Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Sự lãnh đạo của tỉnh ủy đồng tháp về công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 144 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN QUỐC VIỆT

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH UỶ ĐỒNG THÁP
VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGHỆ AN - 2016


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN QUỐC VIỆT

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH UỶ ĐỒNG THÁP
VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THÁI SƠN

NGHỆ AN - 2016



2

LỜI CÁM ƠN
Trong q trình xây dựng và hồn thành Luận văn tốt nghiệp với nội
dung: “Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Đồng Tháp về công tác dân vận trong giai
đoạn hiện nay”, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình thiết thực của giáo viên
hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Thái Sơn và thầy giáo, cô giáo của Trường Đại học
Vinh, một số sở, ngành thuộc tỉnh Đồng Tháp và cơ quan đang công tác. Em xin
trân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu đó.
Luận văn được thực hiện trong thời điểm phải tập trung nhiều cho nhiệm
vụ chính trị cơ quan, nên kết quả nghiên cứu và xây dựng Luận văn không thể
tránh khỏi những khiếm khuyết về nội dung cũng như hình thức trình bày. Rất
mong sự trân thành và thơng cảm giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và quý thầy
giáo, cô giáo Trường Đại học Vinh
Em trân thành cám ơn!

Người thực hiện

Nguyễn Quốc Việt


3

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cám ơn
Mục lục
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU
NỘI DUNG

1
2
3
4
5

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
DÂN VẬN

11

1.1. Quan điểm của C.Mác và PH.Ăngghen, Lênin, Đảng Cộng sản
Việt Nam, tư tưởng Hồ Chi Minh về cơng tác dân vận

11

2.2. Vai trị, ý nghĩa của cơng tác dân vận, tính tất yếu của việc nâng
cao chất lượng cơng tác dân vận

34

2.3. Vai trị lãnh đạo của Tỉnh uỷ về công tác dân vận.
Chương 2: THỰC TRẠNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH UỶ
ĐỒNG THÁP VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN HIÊN NAY
2.1. Khái quát về tỉnh Đồng Tháp và Tỉnh ủy Đồng Tháp

47

47

2.2. Thực trạng Tỉnh ủy Đồng Tháp lãnh đạo công tác dân vận hiện
nay

63

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH UỶ ĐỒNG THÁP VỀ CÔNG TÁC DÂN
VẬN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

93

3.1. Dự báo những nhân tố tác động đến công tác dân vận trong giai
đoạn hiện nay

93

3.2. Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Đồng Tháp về công
tác dân vận trong giai đoạn hiện nay

96

KẾT LUẬN

123

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

125


PHỤ LỤC

133


4

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1. Thống kê số liệu về cơng tác phát triển đồn viên, hội viên và cơng 132
tác xây dựng Đảng ở các tổ chức cơ sở

Bảng 2. Số liệu vận động thực hiện một số hoạt động an sinh xã hội, xây 133
dựng nông thôn mới của Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và
các tổ chức hội các cấp
Bảng 3. Thống kê về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ

136

ở cơ sở xã, phường, thị trấn
Thống kê về Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong hoạt
động cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp
Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc của các
loại hình doanh nghiệp
Bảng 4. Kết quả điều tra xã hội học sự hài lòng của người dân đối với sự 142
phục vụ của cơ quan hành chính (chỉ số PAPI) năm 2015


5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lực lượng của dân rất to
lớn. Dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì
việc gì cũng thành cơng” [40, tr.700]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dân vận là vận
động lực lượng tất cả mỗi một người dân, khơng để sót một người dân nào, góp
thành lực lượng tồn dân, để thực hành những cơng việc nên làm, những việc cơng
Chính phủ và đồn thể giao cho” [40, tr.698].
Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với tồn bộ sự
nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của
Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Công tác dân vận là trách nhiệm của tất cả các tổ chức trong hệ thống
chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên
các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong thời gian qua,
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định để tăng
cường công tác dân vận; giải quyết mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với
nhân dân hiện nay đang trở thành vấn đề cấp bách là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, của mỗi tổ chức đảng, cán bộ công chức, viên chức và đảng
viên.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, có rất
nhiều vấn đề mới đặt ra tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, cùng với tệ
quan liêu, tham nhũng, xa dân, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân, làm
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng là thách thức đối với mối quan hệ
giữa nhân dân với Đảng. Thực tiễn đòi hỏi Đảng cần tăng cường và đổi mới sự
lãnh đạo đối với Công tác dân vận, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối
với Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với dân cũng như khối đại đoàn kết



6

toàn dân; phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm qua Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp xem Công tác dân vận là
một trong những nội dung quan trọng của cơng tác xây dựng đảng, xây dựng
chính quyền trong sạch vững mạnh theo mục tiêu nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Cơng tác dân vận tỉnh Đồng Tháp trong những năm
qua có những chuyển biến, hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở có nhiều đổi mới
theo hướng “gần dân, hiểu dân và có trách nhiệm với dân”. Sự lãnh chỉ đạo của
cấp uỷ đảng về công tác dân vận ngày càng sâu sát, hiệu quả tuyên truyền, vận
động được động đảo quần chúng nhân dân tham gia vào các cuộc vận động và
phong trào cách mạng địa phương; các cấp các ngành nâng cao vai trò quản lý
điều hành và vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị gắn việc thực quy
chế dân chủ ở cơ sở theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”; các nghị quyết, văn bản chỉ đạo của Tỉnh uỷ, các chỉ thị của Uỷ ban nhân
dân Tỉnh được cụ thể hoá thực hiện; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể các cấp có bước chuyển biến đổi mới về phương thức hoạt động, tập
trung hướng về cơ sở gắn nghĩa vụ đi đôi với quyền và lợi ích kinh tế - xã hội
cho các tầng lớp nhân dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được công tác dân vận của tỉnh Đồng Tháp
vẫn còn nhiều quan tâm bởi những hạn chế, yếu kém:
Phương thức lãnh đạo công tác dân vận của các cấp uỷ Đảng chưa đổi mới
kịp thời với tình hình quần chúng và cơng tác vận động quần chúng trong giai
đoạn hiện nay; chưa phát huy hết sức mạnh của hệ thống chính trị.
Một số vấn đề bức xúc của nhân dân tại các địa phương, cơ sở chưa được
giải quyết hoặc giải quyết chưa kịp thời, chưa thấu tình đạt lý, việc thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở cịn nhiều hạn chế.
Cơng tác nắm bắt tư tưởng, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân chưa

kịp thời; công tác tổ chức học tập các chỉ thị, nghị quyết còn nhiều hạn chế.


7

Từng lúc, từng nơi vẫn còn một bộ phân cán bộ đảng viên và cấp uỷ nhận
thức chưa đầy đủ về công tác dân vận, xa rời nhân dân, trong xử lý cơng việc
liên quan đến dân cịn gây bức xúc phiền hà đến nhân dân.
Tình trạng đơn khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp kéo dài của người dân trên
địa bàn tỉnh còn xảy ra.
Để tạo đồng thuận, thống nhất trong nhân dân, phát huy tiềm năng góp
phần phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh của Tỉnh là vấn đề cần
phải thực hiện thường xuyên tăng cường công tác dân vận, củng cố mối quan hệ
Đảng với nhân dân.
Thực tế thì đã có nhiều cơng trình nghiên cứu ở nước ta liên quan đến cơng
tác dân vận như:
Luận án tiến sỹ “Tư tưởng Hồ chí Minh về cơng tác dân vận và ý nghĩa của
nó đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc” của Phạm Huy Hoàng, Học viện
khoa học xã hội, năm 2015.
Luận văn thạc sỹ “Công tác dân vận của Đảng bộ huyện Từ Liêm, thành
phố Hà Nội từ năm 2000 đến năm 2012” của Nguyễn Văn Khánh, Học viện báo
chí và tuyên truyền, Hà Nội 2015.
Luận văn thạc sỹ “Đảng bộ quận 10 thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo thực
hiện công tác dân vận từ năm 2000 đến năm 2010” của Trần Phạm Hiền, trường
Đại học KHXH và nhân văn – Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh năm
2013.
Luận văn thạc sỹ “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần
chúng và vận chúng tư tưởng đó trong giai đoạn hiện nay” của Kiều Tơ Hoài,
Đại học khoa học xã hội và nhân văn- Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011.
Các cuốn sách được xuất bản có liên quan như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về

dân vận của TS. Đỗ Quang Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Khái
niệm, nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân vận
của PGS.TS Nguyễn Bá Linh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Phong


8

cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh của TS. Thanh Tuyền, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005; Cán bộ dân vận thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, của
TS. Trịnh Xuân Giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tác phẩm dân vận
của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi toả sáng, soi đường cho cơng tác dân vận
của Đảng trong thời kỳ mới của TS. Nguyễn Văn Hùng, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2005,…
Các cơng trình nghiên cứu đã tập trung nghiên cứu về cơng tác dân vận,
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong thời đại mới; nâng
cao hiệu quả công tác dân vận tại một số địa phương, trong các cơng trình trên
có đề cập đến vai trò của đội ngũ cán bộ dân vận đối với cơng tác dân vận của
Đảng. Tuy nhiên, chưa có bất kỳ một nghiên cứu nào đề cập một cách có hệ
thống đến sự lãnh đạo của tỉnh uỷ về công tác dân vận, đặc biệt là đối với tỉnh
Đồng Tháp. Vì vậy địi hỏi cấp thiết cần có nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ
thống và khoa học về sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Đồng Tháp về công tác dân vận
trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, với mong muốn được đóng góp phần
kiến thức của mình vào việc tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ về công tác dân
vận trong giai đoạn hiện nay, tạo mối quan hệ niềm tin của đảng đối với nhân
dân, vì vậy mà tơi lựa chọn đề tài “Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Đồng Tháp về công
tác dân vận trong giai đoạn hiện nay” để làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu.
Tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Đồng Tháp về công tác dân vận.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân
vận làm cơ sở cho việc nghiên cứu thực tiễn công tác dân vận của tỉnh Đồng
Tháp.


9

Khảo sát, phân tích, đánh giá đúng thực trạng cơng tác lãnh đạo của Tỉnh
uỷ Đồng Tháp về công tác dân vận nhiệm kỳ 2010 - 2015, chỉ rõ nguyên nhân
của thực trạng và những kinh nghiệm từ thực tiễn.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nghiên cứu khảo sát, đề xuất một số giải
pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ về công tác dân vận trên địa bàn
tỉnh Đồng Tháp từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là sự
lãnh đạo của Tỉnh uỷ về công tác dân vận; tập trung nghiên cứu nội dung,
phương thức lãnh đạo về công tác dân vận của tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn
hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ
Đồng Tháp đối với Công tác dân vận từ năm 2010 - 2015, quan điểm và giải
pháp của đề tài có giá trị đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công
tác vận động quần chúng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lê nin và Tưởng Hồ Chí Minh vào nghiên cứu đề tài.
Phương pháp nghiên cứu lý luận: thu thập và phân tích các tài liệu có liên
quan để xây dựng cơ sở lý luận cho nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra xã hội học;
phương pháp đàm thoại; phương pháp tổng kết thực tiễn; thống kê, phân tích so
sánh.
6. Đóng góp khoa học của đề tài.
Góp phần hệ thống lại quan điểm, chủ trương của Đảng cộng sản Việt
Nam, của Tỉnh uỷ Đồng Tháp về cơng tác dân vận. Góp phần phân tích rõ quá


10

trình chỉ đạo thực hiện cơng tác dân vận của Tỉnh uỷ Đồng Tháp nhiệm kỳ
2010-2015, qua đó đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác lãnh
đạo Tỉnh uỷ Đồng Tháp về công tác dân vận trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn: Luận văn gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội
dung, phần kết luận. (phụ lục, tài liệu tham khảo).


11

NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN.
1.1. Quan điểm của C.Mác và Ăngghen, V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chi
Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân vận.
1.1.1. Quan điểm của C.Mác và Ăngghen - Lênin về công tác dân vận.
1.1.1.1. Quan điểm của C.Mác và Ăngghen.
Có thể khẳng định từ thế kỷ XVII trở lại đây trên thế giới các cuộc cách
mạng xã hội muốn giành được thắng lợi khơng thể do một nhóm người hay một
các nhân có thể thực hiện được, mà địi hỏi phải do chính đảng có lý luận luận
tiên phong lãnh đạo trong đó chính đảng đó cần phải biết thuyết phục, giáo dục

và vận động đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, nhưng để quần chúng
nhân dân có thể một lịng đi theo chính đảng, cùng chính đảng thực hiện thành
cơng sự nghiệp cách mạng thì họ cần phải thấy được quyền lợi của mình khi
tham gia. Theo quan điểm của C.Mác : “ tất cả những cái gì mà con người đấu
tranh giành lấy đều phải dính liền với lợi ích của họ”[36, tr.408].
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập đến vấn đề chính quyền cách mạng của
giai cấp vơ sản làm công tác vận động quần chúng nhưng chưa nhiều và chưa cụ
thể, vì các ơng chỉ chứng kiến sự ra đời và tồn tại của Công xã Paris trong một
thời gian ngắn là 72 ngày. Tuy nhiên, những tư tưởng chung, tổng quát của C.
Mác và Ăngghen về vai trị của quần chúng nhân dân và về cơng tác vận động
quần chúng, trong đó có những tư tưởng liên quan đến vấn đề chính quyền với
cơng tác dân vận, vẫn là những tư tưởng rất khoa học, phù hợp với lịch sử và
ngày nay và được các Đảng Cộng sản học tập và nghiên cứu.
Theo C.Mác và Ăngghen, chính quyền của giai cấp vô sản rất cần thiết phải
tiến hành cơng tác vận động quần chúng vì:


12

Thứ nhất, cách mạng vô sản muốn bảo đảm thắng lợi lâu dài cần phải tranh
thủ lực lượng và khả năng to lớn của quần chúng nhân dân. C.Mác- Ăngghen
đánh giá cao vai trò, lực lượng và khả năng của giai cấp bị áp bức trong xã hội
có đối kháng giai cấp. Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C.Mác chỉ ra
rằng: “Một giai cấp bị áp bức là điều kiện sống còn của một xã hội dựa trên sự
đối kháng giai cấp”[33, tr.307]. Giai cấp đó là lực lượng sản xuất lớn nhất trong
tất cả các lực lượng sản xuất của xã hội; có bản chất cách mạng “là một khối
đông đảo quần chúng cách mạng đang làm cách mạng; là “những yếu tố vật
chất” không thể thiếu của một cuộc cách mạng toàn diện. Trong tác phẩm “Hệ
tư tưởng Đức” các ông khẳng định: “Nếu không có những yếu tố vật chất ấy của
một cuộc cách mạng toàn diện - những yếu tố bao gồm một mặt là những lực

lượng sản xuất hiện có và mặt khác là sự hình thành một khối đơng đảo quần
chúng cách mạng đang làm cách mạng không những chống lại những điều kiện
riêng biệt của xã hội cũ, mà chống lại bản thân “sự sản xuất ra đời sống” trước
đây, chống lại “toàn bộ hoạt động” làm cơ sở cho xã hội cũ đó, thì như lịch sử
của chủ nghĩa cộng sản đã chứng tỏ, ý niệm về cuộc cách mạng đó có được phát
biểu hàng trăm lần đi nữa, cũng hồn tồn chẳng có ý nghĩa gì đối với sự phát
triển thực tế cả.
Thứ hai,quần chúng cần phải được tuyên truyền, giáo dục để hiểu rõ mục
đích lý tưởng, trách nhiệm của mình. Các ơng giải thích rằng, cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, nhưng chính bản thân quần chúng cũng có những hạn
chế về nhận thức: “Ở nơi nào mà vấn đề đặt ra là phải cải tạo hồn tồn tổ chức
của xã hội, thì bản thân quần chúng phải tự mình tham gia vào cơng cuộc cải tạo
ấy, phải tự mình hiểu rõ đó là vấn đề gì, vì sao mình phải tham gia vào cơng
cuộc cải tạo ấy, với cả thể xác lẫn sinh mệnh của mình. Đó là điều mà lịch sử
trong 50 năm gần đây đã dạy cho chúng ta. Nhưng muốn cho quần chúng hiểu rõ
là phải làm gì thì cần phải tiến hành một công tác lâu dài và kiên nhẫn” [35,
tr.617]. Ăngghen còn nhận xét rằng, ngay cả ở Pari, sau thắng lợi, chính những


13

quần chúng vơ sản cũng cịn tuyệt đối chưa có một ý niệm gì rõ ràng về con
đường phải theo. Do đó, cơng tác giáo dục, vận động quần chúng vẫn phải được
tiếp tục.
Thứ ba,cần phải thường xuyên tiến hành cơng tác vận động quần chúng vì
lợi ích thực sự của chính quần chúng. Quần chúng đơng đảo là những người
hăng hái nhiệt tình, cách mạng, nhưng cách mạng là một q trình lâu dài, gian
khổ, khó khăn và có những lúc tạm thời thất bại, khiến cho quần chúng nhiều
khi mệt mỏi, thậm chí thất vọng. Trong Lời mở đầu cho tác phẩm của
C.Mác đấu tranh giai cấp ở Pháp 1884-1850, Ăngghen khẳng định: “Thật thế,

tinh thần cách mạng ấy của quần chúng hầu như luôn luôn và thường rất nhanh
chóng nhường chỗ cho sự mệt mỏi hay thậm chí cho sự chuyển sang một hướng
trái ngược lại khi mà ảo tưởng đã bị tiêu tan và niềm thất vọng đã nảy sinh.
Nhưng vấn đề ở đây không phải là những bề ngoài giả dối mà trái lại là sự thực
hiện những lợi ích đặc biệt nhất của chính đại đa số quần chúng, những lợi ích
tuy lúc bấy giờ chưa được đại đa số quần chúng đó nhận rõ, nhưng do mặt
thuyết phục của tính hiển nhiên của chúng ta nên chẳng bao lâu sẽ được quần
chúng thấy khá rõ, trong quá trình thực hiện thực tế”[35, tr.603]. Mác-Ăngghen
xác định đối tượng và mục đích cơng tác tun truyền vận động quần chúng:
“không phải là lôi kéo đây đó những cá nhân hay nhóm hội viên riêng biệt khỏi
phe đối lập mà là phải hoạt động trong quần chúng đông đảo chưa tham gia
phong trào” [34, tr.575].
Theo C.Mác và Ăngghen, đảng và chính quyền của giai cấp vơ sản cần phải
tiến hành cơng tác dân vận vì: Quần chúng nhân dân có khả năng và lực lượng
to lớn, mà cách mạng vô sản muốn bảo đảm thắng lợi lâu dài cần phải tranh thủ;
Cách mạnh là sự nghiệp của quần chúng, nhưng chính bản thân quần chúng
cũng có những nhận thức, cần phải được tuyên truyền, giáo dục để hiểu rõ mục
đích, lý tưởng và trách nhiệm của mình; Quần chúng đơng đảo là những người
hăng hái nhiệt tình cách mạng, nhưng cách mạng là một quá trình lâu dài, gian


14

khổ, khó khăn và có những lúc tạm thời thất bại, khiến quần chúng nhiều hồi
nghi, thất vọng. Vì vậy, cần phải thường xuyên tiến hành công tác vận động
quần chúng vì lợi ích thực sự của quần chúng.
Thật vậy trong dân vận việc nêu gương, biểu dương những mô hình hay từ
thực tiễn có tác dụng cổ vũ động viên rất lớn, làm công tác vận động quần chúng
nhân dân khơng được dùng mệnh lệnh, áp đặt ý chí cần phải biết lắng nghe kinh
nghiệm trong dân, bàn bạc cùng nhân dân thực hiện nhiệm vụ.

Quần chúng nhân dân có sức mạnh vơ địch tuy nhiên muốn nhân dân phát
huy được sức mạnh đó thì họ cần phải đồn kết lại. Mác và Ăngghen đã từng
kêu gọi “ vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”, nhờ đoàn kết mà giai cấp công
nhân đã giành được thắng lợi. Người tiếp tục khẳng định “… chúng ta hãy nhớ
một ngun tắc cơ bản của thế giới đó chính là sự đoàn kết…”[37, tr.609]
1.1.1.2. Theo quan điểm của V.I.Lênin.
Lênin là người tổ chức và lãnh đạo cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười 1917 ở Nga thành công, và là người đứng đầu chính quyền Xơ viết
trong 6 năm cho đến khi Người từ trần vào đầu năm 1924. Lý luận của
V.I.Lênin về vấn đề chính quyền (khơng tách rời vấn đề đảng cầm quyền) làm
công tác vận động quần chúng, so với lý luận của C Mác và Ăngghen, đã có sự
mở rộng, phát triển và cụ thể hơn.
Lênin chỉ rõ, liên minh cơng nơng có vai trị hết sức quan trọng để tập hợp
đa số dân cư, “bảo đảm cho chính quyền một sự ủng hộ vững chắc”. Và điều
kiện để xây dựng được chế độ xã hội chủ nghĩa là “khi quần chúng đông đảo
gấp 10, gấp 100 lần trước tự bắt tay vào việc xây dựng nhà nước và một đời
sống kinh tế mới”.[28, tr.523]
V.I. Lênin cho rằng, Đảng lãnh đạo và chính quyền cần giáo dục, tuyên
truyền để thu hút quần chúng một cách tồn diện những tầng lớp rộng rãi nhất
dù trình độ của họ như thế nào để họ tham gia vào tất cả các công việc hoạt động
xã hội, tự giác và cách mạng: “Nhất thiết phải công tác ở bất cứ nơi nào có quần


15

chúng. Phải biết tự nguyện chịu mọi sự hy sinh, vượt những trở ngại lớn nhất để
tiến hành một công tác tuyên truyền và cổ động có hệ thống, bền bỉ, dẻo dai và
nhẫn nại, chính ngay trong các cơ quan, các hội, các tổ chức - thậm chí phản
động nhất - nghĩa là bất cứ ở nơi nào có quần chúng vơ sản hay nửa vơ sản”[29
,tr.47].

V.I.Lênin cịn đề cập đến vấn đề giáo dục, tuyên truyền đối với quần chúng
lao động quốc tế để cùng nhau đấu tranh thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa:
“Phải làm chi học thuyết cộng sản chân chính dành cho những người cộng sản ở
các nước tiên tiến hơn, dịch ra tiếng nói của mỗi dân tộc; phải hồn thành những
nhiệm vụ thực tế cần hoàn thành tức khắc và phải liên hiệp với vô sản ở tất cả
các nước để cùng nhau đấu tranh… Nên mở đường đi vào quần chúng lao động
và bị bóc lột của các nước, và nói làm sao cho họ hiểu được rằng mối hy vọng
duy nhất của họ muốn được giải phóng, là thắng lợi của cách mạng thế giới,
rằng giai cấp vô sản quốc tế là người bạn đồng minh duy nhất của hàng trăm
triệu người lao động và bị bóc lột thuộc các dân tộc phương Đông”[27,
tr.373,374].
Lênin cho rằng, cách thức tuyên truyền, vận động quần chúng là phải biết
chỉ dẫn và giải thích cụ thể cho quần chúng biết rõ những khó khăn, phải dồn hết
tinh thần nghị lực vượt qua để thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể. Đó cũng chính là
ngun nhân thắng lợi của Đảng và chính quyền Xơ viết: “Nguyên nhân những
thắng lợi của chúng ta là ở chỗ Đảng ta và chính quyền Xơ viết đã trực tiếp chỉ
ra cho quần chúng lao động thấy hết mọi khó khăn trước mắt và nhiệm vụ trước
mắt; đã biết giải thích cho quần chúng hiểu vì sao lúc này phải dồn hết sức cố
gắng vào mặt này, lúc khác lại phải dồn hết sức cố gắng vào mặt kia của công
tác Xô viết; đã biết phát huy nghị lực, tinh thần anh dũng và nhiệt tình của quần
chúng, tập trung sức cố gắng cách mạng cao độ vào nhiệm vụ trước mắt, quan
trọng nhất”[27, tr.346]. Lênin rất coi trọng phương pháp thuyết phục, giáo dục
và nêu gương đối với quần chúng nhân dân, Người đề ra nhiệm vụ hàng đầu đối


16

với Đảng cộng sản là phải “thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng
đắn của cương lĩnh và sách lược của mình”, ơng khuyến khích mở rộng dân chủ
công khai làm cho người dân biết được công việc của đảng của nhà nước, ông

luôn biết lắng nghe và trân trọng ý kiến của người dân coi đó là người thông tin,
kinh nghiệm cự kỳ quý báu để hình thành chính sách.
Lênin đã nhiều lần chỉ ra nguy cơ xa rời quần chúng đối với một đảng cầm
quyền và chính quyền cách mạng. Người cho rằng nếu Đảng và chính quyền Xơ
viết qn mất và tự cắt đứt những mối liên hệ khăng khít với quần chúng thì đó
chính là một trong những nguy hiểm lớn nhất, đáng sợ nhất và sẽ là một tai họa
thực sự. Vì vậy, theo Lênin, để bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng đi đến thắng
lợi hoàn toàn, Đảng Cộng sản và chính quyền cách mạng khơng được xa rời
quần chúng mà thường xuyên phải:
Liên hệ với quần chúng
Sống trong lòng quần chúng
Biết tâm trạng quần chúng
Biết tất cả
Hiểu quần chúng
Biết đến với quần chúng
Giành được lòng tin tuyệt đối từ quần chúng” [26, tr.608].
Quan điểm này Lê Nin còn nhận định “ những lý tưởng cao cả nhất cũng
không đáng một xu nhỏ, chừng nào người ta không biết kết hợp chặt chẽ những
lý tưởng đó với lợi ích của chính ngay những người đang tham gia cuộc đấu
tranh kinh tế, chừng nào người ta không biết kết hợp những lý tưởng đó với
những vấn đề chật hẹp và nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày của giai cấp ấy
như vấn đề trả công lao động một cách công bằng”. Phát huy quan điểm này Lê
Nin đã luôn khẳng định và đánh giá cao việc động viên và phát huy mọi lực
lượng của quần chúng nhân dân, người cảnh báo “ những ai chỉ trông vào bàn


17

tay của những người cộng sản để xây dựng xã hội cộng sản là những kẻ có tư
tưởng hết sức ngây thơ” [25, tr.406].

Từ thực tế đời sống và yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, của công tác vận
động quần chúng, Lênin đã chỉ ra phương châm làm công tác vận động quần
chúng một cách có hiệu quả là: “Phải sống sâu vào đời sống công nhân, phải biết
tường tận đời sống công nhân, biết xác định một cách chắc chắn bất cứ trong
vấn đề nào, trong lúc nào, tâm trạng của quần chúng, những nhu cầu, những ý
nghĩ thật sự của họ, biết nhận định được rõ mà khơng mảy may lý tưởng hóa
trình độ giác ngộ của họ và sức mạnh ảnh hưởng của những thiên kiến hay của
những tàn dư nào của quá khứ, biết chiếm được lịng tin cậy vơ bờ bến của quần
chúng bằng một thái độ hữu ái đối với họ, bằng cách quan tâm thỏa mãn nhu cầu
của họ”[30, tr.426].
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận
Từ những quan điểm của Lênin chúng ta thấy được quan điểm của Bác
trong công tác vận động quần chúng là không để xót một người dân nào vì mỗi
người dân, mỗi tầng lớp xã hội đều giữ một vai trò quan trọng trong công cuộc
cách mạng người làm dân vận khéo là phải biết vận động tất cả quần chúng nhân
dân cùng tham gia các phong trào cách mạng cũng giống như bàn tay của chúng
ta mỗi ngon tuy dài, ngắn khác nhau nhưng đều có những cơng năng nhất định.
Thấm nhuần truyền thống văn hóa, truyền thống yêu nước, tư tưởng “Nước lấy
dân làm gốc” của cha ông ta trong lịch sử, sau này trên con đường đi tìm đường
cứu nước, cứu dân, tiếp thu quan điểm mácxít về vai trị của quần chúng nhân
dân trong cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền của giai cấp vơ sản và qua
thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao
vai trị của cơng tác dân vận, xem đó như là một trong những nhân tố quyết định
dẫn đến thành, bại mục tiêu, nhiệm vụ công việc của cách mạng.
Trong bài báo “Dân vận” viết ngày 15-10-1949 đăng trên báo “Sự thật”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi


18


một người dân khơng để sót một người dân nào, góp thành lực lượng tồn dân,
để thực hành những cơng việc nên làm, những cơng việc Chính phủ và Đồn thể
đã giao cho” [40, tr.698].
Theo định nghĩa trên, đối tượng của công tác dân vận là nhân dân, mục tiêu
của công tác dân vận là mục tiêu chung của Cách mạng. Cơng tác dân vận là
cơng việc của tồn bộ hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành
tập hợp vận động, đoàn kết nhân dân, đưa các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phịng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận xã hội,
thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng của Đảng.
Xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa mac - lê nin, tình hình thực tiễn của đất
nước chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về công tác dân vận tuy chỉ có
vài dịng nhưng đầy đủ, trong đó thể hiện rõ quan điểm của người, thể hiện rõ sự
phù hợp trong giải pháp làm công tác dân vận tại việt nam lúc bấy giờ và vẫn
còn phù hợp với điều kiện đất nước chúng ta hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa, phát triển những tinh hoa của
triết học phương Tây, triết học phương Đông cũng như những tư tưởng tiến bộ
của ông cha ta về nhân dân, đưa ra những quan điểm rất độc đáo gồm mấy điểm
chính sau đây:
Muốn giành thắng lợi, Đảng phải dựa vào dân, tôn trọng dân,
quý dân.
Bác viết: “Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới
khơng có gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của tồn dân”. Người ln căn dặn
cán bộ đảng viên phải tin tưởng nhân dân, phải biết dựa vào nhân dân vì “dễ
trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. “Nước phải lấy
dân làm gốc… Gốc có vững thì cây mới bền… Dân chúng đồng lịng, việc gì
cũng làm được. Dân chúng khơng ủng hộ, việc gì làm cũng khơng nên” [41,
tr.276,277].



19

Đảng phải tổ chức quần chúng để biến hành động của họ từ tự phát
thành tự giác.
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Bác Hồ chỉ ra rằng: “Trước hết phải
có Đảng cách mạng” và công việc của Đảng là “Trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngồi thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản mọi
nơi”.
Đánh giá nguyên nhân thành công của Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải sự nghiệp của cá
nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát
huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân” [40, tr379,3781].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ thế nào là Dân vận.
Ngay sau khi giành được chính quyền, ngày 15/10/1949, Bác Hồ đã viết bài
báo “Dân vận” đăng trên báo Sự thật. Bác đã chỉ rõ vị trí, tầm quan trọng của
cơng tác dân vận, giải thích dân vận là gì, ai có trách nhiệm làm dân vận và
phương pháp làm dân vận như thế nào.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của
mỗi một người dân khơng để sót một người dân nào, góp thành lực lượng tồn
dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc của Chính phủ,
đồn thể giao cho”.
Từ định nghĩa trên ta thấy:
Đối tượng công tác dân vận là nhân dân.
Mục tiêu công tác dân vận là mục tiêu chung của cách mạng.
Trước khi thành lập Đảng, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã xác định rõ mục tiêu: “Kách mệnh rồi thì
quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới
khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”[38, tr.270].
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã lãnh đạo tồn dân kháng chiến và kiến quốc. Người nêu rõ: “Chính



20

phủ ta đã hứa với dân, sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc”. Mục
tiêu cao cả của cách mạng trở thành tuyên ngôn của Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”.
Nội dung cơ bản của công tác dân vận là vận động nhân dân, tổ chức lực
lượng nhân dân, đoàn kết toàn dân để thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng,
những việc nên làm.
Lực lượng làm công tác dân vận phải là “Tất cả cán bộ chính quyền, cán bộ
đồn thể và tất cả các hội viên của các đoàn thể nhân dân (Liên Việt, Việt
Minh…) đều phải phụ trách dân vận”.
Điều này càng làm rõ hơn luận điểm: Công tác dân vận khơng chỉ của Mặt
trận, các đồn thể nhân dân mà chính quyền, cán bộ chính quyền cũng phải làm
cơng tác dân vận.
Từ đó đến nay, cơng tác dân vận đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, song
đối chiếu với lời dạy của Bác Hồ thì cơng tác dân vận của chúng ta cũng cịn
nhiều thiếu sót, nhiều lúc, nhiều nơi chưa cụ thể hoá, vận động đến từng người
dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trị của công tác dân vận.
Xuất phát từ cơ sở nhận thức khoa học: Cách mạng là sự nghiệp của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là đoàn
kết tập hợp được lực lượng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu một mệnh đề
như là một chân lý: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân
vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng”. Người
cịn nói: “Khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban
hoặc vài người, mà thường cử cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, vận

khơng được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom giúp đỡ, tự cho
mình khơng có trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại” [40, tr.700].


21

Phương thức làm công tác dân vận.
“Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu,
truyền đơn, chỉ thị mà đủ”.
Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu
rằng: “Việc đó là lợi ích cho họ, là nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho
kỳ được”.
Điểm thứ hai là, “bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, cùng với dân đặt
kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên tổ chức toàn
dân ra thi hành”.
Điểm thứ ba là, trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đơn đốc, khuyến
khích dân.
Điểm thứ tư là, khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại cơng
việc, rút kinh nghiệm phê bình khen thưởng”.
Quy trình và phương thức dân vận nêu trên chính là tiền đề của phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” mà Đảng ta khái quát sau này.
Về phong cách của cán bộ làm công tác dân vận.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong cách của người làm dân vận là phải:
“Ĩc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
Bác chỉ rõ 3 việc: tuyên truyền cho dân, gương mẫu trước dân, quan tâm và
giải quyết lợi ích của dân.
Tư tưởng của Bác cịn được nhấn mạnh:
Phải gần gũi quần chúng, kiên trì giải thích cho quần chúng hiểu rõ chủ
trương chính sách. Người còn chỉ rõ: “Muốn thực sự gần gũi quần chúng thì
phải cùng ăn cùng ở cùng làm mới biết sinh hoạt của quần chúng thế nào”.

Cán bộ đảng viên phải tự mình làm gương cho quần chúng: “Một tấm
gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
“Cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện tuyên truyền, khẩu hiệu viết báo...
của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép: Từ quần chúng mà ra, về sâu


22

quần chúng”. Cách tổ chức và làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải
có gan đề nghị với cấp trên bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng,
quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, ta phải đề nghị cấp trên mà đặt ra. Nếu cần thì
cứ đặt ra, rồi báo cáo sau miễn là được việc”.
Mục đích của cách mạng tước hết là vì quyền lợi của nhân dân “Việc gì có
lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh”.
Dân chủ, đồn kết là tư tưởng xuyên suốt trong công tác dân vận.
Người nói: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”; “Thực hành dân
chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”.
Về đồn kết, Người nói: “Cách mệnh thì phải đồn kết dân chúng bị áp bức
để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ 5,7 người giết
2,3 anh vua, 9, 10 anh quan mà được”. Người kêu gọi:“Đoàn kết, đồn kết, đại
đồn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”.
Tư tưởng đồn kết của người thể hiện rất rõ ràng: Đồn kết góp thành lực
lượng. Đồn kết trong tổ chức trong phong trào cách mạng của quần chúng,
ngay trong khi thực hiện một khẩu hiệu cách mạng. Muốn vận động nhân dân,
thì điều cơ bản đầu tiên là phải dân chủ, vì vậy, mở đầu bài báo “Dân vận”, Bác
viết:
Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Cơng việc đổi mới là trách nhiệm của dân

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là cơng việc của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra
Đồn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành lực lượng đều ở nơi dân.
1.1.3. Quan điểm Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân vận.


23

Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của một dân tộc anh hùng, đoàn kết,
bền bỉ và kiên cường trong đấu tranh dựng nước và giữ nước đầy gian nan,
quyết liệt và hào hùng, đã hun đúc nên sức mạnh và truyền thống yêu nước; đó
là sức mạnh của lịng dân, của đại đồn kết tồn dân tộc. Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Vì vậy, nghiên cứu, vận dụng
sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cơng tác quần chúng của chính
quyền trong bối cảnh hiện nay là một vấn đề cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc cho việc thực hành công tác dân vận.
Từ khi thành lập đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi công tác dân
vận có ý nghĩa chiến lược đối với tồn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều
kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Công tác dân vận là trách nhiệm của
tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, cơng
chức, viên chức, đồn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ
trong lực lượng vũ trang.
Mối quan hệ giữa Đảng và dân là mối quan hệ máu thịt, quan hệ thuộc bản
chất; Dân vận được xem là công việc cốt tử của Đảng. Do đó, ngay từ khi
thành lập Đảng và trong suốt q trình cách mạng, Đảng ta ln coi trọng,
quan tâm công tác này. Điều này được thể hiện rõ qua việc Đảng đã ban hành
nhiều quyết sách về công tác dân vận ngày càng phù hợp với thực tiễn, đáp ứng

nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân. Trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong các cuộc đấu tranh giành độc lập, thống
nhất Tổ quốc, nội dung cốt lõi của công tác dân vận đã được Đảng ta vận dụng
trung thành và sáng tạo, đưa cách mạng nước ta đến ngày thắng lợi.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(tháng 12-1986) - Đại hội lịch sử của đổi mới đất nước đã tổng kết thực tiễn 10
năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN (1976 - 1986), tổng kết hoạt động của


24

Đảng nhiệm kỳ khóa V. Điều đặc biệt nhất là Đại hội đã rút ra 4 bài học kinh
nghiệm sâu sắc, trong đó, bài học đầu tiên là “trong tồn bộ hoạt động của
mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng: “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Đại hội khẳng định “Đảng ta khơng có
mục đích nào khác là đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân. Quần chúng là
người làm nên lịch sử”. Đại hội cho rằng: “Bài học lớn rút ra từ những năm
qua là trong điều kiện Đảng cầm quyền phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên
hệ giữa Đảng và nhân dân; tiến hành thường xuyên cuộc đấu tranh ngăn ngừa
và khắc phục chủ nghĩa quan liêu. Mỗi đảng viên cộng sản phải thật sự vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Mọi chủ
trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả
năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của
quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của
nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng”.
Một dấu mốc lịch sử quan trọng, Hội nghị Trung ương 8 khóa VI họp từ
ngày 12 đến 27-3-1990 đã ra nghị quyết 8B/TW (khóa VI) về “đổi mới cơng
tác quần chúng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Nghị quyết
đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng về cơng tác vận động quần chúng trong thời
kỳ mới. Có thể nói, đây là Nghị quyết chuyên đề đầu tiên về công tác dân vận,

nêu lên bốn quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác vận động quần chúng của Đảng
là:
Một là, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân;
Hai là, động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết
thực của nhân dân và kết hợp hài hịa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa
vụ công dân;
Ba là, các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng;


×