Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện vĩnh hưng, tỉnh long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.28 KB, 90 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRƯƠNG HẢI ĐĂNG

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH LONG AN
Chuyên ngành: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Đinh Thế Định

Long An, 2016


2

LỜI CẢM ƠN
-------Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến: Ban Lãnh đạo nhà trường,
Phòng Đào tạo Sau đại học, Khoa Giáo dục Chính trị trường Đại học Vinh, Đại
học kinh tế Công nghiệp Long An đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi được
học tập, rèn luyện.
Xin chân thành cảm ơn các nhà giáo, các nhà khoa học đã nhiệt tình giảng
dạy, giúp đỡ chúng tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt,
PGS. TS Đinh Thế Định - người hướng dẫn khoa học đã tận tình, quan tâm
định hướng, hỗ trợ tơi trong suốt q trình hồn thành Luận văn tốt nghiệp.
Chân thành cảm ơn Lãnh đạo Ban Tổ chức Tỉnh ủy Long An, Ban


Thường vụ Huyện ủy Vĩnh Hưng, Uỷ ban nhân dân huyện, Phịng Nội vụ,
Phịng Tài chính – Kế hoạch, Chi cục Thống kê Vĩnh Hưng, tỉnh Long An đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập cũng như cung cấp số liệu và
tư vấn khoa học cho tơi trong q trình thực hiện đề tài.
Mặc dù bản thân đã nỗ lực cố gắng, nhưng với điều kiện thực tiễn huyện
Vĩnh Hưng tỉnh Long An và một số kinh nghiệm của bản thân, Luận văn khơng
thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ
của các thầy, cơ giáo và bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp.
Trân trọng kính chào!
Tân An, ngày 17-19 tháng 6 năm 2016
Tác giả luận văn

Trương Hải Đăng


3

MỤC LỤC

Trang

A

MỞ ĐẦU

5

B

NỘI DUNG


12

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ

12

1.1

Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở

12

1.2

Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở

18

Kết luận chương 1

32

THỰC TRẠNG VÀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ
Chương 2

CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH


33

LONG AN
2.1
2.2

2.3

Đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội huyện Vĩnh Hưng
Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của huyện Vĩnh
Hưng, tỉnh Long An.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện
Vĩnh Hưng, tỉnh Long An
Kết luận chương 2

33
46

51
63

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY
Chương 3

DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở
HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH LONG AN TRONG GIAI

64


ĐOẠN HIỆN NAY
3.1

Phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở,
huyện Vĩnh Hưng

64

Những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
3.2

chốt cấp cơ sở ở huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An trong giai

69

đoạn hiện nay
Kết luận chương 3

83

C

KẾT LUẬN

84

D

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


86


4

BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

TT

Nội dung

1

CB

Cán bộ

2

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

3

CNXH

Chủ nghĩa xã hội


4

HĐND

Hội đồng nhân dân

5

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

6

UBND

Ủy ban nhân dân

7

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


5

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng

tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, Đảng lãnh đạo nhân dân đánh thắng các
cuộc chiến tranh xâm lược, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới đã
giành được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa
xã hội và khoa học kỹ thuật. Uy tín và ảnh hưởng của Việt Nam ngày càng sâu
rộng trên trường quốc tế. Có được thành tựu ấy là cả một quá trình nỗ lực khơng
ngừng của tồn Đảng, tồn qn và dân ta, trong đó đội ngũ cán bộ nói chung và
cán bộ cấp cơ sở nói riêng là người lính tiên phong đúng như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của chính phủ
giải thích cho nhân dân hiểu và thi hành, đồng thời đem tình hình của của dân
chúng báo cáo cho Đảng, cho chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”. Vị
trí của cơng tác cán bộ gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta đã nhấn mạnh: "Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc", "công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém". Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong suốt 85 năm xây dựng và phát
triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi cán bộ và công tác cán bộ là những
nhân tố quyết định sự thành, bại của cách mạng. Mỗi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam đều đánh dấu những bước trưởng thành, tiến bộ của đội ngũ cán bộ
của Đảng ta. Vì thế, Đảng ta luôn chú trọng tới yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ
đồng bộ, toàn diện, đặc biệt là tập trung xây dựng và nâng cao năng chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt, coi đây là vấn đề mấu chốt, quyết định toàn bộ sự
nghiệp cách mạng.
Cán bộ chủ chốt của xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) đều có vai
trị rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn
kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng


6

phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Vì vậy,

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về đổi
mới và nâng cao chất lượng của Hệ thống Chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn
đã xác định: Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn là một trong
ba vấn đề cơ bản và bức xúc cần tập trung giải quyết, trong đó yêu cầu xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở có đủ năng lực để tổ chức vận động nhân dân
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
cơng tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, khơng tham nhũng,
khơng ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải
quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở.
Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ cấp xã đã có bước phát triển về
chất lượng. Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn bộc lộ những yếu kém, bất cập về kiến
thức, năng lực, trình độ trước những yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới. Vì vậy,
một số cán bộ gặp khó khăn, lúng túng, thậm chí va vấp, sai phạm trong việc thực
thi nhiệm vụ. Bên cạnh đó, trước tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, một bộ
phận cán bộ chủ chốt cấp xã có dấu hiệu suy thối về phẩm chất đạo đức lối sống,
quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi phạm dân chủ, tham nhũng, lãng phí... bị kỷ
luật. Từ đó đã làm ảnh hưởng khơng nhỏ đến uy tín và hiệu quả lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; đồng thời đặt ra đòi hỏi
bức thiết phải xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã.
Vĩnh Hưng là một trong năm huyện đồng tháp mười, cách trung tâm tỉnh
Long An trên 90 km nằm giữa hai huyện là Thị xã Kiến Tường và huyện Tân
Hưng, là huyện có truyền thống cách mạng, có nền kinh tế phát triển. Trong tình
hình hiện nay đã đặt ra hàng loạt các nhiệm vụ nặng nề, phức tạp về xây dựng và
quản lý cơng tác quy hoạch, quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ
sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, phát triển kinh tế, Văn hóa - xã hội, phòng
chống các tệ nạn xã hội, đảm bảo an ninh chính trị - trật tự an tồn xã hội...


7


Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ nêu trên, huyện Vĩnh Hưng phải có
một đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nói riêng vững
mạnh, có phẩm chất, năng lực, phương pháp, phong cách công tác tốt, nhạy
bén, năng động, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao trong gian đoạn hiện
nay. Là cán bộ hơn 5 năm làm việc trong ngành Tổ chức xây dựng Đảng, bản
thân luôn quán triệt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên lĩnh
vực xây dựng Đảng, trong đó có cơng tác tổ chức cán bộ. Để góp phần nhỏ bé
của mình vào sự nghiệp cách mạng của Đảng nhằm từng bước xây dựng đội
ngũ cán bộ ngày càng đi vào chiều sâu, nhất là đẩy mạnh công tác đánh giá,
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của huyện Vĩnh Hưng vững mạnh. Trên
cơ sở đó, chúng tơi mạnh dạng chọn vấn đề: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An" làm đề tài luận văn Thạc sĩ, chuyên
ngành Chính trị học với mong muốn góp phần vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An ngày càng lớn mạnh, đồng
thời thực hiện tốt chiến lược cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa
VIII của Đảng đối với cả nước nói chung và huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An trong
giai đoạn tới.
Vấn đề cán bộ nói chung, cán bộ chủ chốt nói riêng là nội dung được
nhiều nhà lãnh đạo, các cấp ủy đảng và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Trong các bài viết đã được đăng trên các tạp chí, các đề tài, cơng trình nghiên
cứu, các luận văn, luận án đã công bố, liên quan đến các vấn đề cán bộ; nhiều
cơng trình, bài viết đã có những đóng góp, những lý giải, những kiến nghị hết
sức sâu sắc, có giá trị thực tiễn cao như sau:
Trong các đề tài và bài viết liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đáng chú ý
là các cơng trình: “Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo
chính trị chủ chốt cấp cở sở” của Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội, 1992; Đề
tài: khoa học cấp nhà nước “xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo,
quản lý trong hệ thống chính trị đổi mới”, thuộc chương trình KX-O5 do



8

PGS.TS Trần Xuân Sầm chủ nhiệm, (1999); Luận cứ khoa học cho việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.PGS.TS Nguyễn Phú
Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm đồng chủ biên. Các cơng trình này đã đi sâu
phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về mẫu hình người cán bộ, lãnh đạo,
những yêu cầu mới và những giải pháp mang tính tổng quát nhằm xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt cấp cơ sở trong thời kỳ Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một số luận án tiến sĩ có liên quan đến đề tài: “Xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”,
Luận án tiến sĩ (2000) của Phạm Cơng Khâm, (bảo vệ tại Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh); “Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt của đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay” (1994), Luận án tiến
sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội của Hồ Bá Thâm.
Nhìn chung các luận án đề cập có liên quan đến đề tài đang nghiên cứu là
“đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở”. Tác giả sử dụng các luận án như là những
tài liệu của các luận án trên nghiên cứu một cách có hệ thống.
Một số luận án thạc sĩ có liên quan đến vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã: “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp
xã ở huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay”, Luận văn
thạc sĩ (2005) của Trần Trung Trực, (bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh; “ Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Cần Giờ, thành
phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” (2001), Luận văn thạc sĩ, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, của Đoàn Tất Hoài;
“Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở xã Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai giai đoạn
hiện nay” (2005), Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Chuyên ngành
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Đào Văn Hội; “Xây dựng đội ngũ cán

bộ chủ chốt của hệ thống chính trị các xã ở tỉnh Đồng Nai trong giai đạon hiện


9

nay”, (2004), Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, của Vũ Thị Nghĩa.Luận văn thạc sỹ Chính trị học; “Nâng
cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã trong hệ thống chính
trị cơ sở ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh” của tác giả Hà Văn Bình, 2014;
Luận văn thạc sỹ Chính trị học: “Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở huyện Cần
Đước, tỉnh Long An đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” của tác giả Nguyễn Việt Cường, 2015; Luận văn thạc sỹ Chính trị học:
“Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh
đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế” của tác giả Hoàng Văn Quảng, 2015 …
Trong các cơng trình nêu trên phần lớn đề cập đến đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở nhiều địa phương khác nhau, thời gian nghiên cứu và phương
pháp nghiên cứu cũng hồn tồn khác nhau. Dưới góc độ khoa học, các cơng
trình trên có giá trị hết sức to lớn đối với những người đã và đang nghiên cứu về
chất lượng cán bộ đặc biệt là việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có
cơng trình khoa học nào nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở ở huyện Vĩnh Hưng, Tỉnh Long An.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện
Vĩnh Hưng, tỉnh Long An có chất lượng về mọi mặt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu và luận chứng nhằm làm rõ hơn cơ sở lý luận về Xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.

- Khảo sát để làm rõ thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện
Vĩnh Hưng, tỉnh Long An.


10

- Phương hướng và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của Hệ thống chính trị cấp xã ở
huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt và xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An.
Khảo sát từ năm 2010 đến 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu từ góc nhìn chính trị học, dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; các phương pháp phân
tích tổng hợp; phương pháp lịch sử và lơgíc kết hợp phương pháp điều tra xã hội
học đặt biệt là xem trọng phương pháp đặc thù của Chính trị học.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa học, quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước ta về cán bộ; công tác cán
bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
- Đề ra phương hướng và những giải pháp khả thi nhằm góp phần xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An
trong giai đoạn hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho

các cấp ủy đảng trong tỉnh thực hiện tốt công tác cán bộ cơ sở hiện nay. Luận
văn cịn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và
học tập ngành Chính trị học trong cả nước.


11

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.


12

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ
1.1. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
- Khái niệm cán bộ:
Những năm qua khái niệm cán bộ đã xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta
và gần đây để chỉ một lớp người là chiến sĩ cách mạng, lớp người mới, sẵn sàng
chịu dựng gian khổ, có những người đã hy sinh, gắn bó mật thiết với nhân dân,
phục vụ nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp cao cả giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Mỹ khái niệm cán bộ được dùng
nhiều trông quân đội để phân biệt giữa người chiến sĩ với cán bộ. Từ đó, cán bộ
dùng để chỉ những người làm nhiệm vụ chỉ huy từ cấp tiểu đội trở lên. Dần về sau
từ cán bộ được dùng để chỉ những người hoạt động trong kháng chiến thoát ly, để

phân biệt với nhân dân. Một thời gian khái niệm cán bộ gần như được xem là từ
cơng chức, vì thường trong xã hội cũ hình ảnh cán bộ bị coi là xấu: “sáng vác ô đi,
tối vác ô về”
Cho đến nay, khái niệm cán bộ đã được dùng với rất nhiều nghĩa khác nhau:
- Trong tổ chức đảng và đoàn thể, khái niệm cán bộ được dùng với hai
nghĩa: thứ nhất là, để chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ
cơ sở đến Trung ương (gọi chung cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên
thường, đoàn viên, hội viên; thứ hai là, những người làm công tác chuyên trách có
hưỡng lương từ ngân sách nhà nước.
- Trong quân đội là người chỉ huy từ tiểu đội trở lên (gọi chung là cán bộ
tiểu đội, cán bộ trung đoàn …) và là sĩ quan từ cấp úy trở lên.


13

- Trong hệ thống nhà nước, khái niệm cán bộ được hiểu là công chức, chỉ
những người làm việc trong cơ quan nhà nước thuộc về đơn vị hành chính, tư pháp,
kinh tế, văn hóa và xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng được hiểu là những người có
chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó phịng, vụ, cục,…).
Ngày 13 tháng 11, tại kỳ hợp thứ tư Quốc hội khóa XII đã thơng qua Luật
cán bộ, cơng chức, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Tại khoản 1 điều 4
đã quy định: “cán bộ là công dân Việt nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Công sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh
(gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách của nhà
nước” [24, tr.84]. Theo đó, Luật cán bộ, cơng chức chính thức có hiệu lực từ ngày
01/01/2010 là căn cứ pháp lý quan trọng nhất để hiểu đúng bản chất, ý nghĩa của
khái niệm “cán bộ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát, giản dị và

dễ hiểu. Theo Người: “Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình dân chúng
báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” [32,
tr.269].
Như vậy, dù có nhiều cách hiểu khác nhau về nghĩa của khái niệm cán bộ
trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể xét về cơ bản chúng ta có thể hiểu
chung nhất như sau: “cán bộ” là khái niệm dùng để chỉ những người có chức vụ,
vai trị với cương vị nịng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến
hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều
hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức” [47, tr.17-18].
- Khái niệm cán bộ chủ chốt:
Trong đội ngũ cán bộ, có một bộ phận được gọi là cán bộ chủ chốt. Đó là
những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong tập thể, có


14

quyền ra những quyết định, có trách nhiệm và quyền điều hành một tập thể, một
đơn vị hay một tổ chức cơ sở để thực hiện những nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ
chức ấy, thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt toàn toàn bộ các hoạt động của một tổ
chức nhất định. Đây được xem là lực lượng nòng cốt trong đội ngũ cán bộ, là
nhân tố quan trọng nhất và có sự ảnh hưởng đến tồn bộ hoạt động của cả hệ
thống chính trị.
Khi chúng ta xác định cán bộ chủ chốt cần phải đặt cán bộ trong một tổ
chức nhất định, dựa vào các chức danh cụ thể của mỗi cán bộ và đặt trong mối
quan hệ với toàn bộ hệ thống tổ chức.
Nhiều cán bộ ở cương vị này, trong tổ chức này là cán bộ chủ chốt nhưng
trong mối quan hệ khác, vị trí khác lại khơng phải là cán bộ chủ chốt. Có thể ví
vụ như, Bí thư Đảng ủy xã là cán bộ chủ chốt của xã nhưng không là cán bộ chủ
chốt của huyện, mặc dù đó có thể là Huyện ủy viên…

Do vậy, từ những nội dung liên hệ như đã nêu trên, có thể xem "cán bộ
chủ chốt" là người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có tác dụng làm
nịng cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất định; người
được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành
bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp
trên và cấp mình về lĩnh vực cơng tác được giao.
Đối với cán bộ cấp xã được quy định tại Khoản 3 Điều 4 của Luật cán bộ,
công chức: “cán bộ xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức
chính trị - xã hội” [24, tr.2].
Theo quan niệm trên, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã (hay cấp cơ sở)
hiện nay bao gồm các chức danh sau: Bí thư Đảng ủy, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ
tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó chủ tịch Hội đồng nhân
dân, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân.


15

1.1.1.2. Đặc điểm của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
- Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phần lớn trưởng thành trong thực tiễn
cách mạng ở cơ sở. Do đó, họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước và con đường đi lên CNXH; am
hiểu và nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
nhiệt tình, tâm huyết với cơng việc, có kinh nghiệm cơng tác, khả năng thuyết
phục, vận động quần chúng tốt, được nhân dân tín nhiệm. Các cán bộ trẻ được
đào tạo cơ bản, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, năng động, nhạy
bén, tiếp cận với cái mới nhanh; được các thế hệ cán bộ đi trước hướng dẫn,
giúp đỡ nên họ trưởng thành nhanh chóng, trở thành nguồn cán bộ lãnh đạo cao
hơn ở địa phương hoặc cung cấp cán bộ cho huyện, tỉnh và Trung ương.

- Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở thực sự là cầu nối giữa Đảng, nhà
nước với quần chúng nhân dân, phải là người mang chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước giải thích cho dân hiểu và tổ chức cho dân thực hiện. Đồng
thời, phải phản ánh đầy đủ tâm tư, nguyện vọng, ý kiến của dân cho Đảng, nhà
nước. Trên cơ sở đó giúp Đảng, Nhà nước điều chỉnh, sửa đổi đưa ra đường lối
chính sách cho phù hợp.
- Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở vừa là người đứng ra tổ chức triển
khai các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong hoạt
động thực tiễn, đồng thời phải vạch ra các phương hướng, kế hoạch phát triển cụ
thể, phù hợp với đặc thù của địa phương. Bên cạnh việc vạch ra định hướng và
tổ chức hoạt động thực tiễn ở địa phương, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở
phải gánh vác trách nhiệm nặng nề hơn, đó là phải đảm bảo đời sống vật chất,
tinh thần cho hàng vạn, hàng triệu con người.
- Với nhiều chủ trương mới, thuận lợi cho công tác luân chuyển cán bộ
giữa các xã, phường với nhau hoặc giữa xã, phường với huyện. Cán bộ chủ
chốt Đảng, chính quyền cấp cơ sở là cán bộ, công chức nên thuận lợi trong


16

việc thực hiện chính sách cán bộ theo qui định của Nhà nước, tạo sự yên tâm,
gắn bó của họ với địa phương.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác cán bộ
1.1.2.1.Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác cán bộ
Do một số đặt điểm thời bấy giờ, hệ tư tưởng và lý luận của phong trào
vơ sản và cơng nhân chưa được hồn chỉnh nên trong q trình phát triển phong
trào vơ sản, C.Mác và Ph.Ănghen tập trung làm rõ những nguyên tắc cơ bản về
tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản, những tiêu chuẩn của người đảng viên
và đưa ra những tư tưởng có giá trị về xây đựng và rèn luyện đội ngũ cán bộ,

đảng viên. C.Mác và Ph.Ănghen nhấn mạnh: “Muốn thực hiện tốt những tư
tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [29, tr.580].
Trong quá trình thành lập và chỉ đạo các tổ chức cộng sản, C.Mác đánh
giá cao vai trò của người lãnh đạo, tổ chức quần chúng thực hiện lý tưởng cơng
sản; đó chính là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của phong trào. C.Mác và
Ph.Ănghen cho rằng: về mặt thực tiễn, những người cộng sản là những người
kiên quyết nhất trong tất cả các lực lượng tham gia phong trào vô sản là bộ phận
cổ vũ tất cả các bộ phận khác. Về lý luận, họ hơn bộ phận cịn lại của giai cấp vơ
sản ở chỗ: Họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong
trào vơ sản.
Sau này, trong q trình phân tích các hoạt động kinh tế - xã hội, C.Mác
và Ph.Ănghen Mác - Ănghen chỉ ra vai trò quan trọng của người đứng đầu,
những người lãnh đạo, quản lý các tổ chức kinh tế - xã hội. C.Mác chỉ rõ “Tất cả
mọi hoạt động của xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy
mô lớn, thì ít nhiều củng cần đến một sự lãnh đạo, chỉ đạo để điều hịa những
hoạt đơng của cá nhân”.
Như vậy, khi đi sâu vào nghiên cứu bản chất, quy luật của sự vận động xã
hội, kinh tế, đặt biệt là lĩnh vực chính trị, C.Mác và Ph.Ănghen đã giải quyết


17

một cách khoa học mối quan hệ giữa vai trò cá nhân lãnh tụ và vai trò của quần
chúng nhân dân trong các thời điểm lịch sử.
Là người sáng lập học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân,
V.I.Lênin đã chỉ rõ: trong lịch sử chưa hề có giai cấp nào giành được quyền
thống trị, nếu nó khơng đào tạo được hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiên phong có khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào. Khi
Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền, V.I.Lênin khẳng định: “Nghiên cứu
con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh hiện nay đó là then chốt; nếu khơng thế

thì tất cả mệnh lệnh và quyết định sẽ là mớ giấy lộn” [27, tr.449].
Có thể khái quát rằng, V.I.Lênin đã đặt ra và hoàn chỉnh nhiều nội dung
cơ bản nhất về công tác cán bộ: vấn đề đánh giá cán bộ, đào tạo cán bộ, quản lý,
sử dụng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng.
1.1.2.2.Tư Tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, đã
thấy rõ vai trò của cán bộ và công tác cán bộ, đối với công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước. Trong tác phẩm (sửa đổi lối làm việc viết năm 1947) theo
Bác Hồ “cán bộ, là những người đem chính sách của Đảng của Chính phủ giải
thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng
báo cáo cho Đảng, cho chính phủ để đặt chính sách cho đúng” [36, tr.269].
Cán bộ có thể chia làm hai loại: cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý. Xét về
cơ bản cán bộ lãnh đạo là chỉ những người đứng đầu trong một tổ chức, một cơ
quan, một đơn vị, một địa phương, một ngành, do bầu cử hoặc chỉ định.
Cán bộ quản lý là người mà hoạt động nghề nghiệp của họ hoàn toàn hay
chủ yếu gắn với việc thực hiện chức năng quản lý, điều hành và hướng dẫn tổ
chức thực hiện. Ở nước ta Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “cán bộ là cái
gốc của mọi công việc” [32, tr.269], “Công việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém” [33, tr.269-273].


18

1.1.2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác cán bộ
Công tác cán bộ của Đảng là một mắt khâu rất quan trọng trong tồn bộ
cơng tác xây dựng Đảng, vấn đề đã được nêu lên thành quan điểm mà Đảng ta
trình bày tại Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa X, đó là: “cán
bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong
công tác xây dựng Đảng. Phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ,
đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” [20,

tr.271]. Khâu đột phá trong mắt khâu then chốt đó chính là xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt các cấp.
Trong bất cứ thời kỳ nào của cách mạng Việt Nam, cán bộ ln là vấn đề
trọng yếu, giữ vị trí đặt biệt quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng và là
thành công của sự nghiệp cách mạng. Ngày nay, chúng ta đang ra sức đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tích cực, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế trên nhiều mặt, hợp tác với nhiều quốc gia trên nhiều lĩnh vực nhằm
tranh thủ vốn, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý tiên tiến đưa đất nước phát
triển theo con đường XHCN. Trước mắt yêu cầu đổi mới toàn diện cùng với xu
hướng hội nhập đó, vai trị cán bộ, trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
1.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
1.2.1. Các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
- Về tư tưởng chính trị:
Tư tưởng chính trị là tiêu chí quan trọng nhất, quyết định đến năng lực
quản lý nhà nước của cán bộ. Tư tưởng chính trị là động lực tinh thần thúc đẩy
cán bộ các cấp vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao hay nói cách
khác là hồn thành nhiệm vụ với hiệu quả cao nhất. Tư tưởng chính trị cũng
chính là yêu cầu cơ bản nhất đối với người cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Cách mạng tiến lên mãi, Đảng tiến lên mãi.
Cho nên người cách mạng cũng phải tiến lên mãi” [37, tr.292]. Vì vậy, mỗi cán
bộ đảng viên của Đảng phải cố gắng học tập lý luận Mác - Lênin. Bởi, “có học


19

tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập
trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt cơng tác
Đảng giao phó cho mình”. Tuy nhiên, đó là “học tập cái tinh thần xử trí mọi
việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ
biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh

thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn” [37, tr.292],
chứ không phải là học thuộc lòng một số sách vở về chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Đặc biệt, học để trang sức, học không vận dụng vào công việc cách mạng là một
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Người khẳng định công cuộc xây dựng CNXH
ở miền Bắc, làm cơ sở vững mạnh cho công cuộc thống nhất nước nhà, là một
nhiệm vụ cực kỳ vẻ vang, song cũng đầy gian nan, trắc trở, vì vậy để bảo đảm
cho sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, “tất cả đảng viên, đoàn viên, tất cả
cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng cần phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng,
phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người cách mạng, đó là đạo đức
cách mạng” [37, tr.293].
Tư tưởng chính trị địi hỏi người cán bộ phải thấm nhuần chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, có tinh thần cương quyết đấu tranh chống lại các
hiện tượng lệch lạc, những biểu hiện mơ hồ, sai trái đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước và các hành vi xâm phạm quyền lợi
chính đáng của nhân dân.
Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có tư tưởng chính trị tốt là người tích
cực tun truyền, vận động gia đình, bà con nhân dân thực hiện tốt đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Là người ln
ln trăn trở băn khoăn và tìm cách tháo gỡ những khó khăn ở cơ sở, từng
bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Người có tư tưởng
chính trị tốt là người một lòng phục vụ Nhà nước, phục vụ nhân dân.


20

Tư tưởng chính trị của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở được biểu hiện trước hết là
sự tin tưởng tuyệt đối đối với lý tưởng cách mạng, kiên định với mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH, đó là con đường mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn, kiên quyết
đấu tranh bảo vệ quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước,
khơng dao động trước những khó khăn thử thách. Đồng thời phải có biện pháp để

đường lối đó đi vào thực tiễn cuộc sống của nhân dân địa phương.
Tư tưởng chính trị của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn biểu hiện
thông qua thái độ phục vụ nhân dân, tinh thần gương mẫu trong công tác, tinh
thần trách nhiệm đối với đời sống của đồng bào nhân dân tại địa phương. Người
cán bộ có tư tưởng chính trị tốt phải là người ln lo lắng trước những khó khăn
ở địa phương; phải có quyết tâm đưa địa phương, cơ sở nơi mình cơng tác ngày
càng phát triển về mọi mặt, thực hiện công bằng, dân chủ, văn minh.
- Về phẩm chất đạo đức:
Đạo đức là hết sức cần thiết cho tất cả mọi người, và đặc biệt cần thiết cho
người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy "Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang"
[37, tr.283]. Người đòi hỏi cán bộ phải giữ được đạo đức cách mạng, đó mới là
người cán bộ chân chính. Chỉ khi có đầy đủ đạo đức cách mạng thì cán bộ mới có
đủ điều kiện làm cách mạng. "Muốn giải phóng dân tộc, giải phóng cho lồi người
là một cơng việc to tát, mà tự mình khơng có đạo đức, khơng căn bản, tự mình đã
hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì" [37, tr.253].
Đạo đức cách mạng là nền tảng, là gốc, là sức mạnh của người cán bộ,
cơng chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: "Cũng như sơng thì có nguồn, mới
có nước, khơng có nguồn thì cạn; cây phải có gốc khơng có gốc thì cây héo;
người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì có dù tài giỏi mấy cũng
khơng lãnh đạo được nhân dân " [37, tr.252-253]. Sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hồn
thành được nhiệm vụ cách mạng.


21

Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh trước sau cơ bản là nhất quán: Trung
với nước, hiếu với dân, người cán bộ phải là đầy tớ của nhân dân, dũng cảm hy
sinh, khơng sợ khó khăn, gian khổ, gạt bỏ lợi ích cá nhân để phục tùng lợi ích

tập thể, khiêm tốn học hỏi, không tự cao, tự đại, cần kiệm liêm chính và tinh
thần đồn kết hữu nghị. Nội dung đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh được thể hiện một cách dễ hiểu, thiết thực nhưng cũng đầy đủ và tồn
diện. Tiêu chí đạo đức người cán bộ cách mạng được Hồ Chí Minh chỉ ra hết
sức cụ thể, đó là nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm; mỗi người cán bộ phải hội đủ các
phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Người cán bộ có đạo đức cách mạng là người phải tích cực đấu tranh
chống lại các tiêu cực của xã hội như: Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tha hố,
sa sút về đạo đức lối sống chạy theo địa vị danh lợi, tranh giành kèm cựa lẫn
nhau mất đoàn kết nội bộ, dối trá, lười biếng, suy thối về tư tưởng chính trị,
phai nhạt lý tưởng cách mạng...
Người cán bộ cấp cơ sở muốn được dân tin yêu thì phải thường xuyên rèn
luyện tu dưỡng đạo đức trong mọi lúc, mọi nơi như Bác Hồ đã từng khuyên
"Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong" [37, tr.293].
Người cán bộ phải ln có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần tập thể,
khiêm tốn, giản dị, trung thực, khơng cơ hội, có nếp sống văn minh, nêu gương
cho quần chúng. Tạo được lòng tin từ phía nhân dân, thuyết phục được nhân dân
tin vào sự lãnh đạo của Đảng, trung thành với sự nghiệp cách mạng.
Người cán bộ muốn xác lập được uy tín của mình trước nhân dân, trước
hết phải là người cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt. Xây dựng các tiêu chuẩn đạo
đức của người cán bộ, công chức và hình thành ở họ các phẩm chất đạo đức
tương ứng với vị trí, vai trị, chức năng nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ là việc làm
cần thiết và cấp bách, nhất là trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay.


22

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang có sự chuyển biến nhanh chóng và

xã hội xuất hiện nhiều vấn đề hết sức phức tạp, trong đó phải kể đến trình độ dân
trí ngày một nâng cao và sự đòi hỏi của xã hội đối với đội ngũ cán bộ cũng ngày
một cao hơn. Nên công tác quản lý xã hội cũng đòi hỏi người cán bộ phải tạo lập
cho mình một uy tín nhất định đối với nhân dân.
Việc nâng cao phẩm chất đạo đức ở người cán bộ, cơng chức đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Nhất là sau khi cách mạng thành cơng,
ngồi việc lãnh đạo, quản lý đất nước, trước những khó khăn phải chống thù
trong, giặc ngồi, Bác vẫn chăm lo việc giáo dục đạo đức cho người cán bộ,
cơng chức trong các cơ quan chính quyền nhà nước non trẻ. Người đã xác định:
“cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy
thì động cơ dù tốt, dù chạy, tồn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người
đem chính sách của Chính phủ, của Đồn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán
bộ dở thì chính sách hay cũng khơng thể thực hiện được” [32, tr.54-55]. Người
cán bộ tốt ở đây phải là người có đủ cả năng lực trình độ lẫn đạo đức cách mạng.
Bác yêu cầu: “Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù có tài
giỏi đến mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân” [32, tr.35- 36]. Và muốn có
đạo đức cách mạng, mỗi người cán bộ - theo Bác phải có được các phẩm chất
trí, tín, nhân, dũng, liêm. Người căn dặn cán bộ: “Muốn hướng dẫn nhân dân,
mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước...” [32, tr.552]; “tự mình phải
chính trước, mới giúp người khác chính, mình khơng chính mà muốn người
khác chính là vơ lý". “Nếu chính mình tham ơ bảo người ta liêm khiết có được
khơng? Khơng được. Mình trước hết phải siêng năng, trong sạch thì mới bảo
người ta trong sạch, siêng năng được” [34, tr.59].
- Về trình độ năng lực:
Trình độ năng lực đầu tiên mà Hồ Chí Minh địi hỏi ở người cán bộ cách
mạng là năng lực lãnh đạo, quản lý, là khả năng tổ chức động viên quần chúng
thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà


23


nước. Vì cán bộ chính là cầu nối, là người đem chính sách của Đảng, của Chính
phủ đến với nhân dân, nên địi hỏi cán bộ phải có trình độ, năng lực này, nếu
khơng thì khơng xứng đáng là cán bộ cách mạng. Và để tuyên truyền thực hiện
tốt được đường lối của Đảng và Nhà nước trong quần chúng, địi hỏi cán bộ phải
có năng lực thực hành dân chủ, nghĩa là phải có mối liên hệ mật thiết với quần
chúng, tin ở quần chúng và học hỏi ở chính quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, trình độ, năng lực tổ chức thực hành của người cán
bộ thể hiện ở những điểm là: quyết định vấn đề một cách cho đúng, tổ chức thi
hành cho đúng và tổ chức kiểm soát cho đúng. Để quyết định vấn đề một cách
cho đúng cần phải có trình độ, năng lực, trí tuệ, nắm được thông tin và xử lý
thông tin, đưa ra phương án để lựa chọn, quyết định.
Trình độ học vấn: không phải là yếu tố duy nhất quyết định hiệu quả hoạt
động của cán bộ cơ sở nhưng đây là tiêu chí quan trọng ảnh hưởng đến hoạt
động quản lý trong đội ngũ này. Nó là nền tảng cho việc nhận thức, tiếp thu
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; là tiền đề
tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật vào trong cuộc
sống. Hạn chế về trình độ học vấn sẽ hạn chế về khả năng nhận thức và năng lực
tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, các quy định của pháp luật, cản trở
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cán bộ cấp cơ sở. Do đó, trình độ học
vấn là tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực quản lý nhà nước của cán bộ cấp
cơ sở.
Trình độ chun mơn nghiệp vụ: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ được
hiểu là những kiến thức chuyên sâu về một lĩnh vực nhất định được biểu hiện
qua những cấp độ: Sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học. Đây là những kiến thức
mà cán bộ cấp cơ sở không được thiếu khi giải quyết công việc của mình. Nếu
thiếu kiến thức này thì cán bộ sẽ lúng túng trong việc giải quyết cơng việc, chắc
chắn sẽ khó hồn thành cơng việc, hiệu quả quản lý nhà nước sẽ thấp.



24

Trình độ lý luận chính trị: Lý luận chính trị là cơ sở xác định quan điểm,
lập trường giai cấp cơng nhân của cán bộ nói chung và cán bộ cấp cơ sở nói
riêng. Thực tế cho thấy nếu cán bộ có lập trường chính trị vững vàng, hoạt động
vì mục tiêu, lý tưởng cách mạng thì sẽ được nhân dân kính trọng, tin yêu và họ
sẽ vận động được nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Ngược lại, nếu cán bộ nào lập
trường chính trị khơng vững vàng, hoạt động vì lợi ích cá nhân, thối hố, biến
chất sẽ đánh mất lịng tin ở nhân dân dẫn đến hiệu quả quản lý nhà nước thấp.
Vì vậy, để nâng cao năng lực quản lý nhà nước thì cần thiết phải nâng cao trình
độ lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở.
Trình độ quản lý nhà nước: quản lý nhà nước là hệ thống tri thức khoa
học về quản lý xã hội mang tính quyền lực Nhà nước. Đó là những kiến thức địi
hỏi các nhà quản lý phải có, để giải quyết các vụ việc cụ thể đặt ra trong quá
trình điều hành, quản lý. Quản lý vừa là hoạt động khoa học, vừa là hoạt động
nghệ thuật, cho nên yêu cầu các cán bộ phải am hiểu sâu sắc về kiến thức quản
lý và phải vận dụng linh hoạt các kiến thức đó vào giải quyết những vụ việc cụ
thể. Thực tế cho thấy trong quá trình quản lý chỉ dựa vào kinh nghiệm thôi chưa
đủ mà phải được trang bị đầy đủ kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước. Hiện
nay hạn chế lớn nhất của cán bộ cấp cơ sở là về trình độ quản lý nhà nước chưa
đáp ứng được yêu cầu, do vậy cần phải nâng cao năng lực quản lý nhà nước hơn
nữa, nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước cho cán bộ cấp
cơ sở.
Kỹ năng quản lý nhà nước: Nếu kỹ năng quản lý nhà nước trong cán bộ
cấp cơ sở khơng tốt thì giải quyết cơng việc rất tốn nhiều thời gian và hiệu quả
quản lý nhà nước thấp; nếu kỹ năng quản lý nhà nước của cán bộ cấp cơ sở tốt, thì
họ sẽ giải quyết cơng việc nhanh chóng và hiệu quả sẽ cao.
Phương pháp quản lý nhà nước: Phương pháp quản lý nhà nước của cán
bộ, công chức cấp cơ sở là cách thức mà cán bộ cấp cơ sở sử dụng để thực hiện



25

chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội ở cơ sở có hiệu quả cao. Nếu cán bộ cấp cơ sở có phương pháp quản lý nhà
nước tốt thì công việc được giải quyết khoa học, được nhân dân đồng tình ủng hộ,
hiệu quả quản lý nhà nước cao; ngược lại nếu cán bộ cấp cơ sở khơng có phương
pháp quản lý nhà nước tốt thì cơng việc bị trì truệ, thiếu hệ thống, làm phát sinh
mâu thuẫn trong nhân dân.
- Về khả năng hoàn thành nhiệm vụ: Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
vừa phù hợp với công cuộc đổi mới của đất nước, vừa thuận theo ý Đảng, lịng
dân, trẻ hóa đội ngũ cán bộ cơng chức cấp cơ sở là nhu cầu, là địi hỏi khách
quan của sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới. Đội ngũ cán bộ
không được tri thức hóa và chun mơn hóa thì khơng thể hồn thành nhiệm vụ.
Cán bộ có tư cách, tác phong tốt, phải tồn tâm, tồn ý phục vụ nhân dân, dám
nói thật, dám bảo vệ cái đúng, đấu tranh chống những tiêu cực, quan liêu, tham
nhũng trong đội ngũ cán bộ. Có mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp và quần
chúng nhân dân.
Yêu cầu đặt ra hiện nay là đội ngũ cán bộ cơng chức cấp cơ sở phải có
tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, phấn
đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước, tận tụy phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, xây dựng được
lòng tin trong nhân dân. Cán bộ muốn làm được việc, thì phải được dân tin, dân
phục, dân yêu. Cán bộ công chức cấp cơ sở cần phải có trình độ học vấn, phải có
kiến thức quản lý nhà nước, phải qua đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước; phải trong sạch, không tham nhũng, không hối lộ, chiếm đoạt của công;
phải tôn trọng nhân dân, thông cảm với nhân dân, phải biết dựa vào nhân dân,
phục vụ nhân dân, gần gũi với nhân dân. Mọi hoạt động của cán bộ cơng chức
cấp cơ sở có ảnh hưởng và tác động rất lớn đến đời sống của nhân dân địa

phương.


×