Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn quận 3, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 93 trang )

1

LỜI CÁM ƠN
Khơng có sự thành cơng nào mà khơng gắn liền với những sự hỗ trợ,
giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của những người xung
quanh. Để hoàn thành bài luận văn này, em xin kính gửi lời cảm ơn chân
thành và sự tri ân sâu sắc đến thầy PGS.TS Trần Viết Quang – người đã tạo
mọi điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành luận văn này. Xin chân thành cám
ơn thầy, cô khoa Chính trị học – Trường Đại học Vinh đã tận tụy truyền đạt
những tri thức bổ ích, giúp em có thêm nhiều kiến thức để hồn thành luận
văn.
Xin kính gửi lời cám ơn đến Phòng Lao động thương binh và xã hội
Quận 3, Ủy ban nhân dân phường Bến Thành quận 1, Ủy ban nhân dân các
phường trên địa bàn Quận 3, công an phường 5 quận 3, gia đình và bạn bè đã
hỗ trợ, giúp đỡ trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Trong quá trình thực hiện luận văn khơng thể tránh khỏi những thiếu
sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô. Em xin trân thành
cám ơn.
Ngày 30 tháng 05 năm 2016
Học viên

Phạm Thanh Hà


2

MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT

4


DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU

5

MỞ ĐẦU

6

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP ĐỐI TƯỢNG
BẢO TRỢ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm cơ bản

11

1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện chính sách trợ giúp đối
tượng bảo trợ xã hội.

19

1.3. Những yêu cầu cơ bản của thực hiện chính sách trợ giúp đối tượng
bảo trợ xã hội.

26

1.4. Tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách trợ giúp đối tượng bảo
trợ xã hội.

35

Tiểu kết chương 1


42

Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BẢO TRỢ XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái quát về Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh

43

2.2. Tình hình thực thi chính sách bảo trợ xã hội đối với người cao tuổi ở
Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh những năm qua

52

Tiểu kết chương 2

60

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ XÃ HỘI ĐỐI


3

VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
3.1. Quan điểm thực hiện chính sách bảo trợ xã hội đối với người cao tuổi
trên địa bàn Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh


62

3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo trợ xã hội
đối với người cao tuổi trên địa bàn Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.69
Tiểu kết chương 3

84

KẾT LUẬN

87

TÀI LIỆU THAM KHẢO

90


4

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1.

CNVC – LĐ : Công nhân viên chức – lao động

2.

Đoàn TNCS HCM: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

3.


Hội CCB: Hội Cựu chiến binh

4.

Hội PN: Hội Phụ nữ

5.

Hội CTĐ: Hội chữ thập đỏ

6.

Hội LHTN: Hội Liên hiệp thanh niên

7.

Hội NCT: Hội Người cao tuổi

8.

LĐTB và XH: Lao động thương bình và xã hội

9.

NCT: Người cao tuổi

10. NĐ – CP: Nghị định – Chính phủ
11. QĐ: quyết định
12. Q.3: Quận 3

13. TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh
14. TTBTXH: Trung tâm bảo trợ xã hội
15. UBMTTQ: Ủy ban mặt trận Tổ Quốc
16. UBND: Ủy ban nhân dân


5

DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
1. [2.1] Bảng thống kê diện tích, dân số và mật độ dân số của 14 phường
trên địa bàn Quận 3 năm 2015.
2. [2.2] Bảng thống kê đối tượng người cao tuổi lang thang trên địa bàn
Quận 3 từ năm 2011 – 2015.
3. [2.3] Bảng thống kê số người cao tuổi được hưởng trợ cấp xã hội tại
Quận 3 từ năm 2104 đến tháng 6 năm 2016.
4. [2.4] Bảng so sánh mức trợ cấp xã hội cho người cao tuổi của Nhà nước
qua các Nghị Định của chính phủ.
5. [2.5] Bảng phân loại đối tượng người cao tuổi ở Quận 3 được hưởng trợ
cấp xã hội hằng tháng.
6. [2.6] Bảng thống kê ngân sách Quận 3 chi cho Phòng LĐTB và XH.

7. [3.1] Bảng so sánh mức hưởng trợ cấp xã hội đối với người cao tuổi theo
Nghị định 136 của Chính phủ và ở Quận 3.


6

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới toàn

diện đất nước vào năm 1986, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, đem
lại những thành cơng rực rỡ trên con đường phát triển kinh tế - xã hội. Song
song đó, Thành phố Hồ Chí Minh cũng đang từng ngày từng giờ, chuyển biến
và hịa mình vào dịng phát triển chung của cả nước.
Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị đặc biệt , một trung tâm lớn về
kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, có sức thu hút và sức lan tỏa lớn của vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước. Đảng
bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ln ln phát huy
truyền thống cách mạng, kiên cường, phấn đấu bền bĩ, năng động, sáng tạo,
đồn kết, có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay.
Nền kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh là kinh tế “mở”, gắn kết với khu
vực và quốc tế. Do điều kiện địa lý lịch sử và giao lưu mà kinh tế Thành phố
phát triển trong sự quan hệ chặt chẽ với kinh tế của miền Đông Nam Bộ, miền
Tây Nam Bộ và Tây Nguyên, thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với kinh tế
quốc tế. Sự phát triển kinh tế Thành phố không chỉ là yêu cầu nội tại mà còn
giữ vai trò động lực, vai trò đầu tàu cho cả khu vực. Chính vì lý do đó, Thành
phố đã thu hút được nhiều nguồn lao động từ khắp mọi miền trên đất nước về
đây tham gia vào quá trình sản xuất và phát triển.
Quá trình phát triển và cơng nghiệp hóa của Thành phố kéo theo
nhiều mặt tích cực, cũng như tiêu cực, ví dụ như đứng trước sự gia tăng dân
số về mặt cơ học trong suốt thời gian qua Thành phố đã chưa có những chuẩn
bị cần thiết và đầy đủ để đón nhận hội nhập “những cư dân mới” này vào nhịp


7

sống của Thành phố, thế nên đã và đang tồn tại những lúng túng trong việc
giải quyết những vấn đề gắn liền với sự gia tăng dân số như ô nhiễm mơi
trường, tình trạng q tải trong việc sử dụng các dịch vụ công cộng cơ bản

như điện, nước, nhà ở, y tế, giáo dục…. cũng như những vấn nạn xã hội do
tình trạng cư trú bất hợp pháp của nhóm người này. Song song đó, TPHCM
cũng phải giải quyết rất nhiều vấn đề liên quan đến các đối tượng bảo trợ xã
hội sinh sống trên địa bàn, đảm bảo cho tất cả mọi người dân đều có một cuộc
sống và công việc ổn định, được hưởng đầy đủ các chính sách của nhà nước
đối với mình.
Già hóa dân số đang là một xu thế mang tính tồn cầu do giảm tỷ lệ
sinh, tăng tuổi thọ bình quân và trở thành một vấn đề xã hội có tác động rất
lớn tới tiến trình phát triển chung của tất cả các nước trên nhiều mặt: Chính
trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, nghệ thuật. Tháng 4/2002 Đại hội thế giới về
người cao tuổi do Liên Hiệp quốc tổ chức tại Madrid đã thơng qua Chương
trình hành động Quốc tế về người cao tuổi (2002 - 2010). Đây là một định
hướng quan trọng cho các hoạt động vì người cao tuổi trên tồn thế giới.
Chương trình hành động quốc tế về người cao tuổi (2002 - 2010) đã kêu gọi
các quốc gia cần thay đổi thái độ, chính sách, tập quán và nhận thức về người
cao tuổi trong thế kỷ 21. Từ đó, nhận thức đầy đủ về quyền tự do cơ bản của
người cao tuổi: gắn vấn đề người cao tuổi với các chương trình phát triển kinh
tế – xã hội và quyền con người. Trong Văn kiện Venna về già hóa dân số mà
Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua hơn 26 năm trước đây (1982) chưa
nhận thức được một thực tế rằng phần lớn người già sẽ sống ở các nước đang
phát triển chứ không phải là ngược lại. Tính tốn thống kê cho thấy số người
cao tuổi ở các nước đang phát triển sẽ tăng gấp đơi trong vịng 25 năm tới, đạt
850 triệu người vào năm 2025, chiếm 12% tổng dân số các nước này. Vào
năm 2050 tỷ lệ nói trên sẽ là 2%. Khác với sự già hóa đã và đang diễn ra


8

trong các nước phát triển, trong phần thế giới đang phát triển, dân số đang già
hóa với một tốc độ chưa từng thấy và phần lớn vẫn còn sống trong nghèo khổ.

Một thập kỷ trước, mọi ngành hàng còn chăm chăm vào cửa sổ dân
số vàng, dân số trẻ của Việt Nam. Năm 2005, tuổi trung bình của dân số Việt
Nam là 25,9. Một thập kỷ sau, năm 2015, tuổi trung bình đã là 30,5 và dự
đốn đến năm 2030 sẽ tăng lên 37,8. Theo Liên hiệp quốc, đến năm 2030,
Việt Nam là nước xếp hạng thứ 68 trong bảng xếp hạng dân số già trên thế
giới, dẫn đầu là Nhật. Với tỷ lệ gia tăng số người cao tuổi (65 tuổi trở lên) là
138% trong giai đoạn 2012-2030, tương đương với 7,5 triệu người, dự đoán
tổng số người cao tuổi Việt Nam năm 2030 là 13 triệu người, chiếm đến một
phần tám dân số. Chính vì thế, quan tâm chăm sóc sức khỏe của người cao
tuổi là một phần khơng thể thiếu trong các chính sách của Nhà nước, vấn đề
bảo trợ xã hội đối với người cao tuổi đã được đề cập trong Nghị định
136/2013/NĐ-CP về quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng
bảo trợ xã hội của chính phủ, luật người cao tuổi…
Các nghị quyết của Đảng, chính sách của nhà nước, các cơng trình
nghiên cứu của các tác giả đã đưa ra những quan điểm, định hướng và lý giải
từ nhiều phương diện khác nhau đối với vấn đề người cao tuổi. Nhưng chưa
có cơng trình nào đề cập trực tiếp đến chính sách bảo trợ xã hội đối với người
cao tuổi trên địa bàn Quận 3 của Thành phố Hồ Chí Minh.
Đứng trước thực trạng nêu trên, chúng ta cần phải có những giải pháp
thiết thực đối với người cao tuổi. Vì thế, người nghiên cứu đã quyết định chọn
đề tài “ Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ
xã hội trên địa bàn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh” với mục đích có thể
giúp người cao tuổi có một cuộc sống vui khỏe,
2. Mục đích nghiên cứu


9

Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất quan điểm và
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trợ giúp đối tượng bảo

trợ xã hội, cụ thể là người cao tuổi trên địa bàn Quận 3, thành phố Hồ Chí
Minh.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

 Làm rõ các vấn đề liên quan đến chính sách trợ giúp đối tượng bảo
trợ xã hội.

 Nghiên cứu thực trạng về đối tượng bảo trợ xã hội và việc thực hiện
các chính sách đối với đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn Quận 3, thành
phố Hồ Chí Minh.

 Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách đối với đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn Quận 3, thành phố Hồ
Chí Minh
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề về chính sách xã
hội, chính sách và thực thi chính sách đối với đối tượng bảo trợ xã hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Chính sách trợ giúp có nhiều nội dung và đối
tượng bảo trợ xã hội rất đa dạng. Nhưng luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề
chính sách bảo trợ xã hội đối với người cao tuổi trên địa bàn Quận 3, thành
phố Hồ Chí Minh
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận


10

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chính sách trợ
giúp đối tượng bảo trợ xã hội của Nhà nước đối với người cao tuổi trên địa

bàn Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận khoa học; phương pháp quan sát; phương
pháp điều tra thực tế; phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp so
sánh…
6. Đóng góp của luận văn
Qua luận văn này, người nghiên cứu mong muốn sẽ đưa ra một vài
giải pháp nhằm hỗ trợ tốt hơn cho người cao tuổi trên địa bàn Quận 3 nói
riêng và thành phố Hồ Chí Minh nói chung
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dụng gồm có 3 chương
và 8 tiết.


11

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH TRỢ GIÚP ĐỐI TƯỢNG BẢO
TRỢ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm chính sách, chính sách xã hội
Thuật ngữ “chính sách” được sử dụng phổ biến trên nhiều các kênh
thông tin đại chúng như báo, đài, tivi, mạng internet… Mọi chủ thể kinh tế xã hội đều có những chính sách của mình. Ví dụ như ta có chính sách của cá
nhân, chính sách của các doanh nghiệp, chính sách của một quốc gia, chính
sách của một tổ chức xã hội….
Theo quan niệm phổ biến, chính sách là phương thức hành động được
chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại.
Chính sách là căn cứ cho quá trình ra quyết định. Chúng vạch ra phạm vi, giới
hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở các nhà quản lý những quyết định
nào là có thể, những quyết định nào là khơng thể. Bằng cách nào đó, các

chính sách hướng suy nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ chức
vào việc thực hiện các mục tiêu chung của tổ chức.
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như
sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ.
Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực
cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc
vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”
Chính sách cịn có thể hiểu là những quy định, quyết định đã được Nhà
nước thể chế hóa nhằm điều chỉnh quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội của con
người để giải quyết những vấn đề đang đặt ra, thực hiện những mục tiêu đã


12

được xác định trước. Chính sách thường được thể hiện trong các quyết định,
quy định có tính pháp luật của Nhà nước.
Đặc trưng của chính sách đó là chính sách là những quy định, quyết
định của các cơ quan Nhà nước như: Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành,
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp. Chính sách điều chỉnh quan hệ
giữa con người, của các nhóm người. Để điều chỉnh các mối quan hệ khác
nhau, có các loại chính sách khác nhau. Ví dụ, điều chỉnh quan hệ kinh tế có
chính sách kinh tế, điều chỉnh quan hệ ngoại giao có chính sách về ngoại
giao… [18, tr.170]
Như vậy, chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo
hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm
quyền của mình
Ngồi ra, chúng ta cịn có thêm khái niệm về chính sách cơng là những
chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước
ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng được gọi là chính
sách cơng.

Chính sách xã hội là những chính sách điều tiết các mối quan hệ của xã
hội, làm cho xã hội phát triển theo hướng công bằng và văn minh. Nhà nước
ta rất coi trọng các chính sách xã hội, bởi vì xét cho cùng sự phát triển kinh tế
là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người.
Chính sách xã hội còn là những quy định, quyết định được thể chế hóa
bởi Nhà nước, trở thành cơng cụ để tác động vào những quan hệ xã hội nhằm
giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt ra, góp phần thực hiện bình đẳng,
cơng bằng, tiến bộ xã hội và phát triển tồn diện con người.
Đặc điểm của chính sách xã hội là loại chính sách nhằm điều chỉnh
quan hệ xã hội, giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt ra, thực hiện những
mục tiêu đã được xác định trước.


13

Chủ thể tham gia thực hiện chính sách xã hội là Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội, các đồn thể xã hội, các tổ chức phi chính phủ (NGO) và
các cá nhân làm từ thiện.
Khách thể của chính sách xã hội bao gồm: những người mất điều kiện
làm việc, mất điều kiện sống bình thường, người thuộc diện ưu đãi xã hội và
những điều kiện kinh tế - xã hội tạo nên sự bất cơng, bất bình đẳng xã hội cho
một hoặc một số nhóm xã hội nào đó.
Như vậy, chính sách xã hội là một loại chính sách nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội, giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt ra thực hiện cơng
bằng, bình đẳng cho mọi con người, nhất là những nhóm yếu thế. [18, tr.171]

1.1.2. Khái niệm bảo trợ xã hội
Giải quyết vấn đề xã hội, thực hiện chính sách xã hội là một trong
những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự ổn định, phát triển, tiến bộ, văn
minh của một chế độ xã hội. Khơng có một chế độ xã hội nào phát triển ổn

định, tiến bộ, văn minh mà lại để các vấn đề xã hội diễn ra khơng kiểm sốt
được. Ví dụ như vấn đề lao động, việc làm, thất nghiệp sẽ ảnh hưởng tới sự
ổn định chính trị, xã hội; gia tăng dân số, ô nhiễm môi trường, an ninh xã hội
kém; tỷ lệ nghèo đói cao sẽ ảnh hưởng khơng nhỏ đến sự ổn định của các thể
chế nhà nước và chế độ xã hội. Vì thế, một chế độ xã hội vững mạnh cần phải
quan tâm và giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt các chính sách cũng
như việc bảo trợ xã hội theo hướng tiến bộ.
Theo từ điển Tiếng Việt cụm từ “Bảo trợ” có nghĩa là giúp đỡ cho tổ
chức hoặc cá nhân có khó khăn về vật chất trong cuộc sống. Cịn cụm từ “Trợ
giúp” có nghĩa giúp đỡ về vật chất cho đỡ khó khăn, thiếu thốn. Hai thuật
ngữ “bảo trợ xã hội” và “trợ giúp xã hội” có nghĩa gần tương đồng nhau tuy
nhiên trong các văn bản, sách báo và giáo trình hiện nay phần lớn sử dụng


14

thuật ngữ “trợ giúp xã hội”. Các văn bản pháp luật về bảo trợ xã hội hiện hành
sử dụng cụm từ “trợ giúp xã hội thường xuyên” thay cho “bảo trợ xã hội
thường xuyên” hay “cứu tế xã hội thường xuyên”.
Bảo trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước, xã hội, cộng đồng bằng
những biện pháp và các hình thức khác nhau đối với các đối tượng bị lâm vào
cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói… vì nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến
không đủ khả năng tự lo liệu được cho cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia
đình, nhằm giúp họ tránh được mối đe dọa của cuộc sống thường nhật hoặc
giúp họ vượt qua những khó khăn, ổn định cuộc sống và hịa nhập cộng đồng.
Ngay từ khi ra đời cho đến nay, an sinh xã hội nói chung và bảo trợ xã
hội nói riêng đã được đón nhận như một sự đảm bảo cho cuộc sống và đặc
biệt có ý nghĩa đối với một bộ phận thành viên xã hội, bộ phận “người yếu
thế”. Là sự bảo vệ phổ cập và đồng nhất đối với mọi thành viên xã hội trên cơ
sở sự tương trợ cộng đồng, chia sẻ rủi ro, bảo trợ xã hội là hoạt động mang

đậm tính nhân đạo, có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và pháp luật.
1.1.3. Khái niệm về đối tượng bảo trợ xã hội
Đối tượng tham gia vào quan hệ bảo trợ xã hội bao gồm Nhà nước, các
đối tượng bảo trợ và các chủ thể khác nhau như tổ chức, cá nhân khác trong
hoạt động chung mang tính nhân đạo này. Đối tượng bảo trợ xã hội là mọi
người dân trong xã hội không phân biệt vị thế và thành phần xã hội khi gặp
phải khó khăn, thiếu thốn, lâm nạn, cơ nhỡ,… hoặc vì nhiều nguyên nhân
khác nhau dẫn đến cuộc sống hằng ngày hoặc lâu dài của họ bị đe dọa. Dưới
góc độ kinh tế thì đó là những thành viên có mức sống thấp hơn mức sống tối
thiểu của xã hội hoặc gặp khó khăn, rủi ro cần có sự nâng đỡ về vật chất.
Dưới góc độ xã hội thì họ thuộc nhóm người “yếu thế” trong xã hội, với
những nguyên nhân khác nhau mà bị bỏ rơi vào vị thế bất lợi, thiệt thịi, có ít


15

cơ may trong cuộc sống như người bình thường và không đủ khả năng tự lo
liệu, đảm bảo cho cuộc sống gia đình và bản thân. Ngồi ra, dưới góc độ nhân
đạo, đó có thể là những đối tượng như người lang thang xin ăn, người vô gia
cư,…
Nhà nước với tư cách là một chủ thể trong quan hệ bảo trợ xã hội, đã
xác định được nghĩa vụ của mình và mối quan hệ hợp tác giữa các cơ quan, tổ
chức, cá nhân, … trong hoạt động bảo trợ xã hội. Hoạt động bảo trợ xã hội,
ngoài trách nhiệm của Bộ Lao động thương binh và xã hội còn là trách nhiệm
của các bộ, ban ngành khác như Bộ y tế, Bộ Giáo dục, … và toàn thể các
thành viên xã hội.
Đối tượng bảo trợ xã hội được quy định cụ thể tại Nghị định
136/2013/NĐ-CP về quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng
bảo trợ xã hội của chính phủ, bao gồm sáu nhóm đối tượng được quy định tại
Điều 5 của nghị định. Đầu tiên là trẻ em dưới 16 tuổi khơng có nguồn ni

dưỡng thuộc một trong các trường hợp quy định sau đây như bị bỏ rơi chưa
có người nhận làm con ni; mồ côi cả cha và mẹ; mồ côi cha hoặc mẹ và
người cịn lại mất tích theo quy định của pháp luật; mồ cơi cha hoặc mẹ và
người cịn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, ni dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã
hội, nhà xã hội; mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang trong thời gian
chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi
phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai
nghiện bắt buộc; cả cha và mẹ mất tích theo quy định của pháp luật; cả cha
và mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, ni dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà
xã hội; cả cha và mẹ đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam
hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo
dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; cha hoặc mẹ mất
tích theo quy định của pháp luật và người cịn lại đang hưởng chế độ chăm


16

sóc, ni dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội; cha hoặc mẹ mất tích
theo quy định của pháp luật và người còn lại đang trong thời gian chấp hành
án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành
chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt
buộc; cha hoặc mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, ni dưỡng tại cơ sở bảo trợ
xã hội, nhà xã hội và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù
tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc. Thứ
hai là người từ 16 tuổi đến 22 tuổi thuộc một trong các trường hợp quy định
mà đang học phổ thông, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại
học văn bằng thứ nhất. Thứ ba trẻ em bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo; người bị
nhiễm HIV thuộc hộ nghèo khơng cịn khả năng lao động mà khơng có lương
hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp ưu đãi người có công hàng

tháng, trợ cấp hàng tháng khác. Thứ tư người thuộc hộ nghèo khơng có chồng
hoặc khơng có vợ; có chồng hoặc vợ đã chết; có chồng hoặc vợ mất tích theo
quy định của pháp luật và đang ni con dưới 16 tuổi hoặc đang nuôi con từ
16 tuổi đến 22 tuổi nhưng người con đó đang học phổ thơng, học nghề, trung
học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất (sau đây gọi chung là
người đơn thân nghèo đang nuôi con). Thứ năm người cao tuổi thuộc
một trong các trường hợp sau đây: người cao tuổi thuộc hộ nghèo khơng có
người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và
quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng
tháng; người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện quy định ở trện mà khơng
có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng;
người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền phụng
dưỡng, khơng có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ
sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội nhưng có người nhận chăm sóc tại cộng đồng.


17

Thứ sáu trẻ em khuyết tật, người khuyết tật thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội
theo quy định của pháp luật về người khuyết tật.
1.1.4.Tổ chức thực thi chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội
Báo cáo chính trị tại Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ chính sách xã hội
bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện sinh hoạt, giáo dục và
văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc… Vì vậy, có
nhiều loại chính sách xã hội cần phải được phân chia, khái quát lại ta có
những chính sách xã hội như: hệ thống chính sách xã hội nhằm tác động điều
chính cơ cấu xã hội ( như chính sách xã hội dành cho giai cấp cơng nhân, giai
cấp nơng dân, tầng lớp trí thức, đồng bào dân tộc thiểu số, … ), hệ thống
chính sách xã hội tác động vào quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội, nhóm
chính sách dân số, nhóm chính sách tác động vào quá trình phân phối và phân

phối lại thu nhập, nhóm chính sách xã hội về cư trú và nhà ở, nhóm chính
sách xã hội tác động đến lĩnh vực văn hóa tinh thần của xã hội.
Cơ sở đầu tiên để xây dựng chính sách xã hội là phải coi con người như
là trung tâm, như đích hướng tới của mọi chính sách. Ở đây, con người được
hiểu như tổng hịa những quan hệ xã hội. Chính sách xã hội phải tạo ra những
điều kiện thuận lợi nhất về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho sự phát
triển toàn diện của mỗi cá nhân con người cũng như của mỗi cộng đồng. Cơ
sở hạ tầng, những điều kiện đảm bảo an sinh xã hội, phúc lợi xã hội chung
cho tất cả mọi người, mọi nhóm và cộng đồng là người là những vấn đề phải
đặc biệt chú ý khi đề ra và thực hiện chính sách xã hội.
Ngày nay, vấn đề hỗ trợ các đối tượng bảo trợ xã hội đang trở thành
một vấn đề cấp bách của nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Muốn
thực hiện phát triển bền vững không thể khơng giải quyết những vấn đề đó.
Dưới tác động của công cuộc chuyển đổi kinh tế - xã hội cũng như những tiến


18

bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ, nền kinh tế nước ta đang đạt được sự tăng
trưởng tương đối cao và khá ổn định. Tuy nhiên, do quy mô dân số lớn, nhịp
độ gia tăng dân số nhanh, sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong
cơ cấu kinh tế, trình độ sản xuất thấp, năng suất lao động và thu nhập chưa
cao, vì vậy, Việt Nam về cơ bản vẫn thuộc nhóm nước đang phát triển của thế
giới.
Gia tăng dân số nhanh. Gia đình nhiều con đang là áp lực rất lớn làm
gia tăng tình trạng đói nghèo. Kết quả của nhiều cuộc điều tra cho thấy: các
hộ gia đình đơng con thường nghèo. Họ phải sống trong những ngôi nhà tồi
tàn với tiện nghi sinh hoạt đơn sơ. Điều kiện chăm sóc sức khỏe của những hộ
nghèo ở mức thấp. Quy mơ số con trong gia đình càng cao thì số năm đi học
bình quân của gia đình ấy càng thấp. Một số ngun nhân chính dẫn đến tình

trạng đói nghèo là: thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất, thiếu tri thức về kinh tế
thị trường, thiếu lao động, nhiều người không được đào tạo nghề, do vậy
khơng tìm được việc làm. Một số đối tượng bảo trợ xã hội khác do gặp phải
những rủi ro như thiên tai, dịch bệnh, tai nạn lao động, tai nạn giao thơng, bị
người thân bỏ rơi, …... khơng có khả năng tự ni mình như người già, người
khuyết tật, người bị nhiễm HIV.
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành cơng, tại phiên họp ngày
03/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách trong đó có
phát động phong trào tăng gia sản xuất để chống nạn đói, mở ngay cuộc lạc
quyên gạo để giúp đỡ người nghèo. Kể từ đó, đặc biệt là từ Đại Hội VI của
Đảng đến nay, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn xóa đói giảm
nghèo, hỗ trợ cho nhóm đối tượng đặc biệt của xã hội đã khơng ngừng được
củng cổ và cụ thể hóa qua các văn kiện, nghị định quan trọng của Đảng và
Nhà nước.


19

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ XII, có 6 nhiệm vụ trọng
tâm được đề ra và thực hiện trong 5 năm ( 2016 – 2020), chúng ta có thể thấy
Đảng đã đặt ra nhiệm vụ đó là “ Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và
sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải
quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo
đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao
phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết tồn dân tộc”. Qua đây, ta có thể thấy
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề an sinh xã hội, đảm bảo cho tất
cả mọi người đều có một cuộc sống đầy đủ hơn. Để thực hiện tốt chính sách
bảo trợ xã hội thiết nghĩ cần phải có sự ra quân, thực hiện đồng bộ giữa các cơ
quan quản lý ở địa phương, cũng như các tỉnh thành phố trên khắp cả nước.

1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện chính sách trợ giúp
đối tượng bảo trợ xã hội
1.2.1. Nhân tố khách quan
Nhân tố khách quan có thể hiểu là những yếu tố bên ngồi tác động vào
q trình thực hiện chính sách. Sau khi chính sách được hoạch định, chính
sách cần được thực thi trong thực tế cuộc sống. Đây là giai đoạn thứ hai trong
cả q trình nhằm biến chính sách thành những hoạt động và kết quả trên thực
tế.
Tổ chức thực thi chính sách là q trình biến các chính sách thành
những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động tổ chức trong bộ máy nhà
nước, nhằm thực hiện hóa những mục tiêu mà chính sách đã đề ra. Như vậy,
chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội đối đưa ra nhằm mục đích giúp
đỡ cho những nhóm người gặp các hồn cảnh đặc biệt quy định trong điều 5
Nghị định 136 của chính phủ, được hưởng đầy đủ tất cả các quyền và nghĩa


20

vụ của một cơng dân, có một cuộc sống ổn định và đầy đủ, nhận được sự bảo
vệ từ phía chính quyền Nhà nước. Đồng thời, thực hiện tốt chính sách sẽ góp
phần nâng cao uy tín của Đảng và Nhà nước trong nhân dân, làm giảm tình
trạng tội phạm trên địa bàn tỉnh, thành phố ( hạn chế được trẻ em thất học, bị
dụ dỗ sa vào tệ nạn xã hội); đảm bảo an toàn về an ninh trật tự trong xã hội,
phát huy được truyền thống văn hóa tốt đẹp của con người Việt Nam.
Các đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội không chỉ tập trung ở những
tỉnh thành phố lớn mà dường như có ở tất cả các tỉnh thành trên cả nước.
Những tỉnh có nền kinh tế chưa phát triển, hay những tỉnh cịn có nhiều khó
khăn thì việc chăm sóc đảm bảo cho những nhóm đối tượng này cịn gặp phải
những hạn chế nhất định. Một số người do hồn cảnh q khó khăn, thường
bỏ nhà lên thành phố để kiếm tiền, một vài người thì do khơng có điều kiện

học hành đàng hồng, hoặc do bệnh nên đi lang thang xin ăn, coi nó là một
nghề có thể kiếm ra tiền, giúp họ ni sống bản thân và gia đình. Vì thế, khi
những tỉnh thành phố lớn đưa những người lang thang về nơi cư trú của họ,
thì một thời gian sau lại tiếp tục quay về làm công việc lang thang xin ăn. Giải
thích hiện tượng tái lang thang đó là ở một vài địa phương, công tác đào tạo
dạy nghề, tạo việc làm, hỗ trợ nguồn vốn cho người dân còn hạn chế, hoặc
ngân sách địa phương chưa đủ để phân bổ cho nhiều đối tượng khác nhau. Từ
đó, dẫn đến việc thực thi chính sách bảo trợ xã hội chưa đạt được hiệu quả
cao giữa các tỉnh thành trên cả nước.
Đối tượng hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội bỏ nhà, bỏ quê đi lang thang
chủ yếu là những người già, trẻ em, người khuyết tật nặng, người ốm yếu
không có khả năng lao động, sống lang thang trên phố; người nghiện ma túy,
người bị bệnh tâm thần, kể cả người bình thường nhưng do một vài yếu tố tác
động trở nên khơng có nhà ở, khơng xác định được nơi cư trú, ăn, ngủ, sinh
hoạt tại những nơi công cộng như vỉa hè, chợ, bến xe, công viên,... Nguyên


21

nhân khó tập trung đối tượng lang thang là do người lang thang ăn xin phân
bổ khắp mọi nơi và thường di chuyển nên khó phát hiện để giải quyết kịp
thời. Trong q trình xác minh do đối tượng khơng nhớ hoặc không cung cấp
địa chỉ cư trú cụ thể, thơng tin thân nhân, gia đình nên kết quả xác minh
khơng chính xác dẫn đến kéo dài thời gian. Ví dụ như ở thành phố Hồ Chí
Minh hơn 90% người ăn xin tại đây đến từ các tỉnh, thành phố khác, nhưng
các tỉnh và thành phố khác chưa có chính sách hỗ trợ hiệu quả cho các gia
đình khó khăn, có nguy cơ phải lang thang xin ăn. Bên cạnh đó, các tỉnh thành
phố cũng chưa có hệ thống trung tâm bảo trợ xã hội để tiếp nhận, chăm sóc số
người này khi được đưa về, vì thế một phần không nhỏ những người đã hồi
gia về các địa phương, thường tiếp tục trở lại thành phố Hồ Chí Minh để tái

lang thang xin ăn.
Theo triết học Mác, con người là chủ thể của lịch sử. Sau khi xuất hiện,
con người đã lao động và cải biến thế giới, bằng tri thức của mình con người
đã thay đổi bộ mặt của thế giới vật chất, cùng với sự phát tiển của xã hội loài
người là sự phát triển của lịch sử, con người trở thành chủ thể của lịch sử. Bởi
vì, con người là nhân tố quyết định đến sự phát triển của lịch sử. Sự nghiệp
đổi mới của đất nước nhằm mục tiêu vì hạnh phúc của con người và do con
người làm nên, vì thế để phát huy vai trò nhân tố con người cần phải giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, tạo ra một hệ thống chính
sách, biện pháp và cơ chế vận hành đảm bảo sự phối hợp đúng đắn lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội. Trong đó, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp để nâng
cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao trình độ và năng lực lao động,
nâng cao tay nghề của chính mình. Nhóm người nhận được bảo trợ xã hội chỉ
có một mong muốn là đảm bảo có được cái ăn, cái mặc, có được một chỗ trú
thân để nghỉ ngơi, được hưởng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của họ. Đây
không chỉ là mong muốn của họ mà là của tất cả mọi người dân sinh sống trên


22

đất nước Việt Nam. Ai cũng cần phải lao động, lao động tạo ra của cải vật
chất để nuôi sống bản thân, ni sống gia đình, sự lao động tạo ra động lực để
phát triển đất nước, và để lao động được, con người cần có cái quyền được
sống, và quyền ấy đã được Bác Hồ nhắc đến trong Bản Tun Ngơn độc lập
của nước Việt Nam đó là “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.
Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Quan tâm đến cuộc sống của nhóm người này là một việc làm có ý nghĩa và
thiết thực đối với xã hội, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân. Song cũng cần đưa ra những biện pháp thuyết phục, cưỡng chế, răn đe

nghiêm khắc đối với những trường hợp lười lao động, sống ỷ lại vào khoản
tiền trợ cấp của Nhà nước.

1.2.2. Nhân tố chủ quan
Quy trình thực hiện chính sách bảo trợ xã hội xuất phát từ Sở LĐTB và
XH, phòng LĐTB và XH - đây là hai cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh, cấp quận huyện thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, cấp quyện huyện quản lý nhà nước về: lao động; việc làm;
dạy nghề; tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội (bảo hiểm xã hội bắt buộc,
bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp); an tồn lao động; người có
cơng; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; bình đẳng giới; phòng,
chống tệ nạn xã hội (sau đây gọi chung là lĩnh vực lao động, người có cơng và
xã hội). Trong các sở, phịng thường có rất nhiều chun viên thực hiện
những chức năng, nhiệm vụ khác nhau liên quan đến vấn đề kể trên. Ở một
vài tỉnh thành phố do không đủ người chuyên trách nên phải gôm nhiều mảng
để thực hiện, xử lý; nên chưa quan tâm sâu sát kịp thời đến những đối tượng
này. Ngồi ra, chính sách bảo trợ xã hội phải hỗ trợ cho rất nhiều đối tượng


23

khác nhau, vì thế chính quyền địa phương ở một vài nơi phải tập trung nguồn
ngân sách để chi cho những nhóm đối tượng được xét theo diện ưu tiên trước,
dẫn đến những nhóm người khác chưa được quan tâm cụ thể.
Thứ hai, cán bộ làm phụ trách trước hết đều phải có một năng lực
chun mơn vững chắc, một phẩm chất đạo đức tốt và phải có trách nhiệm đối
với cơng việc được giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định “Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân hiểu rõ và
thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” [22, tr.269]. Cán bộ là cầu nối

giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là người truyền đạt và tổ chức nhân dân
thực thi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời
nắm bắt và phản hồi thơng tin từ phía nhân dân để Đảng và Nhà nước có căn
cứ hoạch định, điều chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách. Vai trị của đội
ngũ cán bộ là vô cùng quan trọng trong tồn bộ sự vận hành của một xã hội.
Vì vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”, và “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Để làm tốt vai trị
của cầu nối này, có hai u cầu đối với cán bộ là thơng hiểu đường lối chính
sách của Đảng, Nhà nước và biết lắng nghe ý kiến của dân. Đó cũng chính là
hai tố chất khơng thể thiếu và cán bộ phải rèn luyện mới có. Thực tế cho thấy,
ở một vài địa phương, công việc của Sở hoặc Phòng LĐTB và XH quá nhiều,
mà nhân lực còn hạn chế, dẫn đến việc thực thi một vài chính sách cịn hạn
chế. Vấn đề đặt ra tiếp theo đó là, xã hội chúng ta thay đổi từng ngày từng
giờ, một người hơm nay có thể lành lặn, đi làm, giàu có, nhưng ngày mai có
thể trở thành một người vơ gia cư, một người khuyết tật, …vì một vài ngun
nhân nào đó, vì thế, cán bộ phụ trách cần phối hợp với chính quyền địa
phương thường xuyên cập nhật thơng tin nhóm người được hưởng trợ cấp xã
hội, để kịp thời hỗ trợ cũng như giúp đỡ họ. Ngoài ra, tiền lương cho cán bộ


24

phụ trách cơng việc này vẫn cịn ở mức hạn chế, từ thực tế đó, dẫn đến thực
trạng, nhiều người được giao phụ trách công việc này thường lơ là, thậm chí
khơng quan tâm đến cơng việc mà mình được giao, hoặc kéo dài thời gian
thực hiện công việc, dẫn đến công việc vẫn chưa đạt hiệu quả cao.
Điều kiện vật chất và tiềm lực kinh tế cần cho quá trình thực thi chính
sách bảo trợ xã hội ở mỗi tỉnh thành sẽ khác nhau, vì nguồn ngân sách địa
phương ở mỗi nơi là khác nhau. Ở những tỉnh, thành phố lớn có kinh tế phát
triển thì nguồn ngân sách có thể được xem là dồi dào, nhưng song song đó

cũng phải chi rất nhiều cho những vấn đề, những công việc khác, cũng như
những đối tượng xã hội khác. Còn ở những tỉnh, thành phố nhỏ, ngân sách đia
phương chỉ đủ thực hiện cho những công việc của địa phương, có đơi khi phải
đi tìm thêm các nguồn tài trợ khác. Giải quyết vấn đề chi ngân sách cho
những cơng việc ở địa phương, làm thế nào để có thể tạo ra môi trường công
bằng, dân chủ, quan tâm đến lợi ích của từng người và lợi ích của cộng đồng
là một bài tốn khó. Đảng ta đã khẳng định kết hợp tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ xã hội, kết hợp lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, chăm lo lợi ích
trước mắt và lợi ích lâu dài của nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích, chú ý
lợi ích cá nhân người lao động. Nguồn lực con người là cơ bản của sự nghiệp
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Chính vì thế, giải quyết vấn đề vật
chất và kinh tế cho chính sách bảo trợ xã hội là một vấn đề cần tập trung
nghiên cứu lâu dài.
Để đảm bảo cho một chính sách được thực thi đạt kết quả cao cần có sự
đồng tình ủng hộ từ nhiều phía và đặc biệt là từ quần chúng nhân dân. Ông bà
ta xưa có câu “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung
một giàn”, hơn tám mươi triệu người Việt Nam tuy "khác giống", là Kinh,
Thượng hay Mán, Mường, v.v…, là miền Bắc hay miền Nam, ở miền xuôi
hay miền ngược, chúng ta có chung một Tổ quốc, một lịch sử, một nền văn


25

hóa, một cơ đồ Việt Nam,… Chúng ta có thể khác nhau về gia đình, về cảnh
ngộ, điều kiện sống, về trình độ văn hóa… nhưng lại đang tồn tại bên nhau,
đang sống, học tập và làm việc trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong cộng
đồng người Việt, chúng ta có bao cái "chung" như bí và bầu "chung một giàn"
vậy. Chung Tổ quốc, ấy là nghĩa đồng bào. "Một giọt máu đào hơn ao nước
lã”. Chung làng xóm, phố phường, ấy là tình đồng hương. Chung trường, lớp,
ấy là tình đồng học, bạn đồng mơn. Ta cịn có tình đồng nghiệp, tình đồng

cảnh cùng chung ước mơ, hồi bão, v.v… Những nét "chung" ấy đã gắn bó
mọi tâm hồn Việt Nam, xây nên tình yêu thương, nhân dân đất nước. Đó là
đạo lý gắn liền với mỗi con người Việt Nam, khi gặp những mảnh đời bất
hạnh, người Việt luôn “nhường cơm sẻ áo”, quan tâm chia sẻ cho người khác.
Các đối tượng muốn hưởng trợ cấp xã hội cần phải làm hồ sơ đề nghị
trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm: tờ khai của đối tượng theo mẫu do Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội quy định; bản sao sổ hộ khẩu của đối tượng
hoặc văn bản xác nhận của công an xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là
công an cấp xã); bản sao giấy khai sinh đối với trường hợp trẻ em; giấy tờ xác
nhận bị nhiễm HIV của cơ quan y tế có thẩm quyền đối với trường hợp bị
nhiễm HIV; bản sao giấy khai sinh của con của người đơn thân đối với trường
hợp người đơn thân nghèo đang ni con; sơ yếu lý lịch của người nhận chăm
sóc người cao tuổi có xác nhận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) và đơn của người nhận
chăm sóc, ni dưỡng theo mẫu do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
quy định. Thủ tục thực hiện, điều chỉnh, thôi hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng
theo quy định sau đây: đối tượng hoặc người giám hộ của đối tượng làm hồ sơ
theo quy định gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã; trong thời hạn 15 ngày,
kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Hội đồng xét duyệt trợ giúp xã hội (sau đây gọi
chung là Hội đồng xét duyệt) thực hiện xét duyệt và niêm yết công khai kết


×