Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

vấn đề tôn giáo ở việt nam và chính sách tôn giáo của đảng và nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.47 KB, 31 trang )

A - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, ra đời và biến đổi theo sự biến
động của điều kiện kinh tế – xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, tơn giáo vẫn tồn tại và đã có những chuyển biến nhất định.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng tơn giáo và
đang có chiều hướng phát triển trên phạm vi cả nước. Hiện nay, tôn giáo đã
trở thành nét đặc trưng trong đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Đối với Đảng ta, tôn giáo là một nội dung quan trọng trong chiến lược đại
đoàn kết toàn dân để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại
hố đất nước, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ
văn minh”. Vì vậy để thực hiện thắng lợi cơng cuộc đổi mới đất nước, địi hỏi
Đảng ta phải đổi mới tư duy, và nhìn nhận đúng về vấn đề tín ngưỡng tơn
giáo.
Hiện nay, tình hình chính trị thế giới và trong nước đang có nhiều biến
động phức tạp, các thế lực thù địch đang mưu toan lợi dụng vấn đề tôn giáo
để thực hiện mục đích chính trị. Với tình hình đó thì việc nghiên cứu các
chính sách của Đảng và nhà nước về tơn giáo là một điều rất cần thiết để hiểu
rõ vấn đề tơn giáo tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Tơn giáo là vấn đề mang tính chính trị và nhạy cảm, đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay. Xung quanh vấn đề này đã xuất hiện nhiều tranh cãi, nhiều
đánh giá, nhiều quan điểm khác nhau. Điều đó cũng chứng tỏ tôn giáo là vấn
đề rất được nhiều người quan tâm.
Đã có nhiều văn bản, nghị quyết về chính sách tơn giáo được ban hành.
Do vậy q trình nghiên cứu về vấn đề tôn giáo Việt Nam để thấy được một
cách tổng quan về những điểm tiến bộ cũng như những điểm hạn chế trong
chính sách về tơn giáo Việt Nam nhằm sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thêm. Do

1



đó, với việc thực hiện đề tài này có thể coi là một cơng trình khoa học mà các
cơ quan hữu quan cần quan tâm.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Do thời gian có hạn, ở đề tài này chỉ xin nghiên cứu vấn đề tôn giáo ở
Việt Nam và chính sách tơn giáo của Đảng và nhà nước nhằm xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc.
4. Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài này có nhiệm vụ là phân tích được tình hình, đặc điểm của tơn
giáo ở Việt Nam. Đề tài cịn có nhiệm vụ chỉ ra những điểm tiến bộ trong
chính sách phát triển tơn giáo của Đảng từ đó đề ra những phương hướng giải
pháp để giải quyết vấn đề tôn giáo nhằm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở
Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác Lênin và những tài liệu thu thập, tôi sử dụng các phương pháp: Lịch sử kết
hợp với lôgic, phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, … để làm
rõ nội dung nghiên cứu. Trong đó phương pháp phân tích là phương pháp chủ
đạo.
6. Ý nghĩa của đề tài
Nội dung nghiên cứu của đề tài có thể làm tư liệu cho việc giảng dạy,
nghiên cứu, học tập và có thể làm tài liệu tham khảo của các cơ quan hữu
quan về tôn giáo Việt Nam.
Đề tài đã chỉ ra một số vấn đề tôn giáo ở nước ta trong thời đại mới. Do
vậy đã nêu lên được mặt tiến bộ cũng như những hạn chế về vấn đề tơn giáo
từ đó đề ra được những chính sách phù hợp trong tơn giáo ở Việt Nam.

2


B- PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
I- QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ TƠN GIÁO

1. Nguồn gốc, bản chất tơn giáo
1.1. Một số định nghĩa về tôn giáo
Khi bàn đến tơn giáo, thì vấn đề được đặt lên hàng đầu cho những nhà
nghiên cứu và các nhà hoạt động xã hội là trả lời câu hỏi: Tơn giáo là gì? và
cho đến nay thì các nhà nghiên cứu tơn giáo hay tất cả các nhà thần hcọ cùng
chưa có được quan điểm thống nhất với nhau về vấn đề tôn giáo. Điều đó
càng cho thấy tính chất phức tạp và phong phú của tôn giáo.
Phái duy tâm khách quan cho rằng: Tơn giáo là món q vơ giá mà
thượng đế mang cho con người.
Phái duy vật trước Mác: Tôn giáo ra đời từ thời nguyên thuỷ, từ thời
mẫu hệ.
Quan điểm sinh học lại cho rằng: Tôn giáo như là một sản phẩm bản
năng, một phản ứng đặc biệt của con người với hồn canh xung quanh. Và
theo Xphrớt thì tơn giáo là chứng loạn thần kinh tổng hợp về sự ám ảnh dưới
hình thức tự vệ đối với cảm giác thiếu tin tưởng và đối với sự sợ hãi nội tâm.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin thì: Tơn giáo là một hình thái ý thức xã
hội, tơn giáo đồng thời là một thực thể xã hội. Với tư cách là một hình thái ý
thức xã hội tơn giáo phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách
quan qua sự phản ánh đó những sức mạnh tự phải của tự nhiên và xã hội đã
nhuốm màu sắc thiên nhiên, thần bí.
Trong lịch sử phát triển hàng năm của mình, tơn giáo ngày càng lớn
mạnh và bao trùm trong đó nhiều yếu tố. Tơn giáo khơng chỉ là một hình thái
ý thức xã hội mà còn là cơ sở hạ tầng xã hội, là kiến trúc thượng tầng xã hội.
Khi xét một tôn giáo người ta thường xét đến 3 lĩnh vực chủ yếu.

3



Thứ nhất: Tơn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội bao gồm:
những giáo lý, tư tưởng, quan niệm, tình cảm, tâm lý tơn giáo, … Ở đây tôn
giáo hiện ra như một niềm tin vào cái siêu nhiên, hiển hiện dưới hình thức
những giáo lý, tín điều, những quy định của tơn giáo.
Thứ hai: Tơn giáo với tính cách là một nghi lễ, nghi thức được thực
hành trong đời sống tơn giáo. Ở bình diện này tơn giáo thuộc về văn hố,
phong tục, tập qn… nhiền hơn là thuộc về ý thức xã hội.
Thứ ba: Tơn giáo với tính cách là các tổ chức, các thiết chế tơn giáo. Ở
bình diện này tơn giáo cũng có những nhân tố thuộc về ý thức xã hội nhưng
về cơ bản nó thuộc về kiến trúc thượng tầng xã hội.
1.2. Nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, sự xuất hiện,
phát triển và biến đổi của tôn giáo gắn liền với sự phát triển, của các quan hệ
kinh tế, chính trị, xã hội, sự xuất hiện và liên đới của tôn giáo bắt nguồn từ
các nguồn gốc sau:
1.2.1. Nguồn gốc kinh tế – xã hội
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng sản xuất thấp
kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí
ẩn. Vì vậy, họ đã gán cho tự nhiên những sức mạnh quyền lực to lớn và thần
thánh hố những sức mạnh đó. Đó chính là hình thức tồn tại đầu tiên của tơn
giáo.
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu
đuối trước sức mạnh của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những
sức mạnh tự phải của thế lực nào đó của xã hội. Khơng giải thích được nguồn
gốc của sự phân hố giai cấp, của áp bức bóc lột, … và của những yếu tố
ngẫu nhiên, may rủi, con người hướng niềm tin ảo tưởng vào “thế giới bên
kia” dưới hình thức tơn giáo.


4


Như vậy sự yếu kém về trình độ phát triển lực lượng sản xuất và sự bần
cùng về kinh tế, áp bức về chính trị, thất vọng bất lực trước những bất công xã
hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
1.2.2. Nguồn gốc nhận thức
Các nhà duy vật trước Mác thường nhấn mạnh về nguồn gốc nhận thức
của tôn giáo. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin lại quan điểm
trước hết đến nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên chủ nghĩa
Mác – Lênin không phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tơn giáo mà cịn làm
sáng tỏ một cách có cơ sở khoa học nguồn gốc đó.
Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự
nhiên, xã hội và bản thân mình có giới hạn khoa học, có nhiệm vụ khám phá
những điều chưa biết, song khoảng cách giữa cái đã biết và cái chưa biết ln
tồn tại, điều gì mà khoa học chưa giải thích được thì điều đó dễ bị tơn giáo
thay thế.
Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo gắn liền với đặc điểm nhận thức
của con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế
giới khách quan và khái quát hoá thành các phạm trù, khái niệm. Nhưng càng
khái quát hoá, trừu tượng hoá đến mức hư ảo thì sự vật, hiện tượng được con
người nhận thức càng có khả năng xa rời hiện thực và dễ phản ánh sai lệch
hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt đối hoá, cường điệu hoá của chủ thể nhận
thức sẽ dẫn đến sự thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện thực, dễ rơi vào ảo
tưởng, thần thánh hoá đối tượng.
Khi nhấn mạnh đến nguồn gốc nhận thức của tơn giáo là nằm ngay
trong đặc điểm của q trình nhận thức. V.I. Lênin viết: Sự phân đôi của nhận
thức của con người và tính khả năng của chủ nghĩa duy tâm, đã có trong cái
trừu tượng đầu tiên, tối sơ…
1.2.3. Nguồn gốc tâm lý


5


Các nhà duy vật cổ đại đã đưa ra luận điểm “sự sợ hãi sinh ra thần
linh”. V.I. Lênin đã tán thành luận điểm đó và phân tích thêm: Sự sợ hãi trước
thế lực mù quáng của tư bản … sự phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”, “ngẫu
nhiên” làm họ bị diệt vong… dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc
sâu xa của tơn giáo hiện đại.
Ngồi sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, tín ngưỡng tơn
giáo cịn làm nảy sinh những tình cảm như lịng biết ơn, sự kính trọng, tình
u trong quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người. Đó
là những giá trị tích cực của tín ngưỡng tơn giáo.
Tín ngưỡng tơn giáo đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, góp phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi trống vắng
trong tâm hồn, an ủi, vỗ về xoa dịu cho các số phận lúc xa cơ lỡ vận.
Vì thế, dù tôn giáo chỉ mang đến hạnh phúc hư ảo nhưng nhiều người
vẫn tin, vẫn bám víu vào. Các Mác đã nói: “tơn giáo là trái tim của giới khơng
có trái tim, cũng giống như nó là một tinh thần của trạng thái xã hội khơng có
tinh thần”.
Như vậy, sự xuất hiện của tôn giáo không phải là một hiện tượng ngẫu
nhiên mà nó có nguồn gốc từ những điều kiện cụ thể của kinh tế – xã hội, từ
nhận thức và từ tình cảm của con người khi giải quyết những mối quan hệ với
tự nhiên và xã hội. Trong đó nhân tố kinh tế – xã hội ln giữ vai trị quyết
định trong sự hình thành, tồn tại, phát triển của tôn giáo.
1.3. Bản chất của tôn giáo
1.3.1. Tính lịch sử của tơn giáo
Bản thân các tơn giáo khi mới ra đời thì mang tính chính trị những
trong xã hội có giai cấp đối kháng thì càng ngày lợi ích của giai cấp chính trị
cũng được thể hiện trong các tơn giáo.

Ngày nay tơn giáo đang cịn có chiều hướng phát triển đa dạng, phức
tạp khơng chỉ thể hiện tính tự phát của nhân dân, mỗi địa phương, mỗi quốc

6


gia… mà cịn có tổ chức ngày càng chặt chẽ rộng lớn ngoài phạm vi địa
phương, quốc gia. Và trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực chính trị
– xã hội lợi dụng cho việc thực hiện các mục đích ngồi tơn giáo của họ.
1.3.2. Tính chính trị của tơn giáo
Bản thân các tơn giáo khi mới ra đời thì mang tính chính trị nhưng
trong xã hội có giai cấp đối kháng thì càng ngày lợi ích của giai cấp chính trị
cũng được thể hiện trong các tơn giáo.
Ngày nay tơn giáo đang cịn có chiều hướng phát triển đa dạng, phức
tạp không chỉ thể hiện tính tự phát của nhân dân, mỗi địa phương, mỗi quốc
gia… mà có thể tổ chức ngày càng chặt chẽ rộng lớn ngoài phạm vi địa
phương, quốc gia và trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực chính trị
– xã hội lợi dụng cho việc thực hiện các mục đích ngồi tơn giáo của họ.
1.3.3. Tính quần chúng của tơn giáo
Tính quần chúng của tơn giáo trước hết được biểu hiện ở một số lượng
tín đồ đơng đảo của tơn giáo. Hiện nay tín đồ của các tôn giáo chiếm tỷ lệ khá
cao. Khoảng 1/3 đến 1/2 dân số thế giới.
Mặc khác tính quần chúng của tơn giáo cịn thể hiện ở chỗ các tơn giáo
là nơi sinh hoạt văn hoá, tinh thần của một bộ phận lớn quần chúng lao động.
Dù tôn giáo hướng con người có niềm tin vào hạnh phúc hư ảo của thế giới
bên kia song nó ln phản ánh khát vọng của tầng lớp bị áp bức về một xã hội
tự do, bình đẳng, bác ái… Bởi vì tơn giáo thường có tính nhân văn, nhân đạo
và hướng thiện. Vì vậy rất nhiều người ở trong các tầng lớp khác nhau của xã
hội tin theo.
2. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải quyết vấn đề tôn

giáo.
Chủ nghĩa Mác – Lênin coi tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội,
phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Nhưng chủ
nghĩa Mác – Lênin cũng thừa nhận vai trị của tơn giáo trong đời sống xã hội,

7


thừa nhận tôn giáo là một hiện tượng xã hội cịn tồn tại lâu dài, đồng thời tơn
trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân. Theo chủ
nghĩa Mác – Lênin, để giải quyết vấn đề tơn giáo cần gắn liền với q trình
vận động cách mạng, cải biến xã hội và nâng cao nhận thức của quần chúng.
Trên quan điểm đó, chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải quyết đúng đắn vấn đề tôn
giáo, cụ thể là:
2.1. Khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo gắn liền với cuộc
vận động của tồn dân đoàn kết cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định: Do tơn giáo là một hình thái ý
thức xã hội, nên để thay đổi ý thức xã hội trước hết cần làm thay đổi tồn tại xã
hội. Muốn xoá bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người phải xoá bỏ
nguồn gốc gây nên ảo tưởng mới. Đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực
của tôn giáo là đấu tranh với cái thế giới đang cần có ảo tưởng chứ không
phải là trực tiếp tấn công vào thần thánh và những biểu hiện tiêu cực của tôn
giáo là đấu tranh với cái thế giới đang cần có ảo tưởng chứ không phải là trực
tiếp tấn công vào thần thánh và những biểu hiện tín ngưỡng khác. Muốn xố
bỏ những ước mơ về thiên đường hư ảo ở “thế giới bên kia” thì con người cần
phải từng bước xây dựng “thiên đường” có thực trên trần gian. Đó là một q
trình lâu dài, gắn liền với công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và trí tuệ cho con người.
Để khắc phục có hiệu quả những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải
kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái, cục bộ vì sự khác

nhau về tín ngưỡng tơn giáo.
Ngồi ra để khắc phục những yếu tố tiêu cực của tôn giáo cũng cần
quan tâm đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, coi trọng tuyên truyền
giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng, phương pháp luận khoa học cho
quần chúng nhân dân các tín đồ.
2.2. Tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân

8


Trong chủ nghĩa xã hội, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng được xem là
một nguyên tắc. Quyền ấy được thể hiện về mặt pháp lý và trên thực tiễn.
Những người cộng sản luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của
quần chúng theo tơn giáo cũng như quyền không theo một tôn giáo nào.
Bất kỳ ai cũng được hồn tồn tự do theo hoặc khơng theo những tôn
giáo nào. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thừa nhận và đảm bảo cho mọi cơng dân
có hoặc khơng có tín ngưỡng tơn giáo đều được bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ các tôn giáo được nhà nước thừa nhận đều bình đẳng trước pháp
luật.
Đồng thời nhà nước cũng nghiêm cấm những kẻ lợi dụng tơn giáo tín
ngưỡng để hành nghề mê tín dị đoan và những âm mưu lợi dụng tơn giáo vì
những mục đích chính trị phản động.
2.3. Phải có quan điểm lịch sử
Cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo ở những thời kỳ lịch sử khác
nhau, vai trị tác động của tơn giáo đối với đời sống xã hội khơng giống nhau.
Vì vậy khi thực hiện nhất qn ngun tắc bình đẳng khơng phân biệt đổi xử,
cần phải có quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối
với những vấn đề liên quan đến tôn giáo. Bởi có những tơn giáo khi mới xuất
hiện được xem như là một phong trào bảo vệ lợi ích của người nghèo người
bị áp bức và nô lệ. Nhưng rồi tôn giáo ấy lại biến thành công cụ của giai cấp

thống trị bóc lột.
2.4. Phải phân biệt ở mặt chính trị và tư tưởng trong vịêc giải quyết vấn đề
tôn giáo
Mặt tư tưởg thể hiện sự tín ngưỡng trong tơn giáo. Khắc phục mặt này
là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài gắn liến với quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tơn giáo để chống lại sự nghiệp đấu
tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những phần tử phản động đội lốt tôn giáo.

9


Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động là nhiệm vụ thường xuyên đòi hỏi
phải nâng cao cảnh giác kịp thời chống lại những âm mưu và hành động của
các thế lực thù địch. Giải quyết vấn đề này vừa phải khẩn trương, kiên quyết
vừa thận trọng và có sách lược đúng.
II- TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ VẤN
ĐỀ TÔN GIÁO

1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo
1.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tơn giáo như một di sản văn hố của lồi
người
Vào những ngày đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người
viết:
“ Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân,
Tơn giáo của của chúa Giê – su có ưu điểm là lòng bác ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp biện chứng.
Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách “Tam dân” thích hợp
với điều kiện nước ta”

Khổng Tử, Giê – Su, Mác, Tơn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm
chung đó sao? Các vị ấy đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu
hạnh phúc chung cho xã hội. Nếu các vị ấy còn sống trên cõi đời này, nếu các
vị ấy họp lại một chỗ, tôi tin rằng các vị ấy nhất định sống chung với nhau rất
hoàn mỹ như những người bạn thắm thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ
của các vị ấy”.
Dĩ nhiên, Người khẳng định những lý tưởng cao đẹp của các tơn giáo,
hồn tồn khơng có nghĩa Người đồng nhất thế giới quan duy vật và thế giới
quan duy râm. Người đã từng nói rằng “Chủ nghĩa duy linh và chủ nghĩa duy
vật là ngược nhau rõ ràng là thế”. Nhưng Người cũng chỉ ra rằng: Không phải

10


vì vậy mà bài xích, nghi kỵ, đối đầu nhau; cần phải tơn trọng tự do tín
ngưỡng.
Như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ giá trị nhân bản của tơn giáo; lý
tưởgn của tơn giáo có nhiều khía cạnh phù hợp với lý tưởng của người cộng
sản, cũng như đạo đức của tơn giáo có nhiều điều mang ý nghĩa tích cực trong
việc giáo dục con người mới.
1.2. Tơn trọng tự do tín ngưỡng và nhu cầu tơn giáo của nhân dân.
Ngày 3-9-1945, chỉ 1 ngày sau khi tuyên bố nước Việt Nam độc lập, tại
phiên họp đầu tiên của chính phủ, Người nêu 6 nhiệm vụ cấp bách của nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Về nhiệm vụ thứ 6, Người nói: “Thực dân
và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương,
để dễ bề thống trị. Tơi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và
lương giáo đoàn kết”.
Hiến pháp đầu tiên của nhà nước dân chủ cơng hồ Việt Nam và lời kêu
gọi tồn quốc kháng chiến của Người cũng khẳng định tư tưởng đó. Ngày 33-1951 trong lời phát biểu kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động Việt Nam,
Người nêu rõ: “Chúng tôi xin nói thêm 2 điểm, nói rõ để tránh mọi sự có thể

hiểu lầm :
Một là vấn đề tơn giáo, thì Đảng lao động Việt Nam hồn tồn tơn
trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người…”
Ngày 14-06-1955, trên cương vị chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, Người ký sắc lệnh số 234/SL của Chính phủ về vấn đề tôn giáo. Chương
I của sắc lệnh là: : “Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng” và điều 1 khẳng định:
“Chính phủ bảo đảm quyền tự do, tín ngưỡng và tự do thờ cũng của nhân dân.
Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Mỗi người Việt Nam đều có quyền
tự do theo một tơn giáo hoặc khơng theo một tơn giáo nào”.
Tư tưởng đó nhất qn từ trước đến sau và Người đã thể hiện nó một
cách chân thành, có hiệu quả to lớn.

11


1.3. Đồn kết, khơng phân biệt lương – giáo
Nhận thức rõ giá trị nhân văn của tôn giáo, từ tôn trọng tự do tín
ngưỡng, Người đã thực hiện đồn kết toàn dân để tiến hành cách mạng cứu
nước, cứu nhà, xây dựng cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. Đoàn kết không
phân biệt lương – giáo là một bộ phận trong tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết” của Hồ Chí Minh. Người ln ân cần thăm hỏi, nhắc nhở đồng bào
cơng giáo thực hiện tốt lịng kính chúa và yêu nước, tức là giải quyết tốt mối
quan hệ giữa tín đồ và cơng dân, việc đạo và việc đời.
Tháng 8/1962, Người đến thăm một lớp mặt trận do Mặt trận Trung
ương tổ chức. Tại đây về vấn đề tôn giáo, Người nói rõ với anh, chị em học
viên: “Phải đoàn kết chặt chẽ đồng bào lương và đồng bào các tơn giáo, cùng
nhau xây dựng đời sống hồ thuận, ấm no, xây dựng Tổ quốc. Phải chấp hành
đúng chính sách tơn trọng tự do tín ngưỡng đối với tất cả các tơn giáo”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định rằng “lương giáo đoàn kết,
toàn dân đoàn kết, cả nước một lòng, nhân dân ta nhất định sẽ thắng lợi trong

cơng cuộc đấu tranh thực hiện hồ bình thống nhất Tổ quốc và xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Tuy nhiên, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng kiên quyết phê phán những
hành vi lợi dụng tôn giáo, lợi dụng tự do tín ngưỡng để kích động hoạt động
chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân, xâm phạm lợi ích chung của
đất nước, của dân tộc.
Như vậy, với lòng nhân ái bao la, bằng trí tuệ sáng suốt của mình, chủ
tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những bài học vô giá về nhận thức và
phương pháp xử lý các vấn đề tôn giáo. Những bài học đó vấn giữ ngun giá
trị đối với tồn Đảng, tồn dân ta trong công tác tôn giáo hôm nay. Đứng
trước những thời cơ mới, vận hội mới của đất nước, trước địi hỏi về sự ổn
định xã hội và đồn kết toàn dân, những bài học mà chủ tịch Hồ Chí Minh để

12


lại càng có ý nghĩa hết sức to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
giàu đẹp.
2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác tôn giáo
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề tơn giáo, trong q trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng
cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến vấn đề tơn giáo, coi đó là vấn đề chiến
lược có ý nghĩa quan trọng. Tính nhất quan trong quan điểm, chính sách của
Đảng về tơn giáo thể hiện ở sự tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng
của nhân dân.
Ngay từ những ngày đầu cách mạng, trong chỉ thị về việc thành lập hội
phản đế đồng minh ngày 18/11/1930, Đảng đã nêu rõ: “Phải đảm bảo quyền
tự do tín ngưỡng của quần chúng”. Và trong chương trình hành động của Mặt
trận Việt Minh (1941) đã ghi rõ: “Thi hành phổ thông đầu phiếu, ban hành các
quyền tự do dân chủ như tự do xuất bản, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng…”

Vì vậy khi cách mạng tháng Tám 1945 thành cơng, quyền tự do tín
ngưỡng tơn giáo được ghi nhận trong hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ cộng hồ (1946): “Cơng dân Việt Nam có quyền tự do ngơn luận, tự
do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng…”
Có thể khẳng định rằng: Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
với chính sách “Tín ngưỡng tự do, lương – giáo đồn kết” của Hồ Chí Minh
và Đảng ta đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đồn kết toàn dân đấu tranh
dành độc lập, tự do cho đất nước.
Bước sang thời kỳ đổi mới nói chung, Đảng cộng sản Việt Nam đã có
những quan điểm mới về vấn đề tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo, thẻ
hiện rõ trong: Nghị quyết 24 của Bộ chính trị (1990); Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991); Hiến pháp (1992)
và trong các văn kiện Đại hội Đảng, chỉ thị của Đảng. Đặc biệt, tại hội nghị
lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (3/2003) Đảng cộng sản

13


Việt Nam đã ban hành nghị quyết 25-NQ/TW về công tác tơn giáo với những
quan điểm, chính sách thiết thực nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của đồng bào có đạo, tăng cường đồn kết lương giáo. Điều đó, khẳng định sự
đổi mới trong tư duy, nhìn nhận và đánh giá đúng đắn vấn đề tín ngưỡng tơn
giáo của Đảng ta.

14


Chương II
VẤN ĐỀ TƠN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY

I. VẤN ĐỀ TƠN GIÁO Ở VIỆT NAM

1. Các tơn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng tơn giáo. Với vị trí địa lý
nằm trong khu vực Đông Nam Á và 3 mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi
trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc
thâm nhập các luồng văn hố, các tơn giáo trên thế giới.
Ở Việt Nam có những tơn giáo có nguồn gốc ở phương Đông như:
Phật giáo, lão giáo, nho giáo. Có tơn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như:
Thiên chúa giáo, tin lành. Có tơn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao đài,
Phật giáo Hoà Hảo. Có những tơn giáo hồn chỉnh, cũng có những hình thức
tơn giáo sơ khai. Có những tơn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định, có
những tơn giáo chưa ổn định đang trong quá trình kiếm đường hướng mới cho
phù hợp.
Ước tính ở Việt Nam hiện nay có khoảng 80% dân số có đời sống tín
ngưỡng tơn giáo, trong đó có khoảng 20 triệu tín đồ tơn giáo đang hoạt động
bình thường, ổn định, chiém 25% dân số:.
1.1. Phật giáo:
Phật giáo ở Việt Nam có gần 10 triệu tín đồ, có mặt hầu hết ở các tỉnh,
thành phố trong cả nước, trong đó tập trung đồng nhất ở Hà Nội, Bắc Ninh,
Nam Định, Hải Phịng, thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng, Đồng Nai,
Lâm Đông, Cần Thơ…
Phật giáo truyền vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên. Thời
kỳ đầu phật giáo được truyền bá vào Việt Nam chủ yếu trực tiếp từ Ấn Độ qua
đường biển cùng với các thương nhân, một số tăng sỹ Ấn Độ. Nơi sinh hoạt
tôn giáo của phật giáo là chùa. Quy mô của mỗi ngôi chùa khác nhau, nhưng

15



chùa vừa là cơ sở sinh hoạt tín ngưỡng, vừa là cơng trình văn hố của mỗi
vùng dân cư và còn là một nơi lưu giữ những giá trị văn hố của mỗi vùng
dân cư và cịn là một nơi lưu giữ những giá trị văn hoá của dân tộc, là trường
rèn luyện đạo đức, nhân cách, giáo dục lòng nhân ái, làm điều lành, tránh
điều dữ cho tăng ni, phật tử. Phật tử vào Việt Nam trong sự hoà nhập với cuộc
sống, tập quán và các tôn giáo khác, tạo ra xu hướng “Tam giáo đồng
nguyên”. Có những giai đoạn thịnh vượng đồng thời cũng có thời kỳ suy
thối.
Hiện nay, phật giáo là tôn giáo lớn nhất ở nước ta, có hơn 9 tín đồ, có
khối lượng tài sản vật chất lớn, nhiều chùa chiền là di sản, văn hố vơ giá của
dân tộc. Giáo hội phật giáo Việt Nam là tổ chức chung của phật giáo cả nước
thành lập 9/12/1981, hoạt động theo tinh thần “Đạo pháp, dân tộc và chủ
nghĩa xã hội”, hướng tăng ni, tín độ hoạt động theo đức tin của phật, chăm lo
tu hành, đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giáo hội phật giáo Việt Nam
đã trải qua 5 kỳ đại hội: Đại hội lần thứ I năm 1981, Đại hội lần thứ II năm
1987, Đại hội lần thứ III năm 1992 và Đại hội lần thứ IV năm 1997, Đại hội
thứ V năm 2002.
Phật giáo Việt Nam có bề dày gần 20 thế kỷ. Ngày nay tín đồ, tăng ni
phật giáo cả nước dưới sự lãnh đạo của Giáo hội phật giáo Việt Nam đã và
đang có những đóng góp quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước.
1.2. Công giáo
Công giáo là một trong những tôn giáo lớn ở nước ta. Nếu tính từ năm
1533 – năm có giáo sĩ đầu tiên đến truyền đạo tại Việt Nam, đến nay lịch sử
truyền giáo và phát triển công giáo ở Việt Nam đã trải qua gần 5 thế kỷ. Là
một bộ phận của Giáo hội hồn vũ, Giáo hội cơng giáo Việt Nam về cơ bản có
những đặc điểm chung về hệ thống tổ chức và hoạt động tôn giáo.

16



Song trong từng thời kỳ lịch sử của truyền giáo, phát triển đạo mà hệ
thống tổ chức sinh hoạt tôn giáo của cơng giáo ở Việt Nam có nét đặc thù.
Tổ chức Giáo hội công giáo thiết lập ở Việt Nam năm 1659. Giáo hội
công giáo Việt Nam hiện nay được tổ chức giáo tỉnh, giáo phận, giáo xứ, họ
đạo.
Hội đồng giám mục Việt Nam thành lập tháng 1 năm 1980 là cơ quan
Trung ương của tổ chức Giáo hội công giáo nước ta. Hiện nay công giáo ở
nước ta có khoảng 5.324.500 tín đồ, có 6.003 nhà thờ, nhà nguyện, dòng họ
(nam, nữ).
Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc và trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng bào công giáo Việt Nam có nhiều
đóng góp tích cực. Thực tiễn lịch sử chỉ rõ, cơng giáo chỉ thực sự sáng danh
trong lịng dân tộc, khi hoà nhập vào dân tộc, vận động giáo dân “kính chúa,
yêu nước”, sống “tốt đời đẹp đạo”, chống lại mọi âm mưu của các thế lực thù
địch lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng đi ngược lợi ích, nguyện vọng của
tuyệt đại đa số nhân dân lao động.
1.3. Hồi giáo
Hồi giáo ở Việt Nam có trong cộng đồng người chăm, thuộc các tỉnh,
thành phố: Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây
Ninh, Đồng Nai. Tính đến nay đạo hội ở nước ta có khoảng 65.000 tín đố,
trong đó ở Ninh Thuận và Bình Thuận số lượng tín đồ chiếm 50% dân số…
Tổ chức giáo hội của Hồi giáo ở Việt Nam được hình thành từ thời Pháp
thuộc có 2 chức năng: Bảo đảm tín ngưỡng tơn giáo và mang tính đại diện
cho đồng bào Chăm về sắc tộc trong quan hệ với nhà nước và tồn tại cho đến
năm 1975. Sau năm 1986, nhà nước ta cho phép thành lập ban đại diện cộng
đồng Hồi giáo ở Việt Nam.

17



Hồi giáo ở nước ta có đặc điểm riêng, có hình thái pha trộn với các dấu
ấn về phong tục, tập quán và văn hoá cộng đồng khá sâu sắc, góp phần tạo ra
nét đặc sắc về văn hố, lối sống riêng của đồng bào Chăm.
Là một tôn giáo chiếm thiểu số so với một số tôn giáo khác ở nước ta,
nhưng đặc tính, tín ngưỡng, phương thức hoạt động của Hồi giáo, trên thế giới
ít nhiều ảnh hưởng đến đồng bào theo đạo Hồi. Từ khi nước ta gia nhập
ASEAN, mỗi quan hệ giữa Hồi giáo trong nước với Hồi giáo ở các nước
ASEAN ngày càng phát triển, đặc biệt với Hồi giáo Malayxia về Hồi giáo
Inđônêxia.
1.4. Đạo tin lành
Đạo tin lành du nhậpvào Việt Nam muộn hơn các tôn giáo khác như
phật giáo và công giáo. Do những diễn biến phức tạp của lịch sử, so với phật
giáo và cơng giáo đạo tin lành có sự phát triển khó khăn. Hiện nay, theo số
liệu của Ban tơn giáo chính phủ số tín đồ đạo tin lành chỉ chiếm khoảng 2.3%
dân số, đứng sau Cao Đài, Hoà Hảo, chỉ đứng trên Hồi giáo.
Về tổ chức, hiện đang có 2 tổ chức đạo tin lành đăng ký hoạt động hợp
pháp tại Việt Nam là Tổng hội tin lành miền Bắc (Hội thành tin lành Việt Nam
– miền Bắc) và Tổng liên hội tin lành miền Nam (tổng liên hội thánh tin lành
Việt Nam – miền Nam). Đạo tin lành ở Việt Nam có khoảng 414.915 tín đồ.
Hội thánh tin lành miền Bắc còn gọi là Hội thánh tin lành Việt Nam
(miền Bắc) được nhà nước cho đăng ký hoạt động năm 1955 có 14 chi hội, có
khoảng 6333 tín đồ, là một tổ chức tơn giáo u nước, có điều lệ tín đồ, với
phương châm “phụng sự Thiên chúa vì Tổ quốc”, có thành tích đóng góp
trong kháng chiến chống Mỹ và trong những năm đầu sau khi đất nước thống
nhất.
Hội tin lành miền Nam còn gọi là Tổng liên hội thành tin lành Việt
Nam (miền Nam) để phân biệt với Hội thánh tin lành miền Bắc. Đây là tổ

18



chức tin lành hoạt động từ thời Mỹ – Nguỵ. Sau khi nước nhà thống nhất,
năm 2001 nhà nước ta chấp nhận cho phép hoạt động. Họp đại hội vào tháng
2/2001 thông qua hiến chương, tôn chỉ “sống phúc tâm, phụng sự thiên chúa,
phục vụ Tổ quốc và dân tộc”; xác định tổ chức giáo hội là một tổ chức độc
lập, không thuộc tổ chức 253 nhà thờ tin làng, có gần 400 mục sư truyền đạo
và trên 400000 tín đồ đang hành đạo ở 31 tỉnh, thành phố phía Nam.
1.5. Đạo Cao Đài
Cao Đài là tôn giáo bản địa, xuất hiện ở phía Nam ở nước ta vào cuối
những năm 20 của thế kỷ trước. Đạo Cao Đài ra đời trong bối cảnh đất nước
ta đang bị chủ nghĩa thực dân pháp đẩy mạnh chính sách khai thác thuộc địa.
Giáo lý Cao Đài thể hiện rất rõ tính “hợp nhất”, “hỗn hợp” nhiều tôn
giáo. Giáo luật của Cao Đài quy định địa phương nào có từ 500 tín đồ trở lên
được lập một họ đạo, đặt riêng một Thánh nhất. Hội Thánh Cao Đài sẽ cử
chức sắc – Thiên phong đến cai quản Thánh nhất và họ đạo. Hệ thống tổ chức
của họ Cao Đài khá lớn, gồm rất nhiều bộ phận vừa mang tính chất tơn giáo,
vừa mang dáng dấp của một bộ máy nhà nước. Lễ nghi của Cao Đài phỏng
theo tam giác (Nho – Phật – Lão) quy định mỗi tháng có 2 ngày lễ: Lễ sóc và
lễ vọng vào mồng 1 và 15 âm lịch, tổ chức tại Thánh nhất.
Trong quá trình phát triển, đạo Cao Đài có sự đóng góp cho cuộc kháng
chiến chống Pháp khi ta mới giành chính quyền tháng Tám năm 1945 trong 4
sư đồn ở Nam Bộ thì 2 sư đồn của Cao Đài. Tuy nhiên nhìn tổng qt, từ
khi thành lập đến năm 1975, đạo Cao Đài luôn bị Pháp, Mỹ và các thế lực
chính trị phản động lơi kéo, chia rẽ, lợi dụng nên tôn giáo của Cao Đài ln bị
phân hố.
Hiện nay Cao Đài có hơn 2 triệu tín đồ, riêng phái Tây Ninh có khoảng
55 vạn, với gần 5000 chức sắc, chức việc và hơn 500 Thánh thất. Thực tiễn
lịch sử ra đời cho thấy quá trình tồn tại và phát triển, đạo Cao Đài đã trải qua
nhiều biến cố, quanh co, phức tạp. Ngày nay, Cao Đài đang cố gắng giải quyết


19


tốt mối quan hệ giữa “đạo” và “đời”. Đồng bào đạo Cao Đài cùng toàn thể
dân tộc xây dựng đất nước “hồ bình, dân chủ, tự do” và tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
1.6. Phật giáo Hoà Hảo
Phật giáo Hoà Hảo là một tôn giáo lớn ở đồng bằng sông Cửu Long,
được thành lập ngày 4 tháng 7 năm 1939 tại làng Hoà Hảo, quận Tân Châu,
tỉnh Châu Đốc, nay là thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
Giáo lý của Hồ Hảo được hình thành dựa trên truyền thống của các
tôn giáo dân tộc và giáo lý của phật giáo được bình dân hố tinh thần chính là
khun răn tín đồ bổn đạo ăn chay, ở lành, với 4 điều: “ơn tổ tiên”, “ơn Tổ
quốc”, “ơn pháp bảo”, “ơn đồng bào nhân loại”.
Bàn thờ của Hoà Hảo được gọi là “thơng thiên” lập tại gia đình tín đồ.
Trên bàn thờ khơng có ảnh, tượng, chỉ thờ miếng vải đỏ sẫm, cúng phật bằng
nước lọc, hương hoa…
Phật giáo Hoà Hảo khơng có tu sĩ, khơng có tổ chức giáo hội, chỉ có
một số chức sắc lo cả việc đạo lẫn việc đời. Khơng có nơi thờ tự cơng cộng.
Q trình phát triển của phật giáo Hồ Hảo in đậm dấu ấn của những biến
động đầy phức tạp của lịch sử ở vùng đất Nam Bộ trong những năm 40 đến
cuối thập kỷ 70 của thế kỷ trước.
Hiện nay, phật giáo Hồ Hảo có khoảng 1.3 triệu tín đồ, tập trung chủ
yếu ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ như An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng
Tháp, Vĩnh Long.
Ngoài 6 tơn chính thức đang hoạt động bình thường, cịn có một số
nhóm tơn giáo địa phương mới được thành lập có liên quan đến phật giáo
hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào như: Tịnh độ sư sỹ, Bửu Sơn Kỳ Hương,
Tứ ân hiếu nghĩa, Tổ tiên chính giáo, Bà la mơn,…
2. Chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay:


20


2.1. Chủ trương, Chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề tín
ngưỡng, tơn giáo:
Trong q trình lãnh đạo cách mạng cũng như trong lãnh đạo việc quản
lý xã hội và điều hành đất nước, Đảng cộng sản Việt Nam ln quan tâm đến
tơn giáo và có chính sách tín ngưỡng, tơn giáo đúng đắn và phù hợp với từng
giai đoạn lịch sử.
Trong chỉ thị của thường vụ Trung ương về vấn đề thành lập Hội phản
đế Đồng Minh ngày 18 – 11 – 1930, Đảng đã có tun bố đầu tiên về chính
sách tơn trọng tự do, tín ngưỡng của quần chúng: “… phải lãnh đạo từng tập
thể sinh hoạt hay tập đoàn của nhân dân gia nhập 1 tổ chức cách mạng, để dần
dần cách mạng hố quần chúng và lại đảm bảo tự do tín ngưỡng của quần
chúng…”. Hay trong lời kết thúc buổi ra mắt vào ngày 3 – 3 – 1951, Đảng lao
động Việt Nam đã tuyên bố: “… vấn đề tôn giáo thì Đảng lao động Việt Nam
hồn tồn tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mỗi người”.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta ln có quan
điểm thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tơn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại
biểu tồn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: “Tín ngưỡng,
tôn giáo là tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện
bình đẳng, đồn kết lương giáo và giữa các tơn giáo. Khắc phục mọi chế độ
hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống phá chủ
nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ cơng dân”.
Chủ trương, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tơn giáo từng
bước được hồn thiện. Đến đầu thập kỷ 90, trong những năm đầu thực hiện
công cuộc đổi mới, Bộ chính trị ra nghị quyết số 24 – NQ/TƯ về cơng tác tơn
giáo trong tình hình mới, ghi dấu sao về sự đổi mới đường lối chính sách tín

ngưỡng, tơn giáo. Đến nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 7, khoá IX quan điểm, chính sách của Đảng đối với vấn đề tín ngưỡng,

21


tôn giáo tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm một bước phù hợp với sự
nghiệp đổi mới của Đảng: “Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tơn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền
sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt
Nam tháng 4/2006 tiếp tục khẳng định: “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận
quan trọng của khối đại đồn kết dân tộc. Thực hiện nhất qn chính sách tơn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của
công dân, quyền sinh hoạt tơn giáo bình thường theo pháp luật. Đồn kết
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào
không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hố, đạo đức tốt đẹp của các
tơn giáo. Đông viên giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống
“tốt đời đẹp đạo”. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và
được pháp luật bảo hộ. Thực hiện các chương trình phát triển kinh tế – xã hội
nâng cao đời sống vật chất, văn hố của đồng bào các tơn giáo. Tăng cường
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo. Đấu tranh ngăn
chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo
làm tổn hại đến lợi ích chung của đất nước, vị phạm quyền tự do tôn giáo của
công dân”.
Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh
rằng Đảng coi quyền tự do, tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con
người, là một trong những quyền cơng dân, quyền chính đáng của con người.

2.2. Chính sách của Nhà nước ta về tín ngưỡng, tơn giáo:
Từ sau Cách mạng tháng 8 – 1945 đến nay, nước ta đã có 4 hiến pháp
(năm 1946, 1959, 1980 và năm 1992), trong đó hiến pháp đầu tiên năm 1945
đã khẳng định quyền của người dân Việt Nam: “Mọi cơng dân Việt Nam có

22


quyền tự do tín ngưỡng”. Từ những nguyên tắc cơ bản đó, Điều 80 hiến pháp
năm 1980 ghi rõ: “Cơng dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khơng theo
một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước”. Điều 70 của Hiến pháp năm 1992 được bổ sung rõ
hơn: “Cơng dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc
khơng theo tơn giáo nào. Các tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những
nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tơn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được
xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tơn
giáo đề làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.
Tự do tín ngưỡng, tơn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công
dân cũng được dề cập trong bộ luật dân sự, được bảo vệ bằng pháp luật và
được cụ thể hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng có mức độ
cao hơn, hồn thiện hơn.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo ra đời là một minh chứng, một bước
tiến và một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng tự do tín
ngưỡng, tơn giáo.
Trên thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tơn giáo khơng
phải chỉ được khẳng định ở hiến pháp, pháp luật hay trong các chỉ thị, Nghị
quyết của Đảng mà được thể hiện sống động trong cuộc sống hằng ngày.
3. Kết quả việc thực hiện những chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối
với tín ngưỡng, tơn giáo:

Cho đến nay, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ
chức tôn giáo và tiếp tục xem xét theo tinh thần của pháp lệnh tín ngưỡng, tơn
giáo. Có thể khẳng định rằng hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo đang diễn ra
bình thường trên đất nước Việt Nam.
Hiện nay nước có 56.125 chức sắc, nhà tu hành, chưa kể hàng ngàn
người hoạt động bán chuyên nghiệp của các tổ chức tôn giáo. Trong đó: Phật

23


giáo có 33.066 tăng ni, Thiên chúa giáo có 42 giám mục, 2.700 linh mục và
11.282 tu sĩ, Tin lành có 492 mục sư, giảng ni và truyền đạo, Cao đài có 8.340
chức sắc, Phật giáo và hồ hảo có 982 chức viên, và Hồi giáo có 699 chức
sắc, 3 học viên phật giáo với trên 1.000 tăng ni sinh, 30 trường trung cấp phật
học, 4 trường cao đẳng phật học với 3.940 tăng ni sinh theo học. Giáo hội
Thiên chúa giáo có 6 Đại chủng viện với 1.085 chúng sinh và 1.712 chúng
sinh dự bị. Viên thánh kinh thần học của tổng tiên hội thánh tin lành Việt Nam
(miền Nam) đã chiêu sinh 2 khoá với 150 học sinh. Hiên có hàng trăm người
thuộc các tơn giáo đang theo học thạc sỹ, tiến sỹ ở các nước trên thế giới.
Các nước hiện có 22.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở được
xây dựng mới khang trang, đẹp đẽ. Đó là bằng chứng sinh động để đảm bảo
tự do tín ngưỡng, tơn giáo là ngun tắc hàng đầu và nhất quán của Đảng và
Nhà nước Việt Nam vì cuộc sống tinh thần của hàng triệu tín đồ các tôn giáo
và cũng là công dân của nước Việt Nam.
4. Những khó khăn trong q trình phát triển tơn giáo:
Do điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế, tác động của nền kinh tế thị
trường, vì vậy trong sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo cũng phát sinh nhiều vấn
đề phức tạp: Một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hành nghề mê
tín dị đoan, thương mại hoá hoạt động này. Các hoạt động truyền giáo của các
tổ chức truyền giáo từ bên ngoài vào, các phần tử thù địch ở trong và ngoài

nước lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để kích động tín đồ tiến hành hoạt động
chống đối Nhà nước, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ảnh
hưởng tiêu cực tới trật tự, an tồn xã hội.
Bên cạnh đó, trong cơng tác quản lý Nhà nước, hệ thống bộ máy Nhà
nước về tơn giáo chưa thực sự được kiện tồn củng cố, lực lượng cán bộ cịn
nhiều bất cập, cơng tác tham mưu cịn hạn chế, dẫn đến tình trạng một số cấp
uỷ, chính quyền cơ sở có nơi vừa có biểu hiện khắt khe, lại vừa có biểu hiện
bng lỏng. Có nơi lại chủ quan, giản đơn trong quản lý, không kịp thời đấu
tranh đối với hành vị lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo , vi phạm pháp luật. Vì
24


vậy tạo cơ sở cho phần tử xấu lợi dụng vấn đề tôn giáo gắn với vấn đề dân
tộc, tuyên truyền tư tưởng dân tộc hẹp hòi, đòi li khai, gây điểm nóng đề bên
ngồi lợi dụng, kích động xun tạc, vu cáo đã vi phạm nhân quyền và quyền
tự do tơn giáo.
Một bộ phận bà con giáo dân cịn tự ti, mặc cảm, nặng về đức tin giáo
lý, chưa quan tâm đầy đủ việc đời, ít tham gia hoạt động xã hội và học tập nên
đời sống còn gặp nhiều khó khăn, nhận thức hiểu biết về chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước còn hạn chế dễ bị kẻ xấu lợi dụng.
Đó là những yếu kém tồn tại trong cơng tác tơn giáo. Những hạn chế đó
một mặt là do lịch sử để lại, mặt khác do cịn có sự yếu kém trong cơng tác
quản lý về vấn đề tôn giáo và các công tác tôn giáo. Điều đó địi hỏi sự cố
gắng hơn nữa, sự quan tâm nhiều hơn nữa của cấp uỷ chính quyền và sự nỗ
lực của người dân vùng giáo.
II. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO NHẰM XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC.

1. Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của
hệ thống chính trị và tồn xã hội về vấn đề tơn giáo.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương,
chính sách về tơn giáo của Đảng và Nhà nước trong cán bộ, đảng viên, nhân
dân, nhất là các chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo. Giáo
dục truyền thống yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của tổ quốc,
làm cho các tơn giáo gắn bó với dân tộc, với đất nước và chủ nghĩa xã hội,
hăng hái thi đua bảo vệ tổ quốc.
Đồng thời phải giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn
vinh và nhớ ơn những người có cơng với tổ quốc, dân tộc và nhân dân. Tơn
trong tín ngưỡng truyền thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo,
nhằm tăng cường sự đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng tơn giáo và
những người khơng tín ngưỡng, tơn giáo. Trên cơ sở đó đấu tranh với những
tà đạo, những hoạt động mê tín dị đoan, lợi dụng tơn giáo làm hại đến lợi ích
của tổ quốc, dân tộc và nhân dân.

25


×