Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố biên hòa, tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.81 KB, 99 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ CHÍNH VÂN LINH

NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
Ở THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đồn Minh Duệ

VINH, 2016


2

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này, chúng tôi đã nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các tổ chức và các cá nhân. Chúng
tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các tập thể, cá nhân đã tạo điều
kiện giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn này.
Trước hết chúng tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học
Vinh, Phòng Đào tạo và Khoa Sau đại học của nhà trường cùng các thầy cô
giáo, những người đã trang bị kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Với lịng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn thầy


PGS. TS. GVCC. Đoàn Minh Duệ, người thầy đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn
khoa học và giúp đỡ tôi trong suốt q trình nghiên cứu, hồn thành luận văn
này.
Xin chân thành cảm ơn tất các bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp
đỡ nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến q báu để tơi hồn thành luận văn này.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn của tơi chắc hẳn khơng thể tránh
khỏi những sơ suất, thiếu sót, tơi rất mong nhận đuợc sự đóng góp của các thầy
cơ giáo cùng toàn thể bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 7 năm 2016
Tác giả

Phạm Thị Chính Vân Linh


3

MỤC LỤC
Trang phụ bìa ....................................................................................................1
Lời cảm ơn .........................................................................................................2
Mục lục ...............................................................................................................3
Các ký hiệu viết tắt trong luận văn .................................................................4
A. MỞ ĐẦU .......................................................................................................5
B. NỘI DUNG ....................................................................................................11
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ...................11
1.1. Một số khái niệm về dân chủ, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ..............11
1.2. Một số tiêu chí hồn thiện hệ thống pháp luật thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở .........................................................................................................................22
1.3. Tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở nước ta .........26
Chương 2: Thực trạng của việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố

Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ...................................................................................36
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành
phố Biên Hịa, tỉnh Đồng Nai ................................................................................... 36
2.2. Tình hình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai ................................................................................................................................ 45
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế
dân chủ cơ sở ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ....................................74
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai..............................................................................74
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn hiện nay ...............................................82
C. KẾT LUẬN ..................................................................................................93
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................95


4

CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

HĐND

Hội đồng nhân dân

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

QCDC

Quy chế dân chủ


TTND

Thanh tra nhân dân

UBMTQVN

Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


5

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành cơng, Nhà nước dân chủ cộng
hịa ra đời đánh dấu một bước chuyển vô cùng trọng đại của dân tộc ta. Nó đập
tan ách thống trị thực dân tàn bạo, xóa bỏ chế độ phong kiến lỗi thời đưa dân
tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trải qua 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, tình hình thế
giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp; tình hình đất nước có nhiều
thay đổi. Bối cảnh đó có cả thuận lợi, thời cơ, khó khăn và thách thức đối với
nước ta. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN

(xã hội chủ nghĩa), dân chủ hóa đời sống xã hội đã được Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm. Đặc biệt là dân
chủ hóa đời sống xã hội từ cơ sở. Dân chủ không chỉ là bản chất của chế độ
XHCN mà còn là động lực, là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta
luôn coi trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào dân, nên đã đưa
cách mạng nước ta vượt qua mọi gian nan thử thách, đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Thấm nhuần quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ XHCN, Đảng ta đưa ra phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”. Để phương châm đó trở thành hiện thực trong đời sống xã hội,
ngày 18/02/1998 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã ban
hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện QCDC (quy chế dân chủ)
ở cơ sở và đã xác định: “Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách
mạng, của cơng cuộc đổi mới” [3, tr.2]. Tiếp đó, ngày 11/05/1998, để cụ thể
hố Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định 29-NĐ/CP về ban hành


6

quy chế thực hiện dân chủ ở xã nhằm phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong
phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường đoàn kết toàn dân, cải
thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng, chính quyền, đồn thể vững
mạnh, góp phần thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
cơng bằng, văn minh”. Qua q trình triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở, thực
tế đã cho thấy kết quả bước đầu là rất quan trọng. Tuy vậy, vẫn cịn bộc lộ
những thiếu sót, yếu kém như: quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi còn
bị vi phạm, tệ quan liêu, cửa quyền, hách dịch, mệnh lệnh, tham nhũng, gây
phiền hà cho dân vẫn còn tồn tại gây những hậu quả nghiêm trọng. Phương

châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chậm đi vào cuộc sống.
Do vậy, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá VIII tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã tiếp tục nêu rõ: “Thực hiện
tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để dân tham gia quản lý xã hội, thảo
luận và quyết định những vấn đề quan trọng, khắc phục mọi biểu hiện dân chủ
hình thức; xây dựng luật trưng cầu ý dân” [14, tr.134].
Để không ngừng tăng cường hiệu quả của việc thực hiện QCDC ở cơ sở
và góp phần xem xét, đánh giá vấn đề một cách khách quan, khoa học, việc đi
sâu nghiên cứu, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện trên phạm vi tồn quốc
hay từng địa phương cụ thể đều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Vấn đề
dân chủ luôn thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà hoạt động chính trị
cũng như các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn ở
trong nước và trên thế giới. Dân chủ và thực hiện QCDC ở cơ sở trong hệ
thống chính trị đã được đề cập trong nhiều nghị quyết của Đảng, văn bản,
quyết định của Chính phủ và đã có nhiều cơng trình nghiên cứu (luận văn, luận
án, bài viết trên các tạp chí, các cuốn sách…) bàn về đề tài này ở những góc
độ, khía cạnh khác nhau và được chia nhiều nhóm vấn đề.


7

- Nhóm thứ nhất, những cơng trình đã được nghiên cứu sâu về vấn đề
dân chủ và thực hiện QCDC ở cơ sở đã được đăng thành sách và các bài viết
về lĩnh vực này trên các báo, tạp chí:
Phan Xuân Sơn (Chủ biên, 2003) các đoàn thể nhân dân với việc bảo
đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. TS. Lương
Gia Ban (Chủ biên, 2003) Dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Bộ Nội vụ (năm 2001), Hướng dẫn triển khai quy
chế dân chủ cơ sở, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Vũ Văn Hiền (2004), Quy
chế dân chủ ở cơ sở - vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội; Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (2003), Thực hiện quy chế dân chủ và
xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Nguyễn Thu Cúc (2002), Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình
hình hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (2005), Thể chế dân chủ và phát triển nông
thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Hồng Chí Bảo (2007),
Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tình hình đổi mới, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội; PGS. TS Dương Xuân Ngọc (chủ biên) (2000), Quy chế
thực hiện dân chủ ở cấp xã - một số vấn đề lý luận thực tiễn, Nxb Chính trị
Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tạp chí: Đồng chí Đỗ Mười (1998) “Phát huy quyền làm chủ của nhân
dân ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản số (20); Trương Quang Được (2002) “Tiếp tục
đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng
sản, số (12); Trần Bạch Đằng (12/2003), "Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh
truyền thống của dân tộc Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, số (35); Nguyễn Chí
Mỳ, “Dân chủ cơ sở - sự sáng tạo của Đảng ta”, Tạp chí Cộng sản, số (95,
205); Trần Quang Nhiếp, “Để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” (1999), Tạp chí


8

Cộng sản, số (2); Nguyễn Văn Sáu, "Quan hệ giữa thực thi Quy chế dân chủ ở cơ
sở với xây dựng chính quyền cơ sở nơng thơn" (2002), Tạp chí Lý luận chính
trị, số (11); Trịnh Ngọc Anh (4/2003), "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh", Tạp chí Cộng sản, số (11);
Lại Quốc Khánh, “Vấn đề chế độ dân chủ nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí
Minh từ góc nhìn triết học” (2010), Tạp chí cộng sản, số (23).
Nhóm vấn đề này các tác giả đã nghiên cứu một cách sâu sắc và làm
sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn thực hiện QCDC ở cơ sở, đồng thời nêu bật
tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ.

- Nhóm thứ hai, các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Nhà nước, Chính phủ
trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở, vừa định hướng nghiên cứu, vừa định
hướng tổ chức thực hiện.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết TW 3 (khóa VIII), nêu rõ
yêu cầu tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ nhân dân qua
các hình thức dân chủ đại nghị và dân chủ trực tiếp; Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (ngày 18/02/1998) ra Chỉ thị 30 CT/TW về xây dựng và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở. Các cơ quan tổ chức và các tổ chức đồn thể chính trị
xã hội phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục rộng rãi tới hội viên, đoàn
viên và nhân dân, Chỉ thị này và các QCDC ở cơ sở, sử dụng đúng quyền và
nghĩa vụ công dân đã được quy định trong QCDC, phối hợp với chính quyền
trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở.
Chính phủ (11/5/1998), Ban hành Nghị định 29/1998/NĐ-CP (nay là
Nghị định số 79/2003/NĐ-CP). Ủy Ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007. Pháp lệnh nêu rõ những quy định
chung, những nội dung công khai để nhân dân biết, những nội dung nhân dân
bàn và quyết định, những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan


9

có thẩm quyền quyết định, những nội dung nhân dân giám sát, điều khoản thi
hành trong việc thực hiện QCDC ở xã, phường, thị trấn.
Các cơng trình nghiên cứu, bài viết nói trên cung cấp những vấn đề lý
luận và thực tiễn về dân chủ, về thực hiện dân chủ ở cơ sở, cũng như tình hình
thực hiện quy chế dân chủ ở địa phương. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào đề
cập một cách trực tiếp, chuyên sâu đến việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở
thành phố Biên Hịa, tỉnh Đồng Nai. Chính vì lý do đó, chúng tơi chọn đề tài
"Nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai" làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đề xuất một số phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm
hoàn thiện, nâng cao chất lượng thực hiện QCDC cơ sở trên địa bàn thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Góp phần làm rõ khái niệm QCDC ở cơ sở.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở ở
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện Quy chế thực
hiện dân chủ cơ sở ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình tổ chức thực hiện dân chủ ở thành phố trên địa bàn
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai từ khi QCDC ở cơ sở ra đời.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về khơng gian: Trên địa bàn thành phố Biên Hịa, tỉnh Đồng Nai.
- Về thời gian: trong giai đoạn hiện nay (từ năm 2010 đến nay)


10

5. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam; quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước;
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp tổng hợp; phương pháp phân tích; phương pháp so sánh;
phương pháp thống kê; phương pháp điều tra xã hội học để tiến hành thực hiện

luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống nội dung về những thực
trạng của vấn đề dân chủ ở cơ sở và đề ra những hướng hồn thiện, từ đó, liên
hệ với cơng tác thực hiện QCDC cở ở cơ sở ở thành phố Biên Hịa, tỉnh Đồng
Nai. Phân tích khẳng định những mặt cần phát huy, những mặt cần khắc phục
nhằm nâng cao vai trò, chất lượng của việc thực hiện QCDC ở thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên và học viên
chuyên ngành Chính trị học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


11

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm về dân chủ, thực hiện dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Dân chủ
Dân chủ và thực hiện dân chủ là nhu cầu khách quan của con người.
Ngay trong công xã thị tộc (thời nguyên thủy), thủ lĩnh đứng đầu bộ tộc được
các thành viên của bộ tộc bầu ra hoặc phế bỏ. Điều này cho thấy quyền dân
chủ ra đời từ rất sớm.
Trong xã hội Hy Lạp cổ đại, khi mà nhà nước dân chủ chủ nô Aten ra
đời (khoảng thế kỷ VI trước công nguyên), khái niệm dân chủ được hiểu là:
việc cử ra hay phế bỏ người đứng đầu là do “quyền và sức mạnh của nhân
dân”. Chỉ đến giai đoạn này thì danh từ dân chủ mới chính thức được sử dụng.

Dân chủ theo tiếng Hy Lạp cổ là từ ghép của hai chữ: Demos (nhân dân,
quần chúng) + Kratos (sức mạnh, quyền lực) = quyền lực, sức mạnh thuộc về
nhân dân. Demos Kratia có nghĩa là dân chủ, quyền lực, là sự cai trị của người
bình dân. Theo đó, dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân; dân chủ là sự
cai trị của nhân dân - nó được biểu hiện theo nghĩa đối lập với chế độ độc tài.
Nhân dân là chủ thể của quyền lực, sử dụng quyền lực, trong đó quyền lực
chính trị là quan trọng nhất để tổ chức, quản lý xã hội, thực hiện sự nghiệp giải
phóng con người và giải phóng nhân loại cần lao khỏi áp bức, xiềng xích, bất
cơng.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu, nhiều học giả đề cập đến ý nghĩa khái niệm “dân chủ”: Democritus, một
triết gia Hy Lạp cổ đại, thì lại cho rằng “Thà sống nghèo trong một nước dân
chủ còn hơn cái gọi là cuộc đời hạnh phúc trong một nước độc tài, vì tự do tốt
hơn nô lệ” [46, tr.5].


12

Các nhà chính trị học ngày nay định nghĩa “Dân chủ là hình thức tổ chức
chính trị của xã hội dựa trên sự công nhận nhân dân như là nguồn gốc của
quyền lực, dựa trên quyền của nhân dân trong việc tham gia giải quyết những
vấn đề của quốc gia và trao cho các công dân một loạt quyền và quyền tự do
thực sự” [46, tr.5].
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: "Dân chủ, hình thức tổ chức
thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc
của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được
vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị
nhất định" [39, tr. 653].
Như vậy, dân chủ có nghĩa chung là quyền lực của người dân, quyền làm
chủ xã hội, và làm chủ bản thân con người, là quyền làm chủ của nhân dân trong

xã hội. Càng ngày, khái niệm dân chủ càng được mở rộng nhiều hơn, mang nội
dung mới mẻ hơn, nó được gắn với ý thức chính trị, gắn với chính quyền của
nhân dân, gắn với tiến trình lịch sử của xã hội loài người.
Về mặt giá trị xã hội, dân chủ là một trong những giá trị vô cùng quý
báu của con người, nó cịn là giá trị xã hội nhân văn, đánh dấu nấc thang tiến bộ
của xã hội loài người. Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, lực lượng sản xuất
kém phát triển, trước sức mạnh của thiên nhiên hoang sơ, huyền bí, để tồn tại và
phát triển, con người phải gắn bó với nhau để tạo nên sức mạnh cộng đồng, sức
mạnh ấy đó chính quyền sống, quyền tự do, bình đẳng. Lực lượng sản xuất phát
triển đã dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các
giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp đối kháng khơng thể điều hồ
được xuất hiện, từ đây Nhà nước ra đời điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội.
1.1.2. Đặc điểm, nội dung và vai trò của việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở
1.1.2.1. Đặc điểm của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở


13

Quy chế thực hiện dân chủ là một văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể
hóa và luật hóa phương châm “Dân biết, Dân bàn, Dân làm, Dân kiểm tra”
bằng một Nghị định của Chính phủ căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội (Nghị quyết số 45-1998/NĐ-UBTVQH10 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội ngày 26/2/1998 về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn).
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở là sự cụ thể hóa dân chủ xã hội chủ
nghĩa (XHCN) ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn liền với cơ
chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Vận hành của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ ngày càng được cụ thể hóa và hoạt động hiệu quả, thể hiện rõ tính ưu việt

mối quan hệ Đảng - Nhà nước - Nhân dân trong chế độ XHCN ở Việt Nam. Kế
thừa kinh nghiệm và kết quả 30 năm thực hiện đường lối đổi mới; trước yêu
cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Văn kiện và
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa
mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, nhất là nội
dung “nhân dân làm chủ” và phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, giám sát"; coi đó là một trong những phương thức hữu hiệu để đưa
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống.
Trước hết, về Đảng lãnh đạo: Nhất quán với quan điểm, chủ trương,
đường lối mà Đảng ta đã nêu ra qua các kỳ đại hội, tại Đại hội XII, Đảng ta
tiếp tục khẳng định: Đảng lãnh đạo là yếu tố tiên quyết bảo đảm sự vận hành
của cơ chế, làm cho cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ đạt hiệu quả, thực sự đi vào cuộc sống. Sự khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, xã hội và cách mạng Việt Nam là vấn đề có tính
ngun tắc. Đây là quy luật khách quan, khơng tự nhiên mà có và khơng phải
cứ tự nhận mà được. Bởi lẽ, sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt


14

Nam đã được nhân dân thừa nhận từ sự kiểm nghiệm của thực tiễn lịch sử đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đem lại hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân.
Thứ hai, về Nhà nước quản lý: Đây là yếu tố quyết định trực tiếp sự
thành cơng, tính hiệu quả trong vận hành cơ chế. Đại hội XII chỉ rõ: Nhà nước
ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam; một mặt, Đảng đề cao vị trí,
vai trị tối thượng của Hiến pháp, pháp luật đối với mọi mặt của đời sống xã

hội. Mặt khác, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội thông qua cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, bởi nó được thể
chế hóa qua hoạt động của Nhà nước; đặc biệt là thông qua công tác tổ chức
cán bộ, Đảng thống nhất lãnh đạo, quản lý công tác này của cả hệ thống chính
trị, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ công
chức, viên chức và làm cho bộ máy Nhà nước hoạt động có hiệu quả nhất.
Điều đó là hồn toàn phù hợp với điều kiện nước ta, được khẳng định trong
Điều lệ Đảng và hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Bởi lẽ, Đảng ta là đảng
cầm quyền, là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị. Khâu then chốt có ý
nghĩa quyết định làm cho cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ vận hành thơng suốt, có hiệu quả là Đảng phải thật sự trong sạch,
vững mạnh về chính trị tư tưởng, tổ chức và đạo đức, gắn bó máu thịt với nhân
dân vì nhân dân là yếu tố trung tâm của mọi quyền lực, là cội nguồn sức mạnh,
bí quyết của mọi thành cơng. Vì vậy, mọi biểu hiện xa dân, coi thường dân, ức
hiếp dân, gây phiền phức cho dân…đều làm cho Đảng tự suy yếu, lỏng lẻo, cơ
chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ bị phá vỡ.


15

Thứ ba, nhân dân làm chủ. Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở phát huy
chế độ dân chủ đại nghị, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của chính
quyền địa phương, cơ sở, quy định những nghĩa vụ cụ thể của chính quyền
trong việc bảo đảm quyền dân chủ của người dân ở cơ sở.
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp ở
cơ sở để nhân dân bàn bạc và trực tiếp quyết định những công việc quan trọng,
thiết thực, gắn với quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân.
Sự tham gia của các cơ quan tổ chức, các đoàn thể nhân dân ở mọi khâu
trong thực hiện quy chế ở cơ sở nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ của
nhân dân trong việc thực thi nền dân chủ XHCN.

Mục đích của việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã là phát huy
quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất
và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân
sinh, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đồn kết Đảng và nhân
dân ở xã ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng
của một số cán bộ, Đảng viên, các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, theo định hướng
XHCN.
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở thể hiện yêu cầu dân chủ phải trong
khuôn khổ của Hiến pháp và Pháp luật, đi đôi với trật tự, kỷ cương, quyền đi
đôi với nghĩa vụ; kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ, vi phạm
Hiến pháp, Pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích tập thể, quyền tự
do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
1.1.2.2. Nội dung của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã do Chính phủ ban hành ngày 15/5/1998
(nay là Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội 11; gồm 6 chương và 28 điều).


16

Về nội dung, quy chế quy định những quyền của nhân dân ở cơ sở được
biết và hình thức biết những thơng tin liên quan đến pháp luật, chủ trương
chính sách của Nhà nước, đặc biệt là những thông tin liên quan trực tiếp đến
đời sống dân sinh. Quy chế cũng quy định những việc để nhân dân bàn và
quyết định cũng như những hình thức thực hiện; Quy định những việc nhân
dân ở cấp xã có quyền giám sát, kiểm tra và những phương thức để thực hiện
giám sát, kiểm tra; Việc xây dựng cộng đồng dân cư thôn, làng, bản, ấp và
những hình thức tổ chức. Đặc biệt, để thực hiện phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”, quy chế quy định cơ chế thực hiện dưới hai hình

thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, trong đó ở cấp cơ sở, dân chủ trực
tiếp là quan trọng.
QCDC cơ sở quy định cụ thể các loại công việc để: Dân biết, Dân bàn,
Dân giám sát, Dân kiểm tra. Điều 1 Quy chế quy định: “Quy chế này quy định
cụ thể những việc HĐND và UBND xã phải thông tin kịp thời và công khai để
dân biết; Những việc dân bàn và quyết định trực tiếp; Những việc dân tham gia
ý kiến trước khi cơ quan nhà nước quyết định; Những việc dân giám sát, kiểm
tra và các hình thức thực hiện quy chế dân chủ ở xã” [8, tr.2].
Về dân biết, quy chế quy định quyền của mọi người dân được thông tin
về những chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, các vấn đề liên quan
trực tiếp đến đời sống hàng ngày của nhân dân tại cơ sở và nghĩa vụ của chính
quyền phải thơng tin kịp thời và cơng khai cho người dân.
Về dân bàn, có 2 loại gồm:
- Một loại công việc cho dân bàn và quyết định trực tiếp.
- Một loại công việc do dân bàn và tham gia ý kiến, HĐND và UBND
xã quyết định.
Các việc dân bàn và quyết định trực tiếp là các loại việc có huy động sự
đóng góp của dân để xây dựng cơ sở hạ tầng và xây dựng hương ước, quy ước


17

nội bộ. Đây là quy định rất mới không những thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân mà còn chống được tệ nạn tham nhũng, lãng phí.
Về dân giám sát, kiểm tra, quy chế quy định dân giám sát, kiểm tra các
loại công việc từ hoạt động của HĐND, UBND đến các việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân, kết quả quyết tốn cơng trình do dân đóng góp, việc
quản lý sử dụng đất đai, thu chi các quỹ, việc thực hiện chính sách đối với
người có cơng với nước…Dân giám sát, kiểm tra tức là thực hiện quyền lực
của mình trong quá trình quản lý đất nước.

1.1.2.3. Vai trò của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
Nước Việt Nam đi lên xây dựng chế độ XHCN thời kỳ quá độ từ một
chế độ phong kiến nửa thuộc địa, thời gian đầu mang nặng dấu ấn của chế độ
chuyên chế quân chủ, trong xã hội yếu tố dân chủ truyền thống làng, xã và yếu
tố sơ khai của dân chủ tư sản chưa đáng kể. Điều đó gây khơng ít khó khăn cho
việc xây dựng một nước dân chủ theo định hướng XHCN.
Quy chế ra đời là một địi hỏi tất yếu của q trình thực hiện dân chủ ở
nước ta, quy chế không chỉ đơn thuần là một phản ứng chính trị của Đảng và
Nhà nước ta mà đó là định hướng chính trị về dân chủ, phương châm để thực
hiện dân chủ như “Dân biết, Dân bàn, Dân làm, Dân kiểm tra” đã được cụ thể
hóa trong văn bản quy phạm pháp luật. Từng bước khẳng định vai trò to lớn
của việc ban hành quy chế và thực hiện QCDC ở cơ sở:
Thứ nhất: Thực hiện quy chế đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân
lao động, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì
dân ngay ở cấp chính quyền cơ sở ở nước ta hiện nay.
Trong những năm đầu xây dựng đất nước với vô vàn khó khăn, thách
thức, Đảng và Nhà nước ta đã chưa thật sự quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng
của nhân dân trong việc giải quyết các vấn đề của làng xã. Cho nên, khi triển
khai QCDC người dân rất phấn khởi và nhiệt tình hưởng ứng. Nơi nào làm tốt


18

việc xây dựng và thực hiện quy chế, nơi ấy sẽ xây dựng được phong trào sinh
hoạt chính trị rộng lớn, có tác dụng đến nhiều mặt đời sống xã hội. Thơng qua
q trình học tập, xây dựng và thực hiện quy chế, cán bộ nhân dân thấy rõ hơn
quyền cũng như trách nhiệm của mình trong việc xây dựng đời sống dân chủ ở
cơ sở, ý thức làm chủ, ý thức cơng dân của người dân đã có sự chuyển biến
khá rõ. Ngay từ trong cộng đồng dân cư nhỏ hẹp như xã, phường, người dân đã
có thể trực tiếp bày tỏ chính kiến của mình, trực tiếp quyết định và giám sát

các công việc của cộng đồng xã hội.
Với những thơng tin về chính sách, pháp luật, về nội dung các hoạt động
của địa phương, của cơ sở được đưa ra kịp thời và công khai, với những điều
người dân được bàn bạc, thảo luận và trực tiếp quyết định hoặc tham khảo cho
cho sự quyết định của cấp chính quyền cơ sở, người dân đã từng bước học làm
chủ, tập làm chủ và biết làm chủ.
Thứ hai: Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một giải pháp hạn chế sự tha hóa
quyền lực của nhà nước.
Quyền lực chính trị của nhân dân lao động được thể hiện tập trung thông
qua quyền lực của Nhà nước. Với hình thức dân chủ đại diện, quyền lực Nhà
nước sẽ được giao cho một số người đảm nhận, chịu trách nhiệm quản lý, điều
hành công việc chung. Những quy luật chung là khi tập trung quyền lực thì dễ
dẫn đến lạm quyền, lộng quyền. Những người đại diện cho quyền lực của nhân
dân rất dễ rơi vào sự tha hóa, độc đốn, quan liêu nếu khơng có một cơ chế
kiểm soát quyền lực. Trong thời gian qua ở nước ta, hiện tượng người có chức
có quyền đã lợi dụng quyền lực để mưu cầu lợi ích riêng cho mình khơng phải
là ít. Họ dựa vào địa vị của mình, mặc dù địa vị mà họ có được là do nhân dân
bầu ra để nhận hối lộ tham nhũng, làm trái với mục tiêu của Đảng, Nhà nước.
Bộ máy chính quyền trở nên quan liêu, bảo thủ trì trệ nó khơng cịn đại diện
được cho lợi ích của nhân dân, của tồn xã hội nữa mà chính nó lại vi phạm


19

đến lợi ích của nhân dân lao động, đến lợi ích mà nó đại diện. Để hạn chế sự
tha hóa quyền lực Nhà nước, cần phải làm trong sạch bộ máy lãnh đạo của
Đảng và chính quyền ngay ở từng cơ sở. Từ khi triển khai thực hiện quy chế,
người dân đã biết sử dụng quyền làm chủ của mình để đấu tranh với những
hiện tượng tiêu cực ấy. Từ những quy định rõ ràng các việc cần thông báo cho
dân biết, những việc dân được bàn, những việc dân được giám sát, kiểm tra tài

chính cơng khai, minh bạch đã làm hạn chế rất nhiều biểu hiện tha hóa của một
số cán bộ, đảng viên trong bộ máy Nhà nước.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ làm cho nhân dân lao động từng
bước thể hiện quyền làm chủ mà cịn làm cho các cấp ủy đảng, chính quyền,
đảng viên nhận thức rõ hơn về quyền làm chủ của nhân dân cũng như ý thức
được trách nhiệm phục vụ nhân dân, phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương phép
nước. Ở những nơi làm tốt việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ, ý thức
xây dựng cộng đồng, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền được nâng lên.
Nó khơng chỉ góp phần nâng cao ý thức cán bộ, đảng viên và nhân dân về thực
hiện và phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân mà còn làm chuyển
biến một bước về phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng, phương thức điều
hành về lề lối làm việc của các cấp chính quyền, nhất là ở cơ sở. Nhân dân đã
mạnh dạn, thẳng thắn, cởi mở chân thành phê bình cán bộ, đảng viên, đóng
góp xây dựng tổ chức Đảng giúp tổ chức Đảng loại được nhiều cán bộ đảng
viên kém phẩm chất, năng lực, thối hóa biến chất.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một cuộc cách mạng sâu sắc đến ý thức và
phong cách, phương thức lãnh đạo của cấp ủy, sự điều hành của chính quyền
cơ sở đối với sự tơn trọng quyền làm chủ của người dân, cán bộ bớt đi thái độ
hống hách cựa quyền, nhũng nhiễu dân. Từ đó, làm cho mối quan hệ giữa dân
với chính quyền cởi mở hơn, suy nghĩ của người dân về chính quyền ngày một
tốt đẹp hơn, góp phần làm cho chính quyền hoạt động có hiệu quả hơn.


20

Thứ ba: Thực hiện dân chủ ở cơ sở khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của
nhân dân lao động.
Phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân lao động trong quá
trình xây dựng nhà nước và xã hội, giải quyết những vấn đề lớn từ quốc tế dân
sinh đến những việc của đời sống cộng đồng, đời sống dân cư. Thông qua các

hoạt động dân chủ trực tiếp tại cơ sở, người dân có điều kiện tham gia ý kiến,
có điều kiện tập duyệt và trưởng thành trong vai trị của người làm chủ đích
thực. Khi Đảng, Nhà nước quan tâm, biết lắng nghe và học hỏi dân, biết bồi
dưỡng và nâng cao đời sống của dân thì nhân dân khơng chỉ nói lên điều mình
mong muốn mà còn gợi ý, kiến nghị và chỉ ra rằng Đảng và Nhà nước cần phải
hành động như thế nào, bằng phương pháp cụ thể nào để giải quyết các vấn đề
kinh tế - xã hội. Chính những những sáng kiến đầy tâm huyết của dân đã tạo
nên nguồn trí tuệ q giá khơng gì thay thế được cho những chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo ra những bước phát triển vững chắc
của đất nước trên con đường phát triển và hội nhập.
Thứ tư: Thực hiện dân chủ ở cơ sở gắn với phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển
bền vững đất nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
Phát triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa.
Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là xây dựng chăm lo con người có
nhân cách, lối sống tốt đẹp, với đặc tính cơ bản: u nước, nhân ái, nghĩa tình,
trung thực, đồn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa,
trong đó chú trọng vai trị của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh
tế và văn hóa; cần chú trọng đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong
phát triển kinh tế. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do


21

Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thể sáng tạo, đội ngũ tri
thức giữ vai trò quan trọng.
Từ khi có Nghị quyết TW5 (khóa VIII) và Chỉ thị 30 của BCH Trung
ương Đảng, các địa phương đã kết hợp chặt chẽ cả hai nội dung: Triển khai
quy chế dân chủ với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hóa khu dân cư” nhằm khắc phục những vấn đề nhức nhối về tư tưởng đạo
đức, lối sống và xây dựng mơi trường văn hóa văn minh, lành mạnh trong từng
gia đình, làng xã, vận động nhân dân xây dựng nếp sống văn minh, lối sống
lành mạnh, bài trừ các hủ tục, tệ nạn xã hội và mê tín dị đoan.
Bên cạnh, tổ chức cơng tác tuyên truyền các chủ trương chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tuyên truyền thực hiện cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tổ chức các ngày lễ, tết.
Thực hiện Chỉ thị 27 của Bộ Chính trị trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Tiếp
tục thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục; đẩy mạnh cơng tác y tế, dân số kế
hoạch hóa gia đình, cơng tác vệ sinh mơi trường.
Thứ năm: Thực hiện dân chủ ở cơ sở tạo ra pháp lý để Mặt trận tổ quốc
(MTTQ) các cấp và các tổ chức chính trị xã hội thực hiện được vai trò cầu nối
giữa Nhà nước và nhân dân trong phát huy dân chủ XHCN.
Do vậy, việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là một cách
thiết thực nhất, là cơ sở cho nhân dân lao động được làm chủ một cách thực sự
trên mọi phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Đó cũng là một cách
làm hiệu quả nhất để nhân dân lao động được đảm bảo quyền lực chính trị của
mình, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích
của nhân dân, của dân tộc, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Xây
dựng một nhà nước thực sự của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, với lý
tưởng dân chủ, nhân đạo, công bằng, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân.


22

1.2. Một số tiêu chí hồn thiện hệ thống pháp luật thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở
1.2.1. Những tiêu chí chung
1.2.1.1. Tiêu chí về tính tồn diện

Tính tồn diện là tiêu chí quan trọng thể hiện mức độ hoàn thiện của một
văn bản luật hoặc của cả một hệ thống pháp luật. Tiêu chí này có ý nghĩa trong
việc “định lượng” một văn bản quy phạm pháp luật cũng như một hệ thống
pháp luật. Bởi vậy, nó có vai trò rất quan trọng, chỉ trên cơ sở “định lượng”
mới có thể tiếp tục nghiên cứu để “định tính” trong xây dựng một văn bản quy
phạm pháp luật.
Tính tồn diện ở hai cấp độ:
- Cấp độ chung, đối với hệ thống pháp luật địi hỏi phải có đủ các ngành
luật theo cơ cấu nội dung logic và thể hiện thống nhất trong hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật tương ứng.
- Ở cấp độ cụ thể, đối với mỗi ngành luật, mỗi văn bản quy phạm pháp
luật phải có đủ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật.
QCDC ở cơ sở là một chế định pháp luật có tính độc lập tương đối trong
hệ thống pháp luật Việt Nam, do vậy, về mặt “định lượng” quy chế thực hiện
dân chủ ở cơ sở phải chứa đựng đầy đủ các quy phạm pháp luật quy định cách
thức, biện pháp thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” và các phương thức xây dựng cộng đồng dân cư, nhằm phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, khắc phục
tình trạng suy thối, quan liêu, mất dân chủ và tham nhũng.
1.2.1.2. Tiêu chí về tính đồng bộ
Tính đồng bộ thể hiện sự thống nhất của pháp luật. Tính đồng bộ được
đặt ra để tránh các hiện tượng bị trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn ngay
trong các quy định của ngành luật hoặc giữa bộ phận của hệ thống pháp luật.


23

Để tạo ra tính đồng bộ thì cần phải vừa có quan điểm tổng quát vừa có
quan điểm cụ thể. Quan điểm tổng quát để xác định tính chất chung của mỗi
ngành luật, mỗi chế định pháp luật; quan điểm cụ thể để dự kiến chính xác các

tình huống và hoàn cảnh cụ thể để đề ra các quy phạm phù hợp.
1.2.1.3. Tiêu chí về tính phù hợp
Tính phù hợp thể hiện sự tương quan giữa trình độ của văn bản pháp luật
với trình độ phát triển của kinh tế - xã hội. Hệ thống pháp luật, ngành luật, văn
bản quy phạm pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế - xã
hội, chứ không được cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Tính phù
hợp của hệ thống pháp luật, ngành luật thể hiện ở nhiều mặt, trong đó đặc biệt
chú ý sự phù hợp của pháp luật với các quy luật khách quan, nhất là các quy
luật phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với đường lối, chính sách
của Đảng, phù hợp với văn hóa, đạo đức, phong tục tập quán và các quy phạm
xã hội khác.
Tính phù hợp là tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thiện của
quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở trên thực tế. Tiêu chí này đặt ra yêu cầu
“Quy chế” phải được xây dựng trên cơ sở đường lối, quan điểm của Đảng, phù
hợp với Hiến pháp và thống nhất với các văn bản pháp luật khác có liên quan
như: Luật tổ chức HĐND và UBND, Luật bầu cử Quốc hội, Luật bầu cử
HĐND các cấp, luật khiếu nại, tố cáo của công dân và sự phù hợp và thống
nhất này khơng chỉ đảm bảo tính khả thi của quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
mà cịn đảm bảo tính hiệu quả của văn bản pháp luật kể trên, đặc biệt là khắc
phục hiện tượng trùng lắp, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật.
1.2.1.4. Tiêu chí về kỹ thuật pháp lý
Tiêu chí về kỹ thuật pháp lý là tiêu chí quan trọng trong q trình xây
dựng pháp luật, thơng thường được thể hiện ba đặc điểm sau:


24

Thứ nhất, Thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp dụng
trong quá trình xây dựng và hồn thiện pháp luật như xác định mục đích và
yêu cầu của văn bản, các quan điểm của Đảng về vấn đề này, sưu tầm, tập hợp

các tài liệu, văn bản pháp luật có liên quan đến văn bản dự định sẽ biên soạn.
Thứ hai, thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu pháp luật.
Thứ ba, thể hiện cách biểu đạt thông qua ngôn ngữ pháp lý. Yêu cầu của
cách biểu đạt thông qua ngôn ngữ pháp lý là phải đảm bảo tính cơ đọng, logic,
chính xác và một nghĩa.
1.2.2. Những tiêu chí riêng
1.2.2.1. Tiêu chí về hình thức
Hình thức của văn bản quy phạm pháp luật là tiêu chí đảm bảo cho văn
bản đó có tính pháp lý, tính khn mẫu và dễ áp dụng trong cuộc sống. Trước
hết lựa chọn hình thức văn bản để ban hành là nội dung quan trọng của tiêu chí
này.
Pháp luật thực hiện QCDC ở cơ sở của Nhà nước ta hiện nay được ban
hành dưới dạng Nghị định kèm theo quy chế như: Nghị định 29/1989/NĐ-CP
ngày 11/5/1998 và Nghị định 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 (sau này là
Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007) về việc ban hành kèm
theo quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở, nhìn chung hình thức này đã được sử
dụng mục đích phù hợp với nội dung văn bản, đảm bảo giá trị pháp lý của văn
bản trong giai đoạn lịch sử hiện nay.
Qua thực tiễn thi hành thực hiện QCDC ở cơ sở trong thời gian qua cho
thấy vẫn còn nhiều địa phương chưa thật sự coi trọng nhiệm vụ triển khai thực
hiện QCDC ở cơ sở tại địa phương mình, nhiều cán bộ cịn đánh giá thấp về
tính pháp chế của quy chế. Trên thực tiễn, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
là một văn bản pháp lý, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, phản ánh bản chất


25

của Nhà nước của chế độ ta cần phải nâng Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
lên thành pháp lệnh hay bộ luật thì tính hiệu quả sẽ được nâng cao hơn nữa.
Tiêu chí về hình thức của thực hiện QCDC ở cơ sở địi hỏi tính rõ ràng,

kết cấu chặt chẽ, logic, các thuật ngữ pháp lý sử dụng một cách chính xác, một
nghĩa, lời văn trong sáng, ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với khả năng nhận thức
của tồn nhân dân.
1.2.2.2. Tiêu chí về nội dung
Đây là tiêu chí quan trọng và cần thiết để xem xét mức độ hồn thiện
của pháp luật nói chung cũng như pháp luật thực hiện QCDC ở cơ sở nói riêng.
Nội dung của pháp luật thực hiện QCDC ở cơ sở là những quy định tạo nền
tảng pháp lý cho việc thực hiện hóa các quyền tự do dân chủ của nhân dân đã
được pháp luật quy định.
Tiêu chí này đặt ra yêu cầu nội dung của pháp luật thực hiện QCDC ở cơ
sở phải phán ánh được nhu cầu khách quan của sự phát triển xã hội có như vậy
sự tác động của pháp luật thực hiện QCDC ở cơ sở đối với các quan hệ xã hội
thuộc phạm vi điều chỉnh của nó mới đạt hiệu quả mong muốn. Nhu cầu khách
quan của sự phát triển xã hội mà các quy định của pháp luật thực hiện QCDC ở
cơ sở quy định đó là:
- Quy định quyền của mọi người dân ở cơ sở được thông tin về pháp
luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan trực
tiếp đến đời sống và lợi ích hằng ngày ở cơ sở.
- Có quy chế và hình thức để nhân dân, cán bộ, cơng chức ở cơ sở được
bàn bạc và tham gia ý kiến và các chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhất
là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống và lợi ích hằng ngày ở cơ sở.
- Có quy chế và hình thức để nhân dân, cán bộ, cơng chức ở cơ sở được
tham gia bàn bạc và tham gia các ý kiến và chủ trương, chính sách, nhiệm vụ


×