
Sản phẩm tương tự: Về cơ bản, việc bán phá giá có liên quan đến vấn đề phân biệt về giá giữa các thị
trường. Nói chung, bán phá giá nảy sinh khi một sản phẩm được bán để xuất khẩu ở một nước giá thấp hơn
giá sản phẩm này được bán ở trên thị trướng nội địa. Sự khác biệt giữa các giá này, tính theo tỷ lệ phần
trăm trên giá xuất khẩu, được định nghĩa là biên phá giá (dumping margin). Nếu sản phẩm, trong trường
hợp được xuất khẩu có một sản phẩm tương tự được bán ở thị trường chính quốc thì giá ngoài nhà máy của
sản phẩm này khi được xuất khẩu hoặc được bán ở thị trường chính quốc sẽ được so sánh để xác định biên
phá giá. Tuy vậy, nếu sản phẩm này khi xuất khẩu không có sản phẩm hoàn toàn tương ứng về phương diện
đặc điểm lý tính có bán ở thị trường chính quốc thì phải cố gắng tìm ra sản phẩm nội địa được bán là sản
phẩm gần giống nhất đối với sản phẩm xuất khẩu này. Sản phẩm giống nhau được bán trên thị trường chính
quốc này mà có đặc điểm giống nhất với sản phẩm xuất khẩu được gọi là ‘‘sản phẩm tương tự’‘. Giá của sản
phẩm tương tự này, sau một số điều chỉnh nhất định được gọi là ‘‘giá chuẩn’‘ và sẽ được dùng để đo lường
xem liệu một sản phẩm xuất khẩu có phải được bán phá giá hay không.
Trợ cấp và bán phá giá
Như chúng ta đã thấy các nước luôn luôn dựng lên nhiều biện pháp phi thuế quan để bảo hộ sản xuất trong
nước. Mặc dù những biện pháp này rất đa dạng nhưng có thể chia ra tám nhóm lớn. Trong xu thế tự do hoá

thương mại ngày càng mạnh mẽ, các nước buộc phải cam kết không áp dụng các biện pháp phi thuế thuộc
nhóm hạn chế định lượng để bảo hộ sản xuất trong nước. Nhưng bù lại, các nước ngày càng sử dụng nhiều
hơn ba biện pháp hạn chế nhập khẩu thuộc nhóm bảo vệ thương mại tạm thời, đó là biện pháp chống bán phá
giá, chống trợ cấp và tự vệ.
Sau khi Vòng đàm phán Uruguay chấm dứt với sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm
1995, các qui định liên quan tới việc áp dụng ba biện pháp này trở nên khá chặt chẽ. Tuy nhiên xu hướng từ
năm 1995 đến nay cho thấy biện pháp chống bán phá giá đã được sử dụng một cách thái quá và dường như
đã trở thành một công cụ bảo hộ quan trọng cho nhiều nước.

×