Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Hình tượng con người đi tìm chân lí trong tiểu thuyết việt nam từ 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.94 KB, 148 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ THỊ LÝ

HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI ĐI TÌM CHÂN LÍ
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
TỪ 1986 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ THỊ LÝ

HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI ĐI TÌM CHÂN LÍ
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
TỪ 1986 ĐẾN NAY
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60.22.01.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. PHAN HUY DŨNG


NGHỆ AN - 2016


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 7
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát ................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 8
6. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 8
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY....................................... 9
1.1. Bức tranh chung về tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay................... 9
1.1.1. Bối cảnh sáng tạo............................................................................ 9
1.1.2. Sự đa dạng về đề tài, chủ đề ......................................................... 12
1.1.3. Sự đổi mới về kĩ thuật và bút pháp............................................... 15
1.2. Hình tượng con người trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay ... 19
1.2.1. Sự đổi mới và đa dạng hóa quan niệm nghệ thuật về con người..... 19
1.2.2. Những hình tượng nổi bật nhìn theo tiêu chí xã hội .................... 22
1.2.3. Những hình tượng nổi bật nhìn theo tiêu chí cấu trúc nghệ thuật ... 31
1.3. Con người đi tìm chân lí - loại hình tượng đánh dấu nỗ lực cách
tân của tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay ............................................ 38
1.3.1. Khái niệm con người đi tìm chân lí .............................................. 38
1.3.2. Mẫu số chung và đặc điểm riêng của con người đi tìm chân lí
trong văn xi hiện đại Việt Nam qua các giai đoạn khác nhau ..... 40
1.3.3. Nguyên nhân tái xuất của hình tượng con người đi tìm chân lí
trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay ................................ 45
Tiểu kết chương 1........................................................................................ 56



Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CON NGƯỜI ĐI TÌM CHÂN LÍ TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY..................................... 57
2.1. Con người hoang mang trước những giá trị hiện tồn ........................... 57
2.1.1. Con người trước nhu cầu soi xét quá khứ .................................... 57
2.1.2. Con người bất mãn với những thang chuẩn đánh giá cũ .............. 61
2.1.3. Con người hoài nghi những “định hướng” ................................... 65
2.2. Con người quyết liệt dấn thân .............................................................. 70
2.2.1. Con người dám vượt lên mình...................................................... 70
2.2.2. Con người chấp nhận thử thách .................................................... 74
2.2.3. Con người tin ở lương tri .............................................................. 79
2.3. Con người trầm tư ................................................................................ 83
2.3.1. Con người ưa tranh biện ............................................................... 83
2.3.2. Con người ham đúc kết ................................................................ 86
2.3.3. Con người hướng tới những tiêu chuẩn nhân loại ........................ 91
Tiểu kết chương 2........................................................................................ 96
Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI
ĐI TÌM CHÂN LÍ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986
ĐẾN NAY ....................................................................................................... 97
3.1. Nghệ thuật xây dựng con người đi tìm chân lí .................................... 97
3.1.1. Đặt con người vào bối cảnh khơng thời gian thiếu tính xác định
lịch sử ........................................................................................... 97
3.1.2. Quan tâm soi tỏ dòng ý thức của nhân vật ................................. 100
3.1.3. Khai thác xung đột nội tâm trên nền xung đột xã hội và xung đột
mang tính triết lí ......................................................................... 104
3.2. Nghệ thuật xây dựng kết cấu.............................................................. 108
3.2.1. Kiểu kết cấu đa tầng ................................................................... 108
3.2.2. Kiểu kết cấu phân mảnh ............................................................. 112
3.2.3. Kiểu kết cấu xoắn kép ................................................................ 117



3.3. Nghệ thuật xây dựng giọng điệu đa thanh ......................................... 121
3.3.1. Giọng chiêm nghiệm, suy ngẫm, triết lí ..................................... 121
3.3.2. Giọng châm biếm, giễu nhại....................................................... 125
3.3.3. Giọng tâm tình, tha thiết ............................................................. 129
Tiểu kết chương 3...................................................................................... 133
KẾT LUẬN .................................................................................................. 134
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 137


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Năm 1986 là một dấu mốc đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI đã xác định đường lối đổi mới tồn diện đất nước.
Chính sự kiện lịch sử này đã đưa đất nước ta vượt qua thời kì khủng hoảng
sau chiến tranh để bước vào giai đoạn phát triển mới. Những thay đổi mạnh
mẽ của nền kinh tế, xã hội đã tác động đến mọi mặt đời sống của con người,
trong đó có hoạt động văn học. Văn học Việt Nam từ 1986 đã có những bước
chuyển ngoạn mục với nhiều thành tựu cần phải được tiếp tục nghiên cứu một
cách sâu sắc.
1.2. Từ sau 1986, trong công cuộc Đổi mới, các nhà văn Việt Nam có
nhiều điều kiện hơn để nhìn thẳng vào sự thật, nhìn xuyên thấu bản chất đời
sống và con người. Trong quá trình đi sâu vào cội nguồn, vào gốc rễ những
hiện tượng xã hội, các tiểu thuyết gia đương đại Việt Nam đã nhận thấy hiện
thực, con người thực ra không đơn giản, một chiều mà phức hợp, đa chiều. Vì
thế, một yêu cầu tất yếu, bức bách đối với người cầm bút lúc này là phải thay
đổi tư duy nghệ thuật, thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người. Hơn thế
nữa, trước những yêu cầu bức bách của hiện thực, họ phải tự soát xét lại hành

trang của mình trước khi tiếp tục hành trình khám phá và sáng tạo. Chính sự
“sốt xét” này dẫn tới việc xuất hiện ngày càng nhiều những hình tượng nhân
vật đi tìm chân lí - một điểm cách tân khơng thể bỏ qua của văn học (nổi bật
nhất là truyện ngắn và tiểu thuyết) từ Đổi mới đến nay.
1.3. Hình tượng con người đi tìm chân lí trong tiểu thuyết từ Đổi mới
đến nay đã thể hiện tài năng sáng tạo, tâm huyết nghề nghiệp và khát vọng đi
đến tận cùng bản chất sự việc, bản chất mọi vấn đề của các thế hệ nhà văn
Việt Nam. Vì thế, tìm hiểu hình tượng con người đi tìm chân lí trong tiểu
thuyết Việt Nam từ sau 1986, chúng tôi muốn khảo sát những tác động đa


2
chiều của quan điểm sáng tác chính thống đối với hành trình sáng tạo nghệ
thuật của nhà văn, từ đó, nhận ra những vấn đề thuộc quy luật phát triển của
văn học.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những tài liệu bàn về đổi mới văn học từ 1986 đến nay
Hình thành, phát triển trong khơng khí dân chủ, đổi mới, văn học Việt
Nam từ 1986 đến nay đã tạo nên một đời sống dư luận phong phú. Giới
nghiên cứu phê bình văn học đã có nhiều bài nghiên cứu, phê bình, tranh luận
và đối thoại về văn học, về tiểu thuyết giai đoạn này.
Nguyễn Văn Long với Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử
văn học Việt Nam giai đoạn từ sau 1975 in trong sách Văn học Việt Nam sau
1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy đã nhận định: “Nhiệt tình đổi
mới xã hội, khát vọng dân chủ và tinh thần nhìn thẳng vào sự thật đã là
những động lực tinh thần cho văn học của thời kì đổi mới phát triển mạnh
mẽ, sơi nổi” [54,12]. Đó là một nhận định mang tính khái quát về những
nguyên nhân, những tác động đến sự đổi mới văn xi sau 1986 trong đó có
tiểu thuyết. Cũng trong cuốn sách này, Lê Khắc Hòa ở bài viết Nhìn lại các
bước đi, lắng nghe những tiếng nói đã đề cập đến sự thay đổi giọng điệu

trong văn học, trong tiểu thuyết sau 1975: Sau 1975, văn học thế sự chuyển
tiếng nói thành tiếng cười trào tiếu, giễu nhại. Tiếng cười giễu nhại, trào
tiếu mở đường cho văn xuôi phát triển, tạo mơi trường để văn xi nói to
hơn thơ [54, 69]. Trong bài Sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật trong tiểu
thuyết Việt Nam thời kì đổi mới, Mai Hải Oanh cho rằng với ưu thế của mình
tiểu thuyết có thể thâm nhập vào các thể loại khác ngược lại các thể loại
khác cũng có thể du nhập vào tiểu thuyết để tạo nên cấu trúc đa tầng. Ở bài
viết Tìm hiểu phương thức “huyền thoại hóa” trong một số tiểu thuyết Việt
Nam thời kì đổi mới, Trần Thị Mai Nhân đề cập đến sự ảnh hưởng của
Kafka, của Marquez đối với tiểu thuyết Việt Nam. Qua bài Những cách tân


3
của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI, Nguyễn Văn Long và Lê Thị Thu
Hằng đã thể hiện cái nhìn tồn diện về những tồn tại và thành tựu của tiểu
thuyết. Trong cuốn tiểu luận - phê bình Văn học hiện thực con người, Lê
Thanh Nga nhận định về những tín hiệu vui của truyện ngắn và tiểu thuyết
Việt Nam sau 1975: Qua tiểu thuyết và truyện ngắn, chúng ta có thể thấy
những cuộc hội ngộ của văn học Việt Nam với các nền văn học lớn của nhân
loại [58, 109].
Đánh giá về những cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết Việt Nam thời kì
Đổi mới, có thể kể đến hàng loạt bài viết, bài báo như: Một số khuynh hướng
tiểu thuyết nước ta từ thời điểm đổi mới đến nay của PGS.TS. Nguyễn Thị
Bình, Đề tài NCKH cấp Bộ, Mã số: B2006 - 17 - 29, Đại học Sư phạm Hà
Nội 2008), Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại của
Thái Phan Vàng Anh (Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 60, 2010), Tiểu
thuyết Việt Nam sau 1986 - Nhìn từ lí thuyết đối thoại của Lê Thị Thúy Hằng
(Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường ĐH Khoa học Huế, tập 1, số 2,
2014), Vấn đề kết cấu tự sự và các khuynh hướng phát triển của tiểu thuyết
Việt Nam đầu thế kỉ XXI của Hồng Cẩm Giang (Tạp chí Khoa học

ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, tập 31, số 3, 2015), Kết cấu tự sự
trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986 của Nguyễn Văn Hùng (Tạp
chí Khoa học Đại học Văn Hiến, số 11, 2016), Thành tựu văn xi Việt Nam
sau đổi mới từ góc nhìn tương tác thể loại của Trần Viết Thiện (Tạp chí ĐH
Sài Gịn, Bình luận văn học, niên giám 2012), “Lạ hóa” và những thể nghiệm
của tiểu thuyết đầu thế kỉ XX của Thái Phan Vàng Anh…
Văn học nói chung và tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 nói riêng ln là
vấn đề nóng của giới nghiên cứu, phê bình văn học. Vì thế, nhiều Hội thảo
lớn do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và các trường Đại học trong
toàn quốc tổ chức được giới nghiên cứu, phê bình văn học và nhiều công
chúng quan tâm.


4
2.2. Những tài liệu bàn về quan niệm nghệ thuật về con người trong
văn học Việt Nam từ 1986 đến nay
Quan niệm nghệ thuật về con người quyết định đến việc thể hiện tư
tưởng chủ đề và hình thức nghệ thuật trong quá trình sáng tạo của nhà văn. Vì
thế, vấn đề con người trong văn học đương đại Việt Nam được các nhà phê
bình, nghiên cứu văn học quan tâm hàng đầu.
Trần Đình Sử trong bài viết Mấy vấn đề trong quan niệm con người
của văn học Việt Nam (Tạp chí Văn học, số 8/ 2001) cho rằng con người
khơng chỉ được khắc họa ở phương diện ý chí, tư tưởng tình cảm cịn được
khắc họa ở phương diện bản năng, vơ thức, tâm linh, nghịch lí [76]. Lê Ngọc
Trà trong bài viết Vấn đề con người trong văn học đã khẳng định nhiều năm
qua văn học đã mắc nợ cuộc đời vì chưa nói đúng “sự thật” về người nơng
dân, về người lính, về người trí thức… Trong bài Văn xuôi những năm 80 và
vấn đề dân chủ hóa nền văn học, Huỳnh Như Phương cũng đánh giá văn học
thời kì Đổi mới đã thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người đó là từ khám
phá con người một chiều, phiến diện sang khám phá thế giới nội tâm, chiều

sâu tâm linh để nhận diện con người đích thực. Bùi Việt Thắng trong bài viết
Văn xi gần đây và quan niệm con người (Tạp chí Văn học số 6, 1991) đã
nhấn mạnh những điểm mới trong quan niệm về con người của văn xi
đương đại: hồn cảnh là yếu tố quan trọng làm tha hóa con người, văn học đề
cập đến những nghịch lí của con người và cuộc đời và văn học đã đi vào “cái
con người” trong con người [85]. Bàn về đổi mới quan niệm nghệ thuật về
con người còn rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, phê bình như: Một
vài suy nghĩ về con người trong văn xi thời kì đổi mới (Tạp chí Văn học số
9, 2001) của Tơn Phương Lan, Đổi mới văn học vì sự phát triển của Vũ Tuấn
Anh, Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Bích
Thu… Ngồi ra, có khơng ít luận án, luận văn nghiên cứu về con người trong
tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay.


5
2.3. Những tài liệu đề cập đến vấn đề hình tượng con người đi tìm
chân lí trong văn học từ 1986 đến nay
Cho đến nay, hầu như chưa có bài viết, cơng trình nghiên cứu về vấn đề
hình tượng con người đi tìm chân lí trong những tác phẩm mà chúng tôi xác
định là trọng tâm khảo sát. Các bài viết, cơng trình nghiên cứu chỉ mới đề cập
một vài khía cạnh, một vài biểu hiện hoặc là những nhận định mang tính khái
qt về hình tượng con người đi tìm chân lí, chưa có những bài chun sâu,
tồn diện. Có thể dẫn chứng một vài tài liệu, bài báo liên quan đến vấn đề
hình tượng con người đi tìm chân lí trong văn học Việt Nam sau 1986.
Trong bài viết Văn học Việt Nam trước và sau 1975 - nhìn từ yêu cầu
phản ánh hiện thực in trong sách Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề
nghiên cứu và giảng dạy, Phong Lê đã đánh giá: “Nếu cuộc sống có lúc nào
đó bỗng đậm hơn những sắc màu tối, đẩy con người vào tình thế bế tắc, hoặc
phải có nhiều phương án để thốt, và nỗi đau nhân loại như tràn lấn thì cũng
là điệu tự nhiên”… [54].

Bùi Thanh Truyền, Lê Biên Thùy trong bài viết Những cách tân quan
niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái (Tạp chí Khoa
học Đại học Huế, số 51 năm 2009) đã khái quát về nhân vật trong tác phẩm
của Hồ Anh Thái: “Tơi” đã có một q trình tự vấn, đứng chênh vênh giữa
hai bờ thiện và ác để sám hối, để thức tỉnh, để tự tìm cho mình một con
đường. Hành trình dấn thân - tự vấn của nhân vật đã giúp cho người đọc
nhận biết được phần ẩn khuất bên trong của Đông - cũng là của chính mình”
[96]. Trong bài Con người trong tiểu thuyết thời hậu chiến viết về chiến tranh
(Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP HCM, số 23 năm 2010), Nguyễn Thị
Kim Tiến đã đề cập đến con người cá nhân, con người suy tư: “Đã đến lúc
các nhân vật của văn học thời kì này phải tự phán xét, suy ngẫm về những
hành vi của mình, điều này đồng thời đánh dấu những phức tạp của đời sống
cá nhân nội tâm con người, những cảm xúc, suy tư, những dằn vặt trăn trở,
những mối quan hệ nhiều chiều”… [91]. Trần Văn Ban trong bài Kiểu nhân


6
vật ám ảnh trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương (Tạp chí Khoa học ĐHSP
TP HCM, số 26, 2011) cũng nhận định: “Tìm hiểu những ám ảnh của nhân
vật cũng là khắc sâu nỗi cô đơn, thân phận nhỏ nhoi của con người trên hành
trình gian khổ của cõi nhân sinh” [10]. Trong bài viết Nhân vật tự ý thức
trong văn xuôi sau 1975, Dương Thị Hương, đã đề cập đến nhân vật tự ý
thức, một kiểu nhân vật đi tìm chân lí trong văn học: “Trong văn xi sau
1975, cịn có thể nhận ra kiểu nhân vật tự nhận thức trong sáng tác của Chu
Lai, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Y Ban, Trần Thùy Mai”…
Đề cập đến con người bản năng, một biểu hiện của con người đi tìm chân lí,
Văn Thị Phương Trang trong bài Hình tượng con người bản năng trong văn
xi Việt Nam hiện đại (Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ, trường ĐH Khoa
học Huế, tập 1, số 2, 2014) đã viết: “Khi con người biết quan tâm đến mình,
sự tồn tại của con người bản năng trong văn học càng không thể thiếu. Điều

này vừa mang ý nghĩa giải thiêng, vừa mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc…
thậm chí trở thành một trào lưu của sự giải tỏa, của khát vọng sống” [95].
Tiểu Sinh trong bài viết Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong
văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 trong tương quan với văn học 1945 1975 khẳng định: “Văn xuôi sau 1975 dần dần quan tâm con người ở tư cách
cá nhân - một “nhân vị” độc lập. Xuất hiện con người “khơng trùng khít với
chính mình”, con người phức tạp, nhiều chiều” [73].
Lê Thanh Nga có bài viết “Chân lí” trong truyện của Nguyễn Huy
Thiệp, Nguyễn Đức Tồn có bài Kiểu nhân vật “đi tìm thời gian đã mất” và
hiệu ứng kĩ thuật dịng ý thức trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại…
Có thể thấy, đề tài về hình tượng con người trong văn học nói chung,
trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam nói riêng thực sự phong phú và khá
phức tạp. Trước tình hình đó, luận văn của chúng tơi sẽ đi sâu nghiên cứu
hình tượng con người đi tìm chân lí trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 đến
nay, với mong muốn góp thêm một hướng khai thác tồn diện và khoa học về
hình tượng con người trong văn học Việt Nam đương đại.


7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là khảo sát, nghiên cứu, phân tích, đánh giá hình
tượng con người đi tìm chân lí trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Khảo sát bức tranh chung về tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến
nay; đánh giá về hình tượng con người trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986
đến nay.
3.2.2. Tìm hiểu và phân tích những đặc điểm của con người đi tìm chân
lí trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay trên phương diện nội dung.
3.2.3. Tìm hiểu và phân tích nghệ thuật thể hiện hình tượng con người
đi tìm chân lí trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hình tượng con người đi tìm chân
lí trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay.
4.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Do vấn đề khảo sát, phản ánh quá phong phú, đa dạng nên trong q
trình triển khai đề tài, chúng tơi tập trung khảo sát các tác phẩm của những
nhà văn sau:
- Nguyễn Việt Hà với Cơ hội của Chúa (1999); Khải huyền muộn
(2005); Ba ngôi của người (2014).
- Tạ Duy Anh với Đi tìm nhân vật (2008); Giã biệt bóng tối (2008);
Lão Khổ (2014); Thiên thần sám hối (2004).
- Hồ Anh Thái với Cõi người rung chuông tận thế (2013); Mười lẻ một
đêm (2006); Đức Phật, nàng Savitri và tôi (2015); SBC là săn bắt chuột
(2011), Những đứa con rải rác trên đường (2014)
- Nguyễn Bình Phương với Những đứa trẻ chết già (2013), Người đi
vắng (2013), Ngồi (2013).


8
- Nguyễn Đình Tú với Nháp (2008), Phiên bản (2014), Kín (2014).
Chúng tơi cũng tập trung khảo sát những tác phẩm như: Mùa lá rụng
trong vườn (1986), Đám cưới không có giấy giá thú (1990) của Ma Văn
Kháng; Thời xa vắng (1996) của Lê Lựu; Bến không chồng (2000) của Dương
Hướng; Nỗi buồn chiến tranh (2008) của Bảo Ninh; Mảnh đất lắm người nhiều
ma (2002) của Nguyễn Khắc Trường; Thiên sứ (1990) của Phạm Thị Hồi,
Tấm ván phóng dao (2004) của Mạc Can, Nguyễn Du (2015), Thông reo ngàn
Hống (2015) của Nguyễn Thế Quang, Ba người khác (2015) của Tô Hồi, Biển
và chim bói cá (2014) của Bùi Ngọc Tấn, Sơng (2016) của Nguyễn Ngọc Tư…
Ngồi ra chúng tơi cịn khảo sát một số truyện ngắn, tiểu thuyết của các

thế hệ nhà văn khác để có tư liệu đối sánh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, chúng tôi chủ yếu sử dụng
các phương pháp sau:
- Phương pháp hệ thống - cấu trúc.
- Phương pháp loại hình.
- Phương pháp thống kê, miêu tả.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được triển khai qua 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hình tượng con người trong tiểu thuyết Việt
Nam từ 1986 đến nay.
Chương 2: Đặc điểm của hình tượng con người đi tìm chân lí trong
tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay.
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện hình tượng con người đi tìm chân lí
trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay.


9
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
1.1. Bức tranh chung về tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay
1.1.1. Bối cảnh sáng tạo
Sau cái mốc lịch sử 30/4/1975, chiến tranh kết thúc, đất nước thống
nhất, cuộc sống lại trở về với tất cả những bộn bề, phức tạp như nó vốn có.
Đặc biệt sự khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối những năm 70 và đầu những
năm 80 đã dẫn đến một “cuộc đối chứng” gay gắt giữa thiện và ác, giữa trắng

và đen, giữa tốt và xấu. Trước những yêu cầu sống còn, cấp thiết của đất
nước, Đảng đã khởi xướng phong trào Đổi mới và xác định đường lối đổi mới
toàn diện trong Đại hội Đảng toàn quốc lấn thứ VI (năm 1986). Sự kiện trọng
đại này đã thổi luồng gió mới đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội và đưa tới
nhiều chuyển biến tích cực, quan trọng. Tuy nhiên, nền kinh tế phát triển
nhanh mạnh theo cơ chế thị trường đã kéo theo những hệ lụy khôn lường. Xã
hội ngày càng phức tạp, xô bồ hơn. Cuộc sống đời thường trần trụi, thô mộc
cứ hiện dần ra buộc con người phải đối diện, phải nhận thức. Hơn lúc nào hết,
người đọc khát khao được tiếp nhận những tác phẩm văn học phản ánh đa
diện, đa chiều về đời sống, về con người. Vì thế, yêu cầu “nhìn thẳng vào sự
thật”, nhìn thấu suốt vào bản chất đời sống đã đặt ra cho văn học, đặc biệt là
tiểu thuyết từ sau Đổi mới đến nay. Với những khám phá, sáng tạo và thể
nghiệm trong sáng tác, nghiên cứu, phê bình văn học, trong đội ngũ những
người cầm bút đã hình thành một tư duy nghệ thuật mới trên cơ sở đổi mới
quan niệm nghệ thuật về hiện thực, về con người. Nhiều quan niệm trước đó
vốn được xem là tun ngơn, là lẽ sống, là chân lí thì nay đã được người viết,
người đọc nhìn nhận lại, đánh giá lại một cách thấu đáo, rành mạch hơn. Sự
sơi động cả trong đời sống nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học đầu những


10
năm 80 của thế kỉ này cũng trở thành động lực thúc đẩy sự đổi mới cách viết
của nhà văn.
Hai cuộc kháng chiến của dân tộc kéo dài suốt ba mươi năm đã hun đúc
nên những con người sẵn sàng hi sinh cái tôi cá nhân để viết lên những bản
tráng ca hào hùng cho dân tộc. Điều đó cũng có nghĩa là trong suốt một thời
gian dài, con người phải nén mình, giấu mình, khơng bộc lộ và khơng có điều
kiện bộc lộ cái tơi cá nhân. Đó là khoảng thời gian “đất nước có một tâm hồn,
có cùng khn mặt/ Nụ cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ in nhau” (Chế Lan
Viên). Hơn mười năm hậu chiến, cả dân tộc dường như oằn mình lại, gồng

mình lên để khắc phục những tàn dư của chiến tranh nên cái tơi cá nhân chưa
thực sự phơi lộ hết mình. Cơng cuộc đổi mới của Đảng với tinh thần dân chủ,
nhân văn đã thấm sâu vào từng số phận, từng cuộc đời và đã tạo nên một sự
giải thoát mạnh mẽ cái tôi cá nhân. Con người được soi chiếu một cách tồn
diện: từ khát vọng khẳng định cái tơi đến hành trình khám phá bản ngã. Vì lẽ
đó, văn học thời kì Đổi mới khơng khám phá con người sử thi, con người
cộng đồng, con người “của đám đông” mà đi sâu khám phá con người đời
thường, con người cá nhân, con người “cá tính”.
Song hành với sự phát triển kinh tế là sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật,
sự bùng nổ truyền thông đại chúng. Khoa học kĩ thuật hiện đại, thông tin
truyền thông phát triển đã đưa con người từ mọi nơi trên thế giới xích lại gần
với nhau. Cùng với đó, q trình hội nhập, mở rộng giao lưu văn hóa đã tạo
điều kiện thuận lợi để những người cầm bút được tiếp cận với các phương
pháp, kĩ thuật sáng tác mới và bút pháp hiện đại. Từ sau 1975 nhất là từ sau
1986 đến nay, những tác phẩm văn học của các nhà văn hiện đại thế giới như
F. Kafka, W. Faulkner, Garcia Marquez, Mạc Ngơn… được cơng chúng trong
nước đón nhận bằng niềm hứng khởi. Cũng nhờ đó, tiểu thuyết Việt Nam đã
bứt phá trong cách phản ánh hiện thực, phản ánh cuộc đời.
Dưới ảnh hưởng của q trình tồn cầu hóa, con người vừa phải đối
mặt với những vấn đề bức thiết của dân tộc, vừa phải đối diện với những vấn


11
đề lớn lao của nhân loại. Những thời cơ, thách thức của q trình hội nhập và
những biến thiên khơng ngừng trong cuộc sống của con người trên thế giới ít
nhiều đã ảnh hưởng đến nhận thức, cảm xúc của người dân Việt Nam. Họ
khơng cịn thỏa mãn, hài lịng với cuộc sống như trước mà luôn thắc thỏm, lo
âu, hồi nghi về hiện thực, về lịng người. Những băn khoăn, trăn trở, hoài
nghi về những giá trị của cuộc sống phải chăng xuất phát từ sự khủng hoảng
niềm tin, sự cô đơn của con người trước những biến động của thời đại? Dự

cảm được sự quẫy đạp, vùng vẫy của con người trước cuộc đời đầy bất trắc,
các nhà văn đã chủ động hướng ngịi bút của mình về mọi số phận, mọi cuộc
đời để khám phá, để phát hiện và sáng tạo nên những hình tượng con người đi
tìm chân lí trong trang văn của mình.
Tinh thần đổi mới đã khơi dậy, đã đánh thức cái tôi cá nhân, khát vọng
vượt thốt cái cũ, lần tìm cái mới trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
Những cây bút chân chính khơng chấp nhận, khơng bằng lịng với cách viết
cũ đã mạnh dạn “nghi ngờ” những chân lí tưởng như là vĩnh viễn. Họ nhanh
chóng nhận ra lối mịn trong sáng tạo nghệ thuật, nhanh chóng nhận ra sự mất
tự do của người cầm bút trong chiến tranh. Nhận thấy nhà văn Cách mạng
đang “tự do” bước đi trong cái “hành lang hẹp và thấp” nên các tiểu thuyết gia
đương đại Việt Nam quyết liệt đổi mới tư duy, đổi mới quan niệm nghệ thuật,
đổi mới hình thức thể hiện.
Có thể nói, bối cảnh lịch sử - xã hội sau 1986 là luồng gió, là cánh cửa
mở ra một chân trời nghệ thuật mới cho văn học nói chung và tiểu thuyết
Việt Nam nói riêng. Tiểu thuyết với khả năng chiếm lĩnh hiện thực đã trở
thành đối tượng của hành trình khám phá, sáng tạo, kiếm tìm của nhà văn,
của các nhà nghiên cứu phê bình và của người đọc. Những chuyển hướng,
những cách tân của tiểu thuyết góp phần tạo dựng nên những thành tựu cho
văn học Việt Nam đương đại và góp phần đem lại những thành tựu trong
công cuộc đổi mới đất nước.


12
1.1.2. Sự đa dạng về đề tài, chủ đề
Từ sau thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, ở các nước phương Tây, tiểu
thuyết đã trở thành một thể loại văn học chủ đạo, như một chiếc “máy cái” kết
tinh những thành tựu của một thời đại văn học. Tiểu thuyết là "Tác phẩm tự
sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian
và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những

bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp,
tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [32, 222-223]. Tiểu thuyết có khả năng phản
ánh bức tranh hiện thực đời sống rộng lớn cũng như đi sâu vào đời sống tâm
hồn con người. Nhà văn có thể đề cập đến những vấn đề lớn mang tầm dân
tộc, quốc gia cũng có thể chỉ đi vào những vấn đề cơm áo, mưu sinh trong
mỗi cuộc đời.
Là một thể loại văn học “sinh sau đẻ muộn”, tiểu thuyết không bị ràng
buộc bởi những quy định khuôn mẫu như một số thể loại khác, vì “tự bản chất
nó vốn khơng có tính quy phạm. Đó là hiện thân của sự uyển chuyển, đó là
một thể loại ln ln đi tìm, ln ln nghiên cứu bản thân và ln ln sốt
lại tất cả những hình thức đã hình thành của mình” [24, 500]. Tiểu thuyết có
khả năng khám phá cuộc sống nhiều chiều và thể hiện sức tưởng tượng phong
phú của nhà văn.
Từ 1986 đến nay, khơng khí dân chủ trong đời sống xã hội đã châm
ngòi cho đời sống văn học bùng lên mạnh mẽ. Hịa vào nhịp độ hối hả, sơi
động của cuộc sống, tiểu thuyết giai đoạn này đã chuyển mình, vươn vai đứng
lên. Chưa bao giờ trên văn đàn Việt Nam xuất hiện nhiều tiểu thuyết với sự đa
dạng thể tài đến thế. Tiểu thuyết Việt Nam từ cảm hứng sử thi, cảm hứng ngợi
ca chuyển sang cảm hứng chiêm nghiệm quá khứ. Vì thế, trong cuộc sống
hiện đại, dư âm về một thời đạn lửa vẫn còn vang trong trái tim mỗi con
người. Cuối những năm 80 đến nay, hàng loạt tiểu thuyết như: Nỗi buồn chiến
tranh (Bảo Ninh), Góc tăm tối cuối cùng (Khuất Quang Thụy), Ăn mày dĩ


13
vãng (Chu Lai), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Bến đò xưa lặng lẽ (Xuân
Đức), Cao hơn bầu trời (Văn Lê) ra đời… đã khẳng định chiến tranh vẫn là
nguồn cảm hứng lớn của văn học nghệ thuật. Viết về chiến tranh nhưng hầu
như các tiểu thuyết chủ yếu phơi bày những nghịch lí, phơi bày những số
phận, cảnh ngộ của con người trong và sau chiến tranh. Như vậy, chiến tranh

được nhìn nhận từ nhiều chiều, được soi chiếu trong nhiều mối quan hệ, đúng
như nhà văn Hữu Mai khẳng định: “Tác phẩm viết về chiến tranh đã mang
những sắc thái mới. Một số đi vào những đề tài rộng lớn của chiến tranh, một
số lại có xu hướng khai thác những bình diện chưa được đề đến nhiều trong
những tác phẩm trước đây như: cái đau thương, cái mất mát, ác liệt, cái thấp
hèn, những vấn đề thuộc đạo đức trong chiến tranh” [57, 93].
Nếu tiểu thuyết sau 1975 chủ yếu chuyển hướng đề tài thì tiểu thuyết
sau Đổi mới tập trung nới rộng đề tài. Có những vấn đề văn học trước Cách
mạng đã khai phá thì đến nay các cây bút tiểu thuyết lại tiếp tục đào xới như
đề tài về cuộc sống nông thôn mới. Đây là những vấn đề đã xưa cũ song lại
được làm mới, làm khác nên người đọc vẫn được tận hưởng những bức tranh
đời sống nông thôn muôn màu. Những tác phẩm viết về đời sống nông thôn
như Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không
chồng của Dương Hướng, Lời nguyền hai trăm năm của Khôi Vũ, Chuyện
làng Cuội của Lê Lựu, Ba người khác của Tơ Hồi… khi mới xuất hiện đã
thực sự tạo ra những chấn động lớn trong đời sống văn học nước nhà. Một số
nhà văn tập trung miêu tả số phận nghiệt ngã của người phụ nữ nông thôn để
soi chiếu vào đời sống hậu phương thời chiến, thời hậu chiến. Trong mạch
cảm xúc viết về nơng thơn, có nhà văn lại hướng ngịi bút của mình vào vấn
đề nhân cách, đạo đức con người bị bào mịn, bị tha hóa bởi sự xơ bồ của
cuộc sống. Có khi đó lại là bức tranh đời sống nơng thơn qua hình ảnh, qua
cách hành xử sai lầm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong cải cách ruộng đất…
Viết về cuộc sống nông thôn mới, tiểu thuyết Việt Nam đã trực diện lột trần


14
những hiện tượng tiêu cực, trực diện lật xới những vấn đề nhức nhối, bức
bách của xã hội.
Cuộc sống sôi động, hối hả nhất và cũng phức tạp, gai góc nhất chính
là ở những vùng đơ thị. Ở đó con người nhanh chóng hịa mình vào một xã

hội hiện đại, năng động, và con người cũng dễ dàng tiếp cận với những mặt
trái của xã hội. Hòa cùng nhịp điệu sôi động của cuộc sống, bằng nỗ lực
sáng tạo không ngừng, các nhà văn giai đoạn này đã bóc mẽ bức tranh đời
sống ở những vùng đô thị mới. Với khả năng “tung hồnh khơng bờ”, với
khả năng ơm trùm mọi sự kiện, tiểu thuyết sau Đổi mới đã đi vào những vấn
đề nổi cộm của đời sống thị thành. Đó là cuộc sống tù túng, ngột ngạt của
người dân nghèo thành thị với những nghịch cảnh trớ trêu. Đó là bức tranh
đô thị bề bộn, nhếch nhác mà ở đó người trí thức ln khát khao thay đổi
cuộc đời. Đó là những góc khuất của các gia đình trong “phố nhà binh”,
trong “ngõ lỗ thủng”… Có thể liệt kê tên tuổi những nhà văn viết nhiều, viết
sâu về đề tài có sức hấp dẫn này: Chu Lai, Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Hồ
Anh Thái… Qua tiểu thuyết viết về đơ thị, người đọc cảm nhận được sự mệt
nhồi, sự rã rời của con người trong cuộc mưu sinh, trong cuộc tiến thân đầy
nhọc nhằn, bất trắc.
Trong văn xuôi trước 1975, đề tài miền núi, con người miền núi được
các nhà văn khai phá với âm hưởng ngợi ca hào hùng. Trong âm vang của
cảm hứng sử thi, hình ảnh người dân miền núi ln gắn với lợi ích tập thể và
vận mệnh dân tộc. Sau Đổi mới, với cái nhìn đa diện, nhiều chiều về con
người, hệ thống nhân vật miền núi được soi chiếu ở những nét cá tính riêng
biệt. Những tiểu thuyết Họ Giàng ở Phìn Sa (Tơ Hồi), Đồng bạc trắng hoa
xịe, Miền biên ải (Ma Văn Kháng), Hoa hậu xứ mường (Phượng Vũ)… đã
hướng đến khai thác cuộc sống, phong tục của vùng biên ải xa xơi. Đó là một
bức tranh hiện thực tăm tối, bức bí, ngột ngạt chứa nhiều xung đột dữ dội mà
con người phải chấp nhận, phải đối diện.


15
Đặc điểm nổi bật của văn học Việt Nam từ 1986 đến nay là nhận thức
lại lịch sử, nhận thức lại quá khứ và giải thiêng thần tượng. Do vậy đề tài lịch
sử rất được công chúng quan tâm, mong đợi. Hàng loạt tiểu thuyết lịch sử ra

đời nhằm đáp ứng ước vọng của công chúng văn học như: Giàn thiêu (Võ Thị
Hảo), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Hội thề (Nguyễn Quang Thân),
Nguyễn Du, Thông reo ngàn Hống (Nguyễn Thế Quang)… Nhân vật lịch sử
trong tiểu thuyết đương đại được soi chiếu ở phương diện con người đời
thường, con người “tiểu thuyết” chứ không phải là con người sử thi mang
dáng dấp, tư thái, phẩm chất thiêng liêng, cao quý.
Chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết hậu - hiện đại thế giới, những nhà văn
thuộc thế hệ Đổi mới đã tạo nên một cuộc cách tân về đề tài, chủ đề tiểu
thuyết. Họ đã đào sâu vào cái tôi cá nhân với những vùng tối, vùng mờ tâm
linh, với thế giới tiềm thức, vô thức của con người. Đây là “vùng lãnh địa”
tuôn trào nguồn cảm hứng cho những cây bút vững vàng, bản lĩnh như Bảo
Ninh, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Đình Tú…
Nhìn tổng thể văn học Việt Nam từ 1986 đến nay, lần nữa có thể khẳng
định tiểu thuyết Việt Nam từ sau Đổi mới đã xuyên qua nhiều “vùng đất”,
nhiều “lãnh địa” để đưa đến cho công chúng một sự phong phú về đề tài, chủ
đề. Đa dạng cả về phương pháp sáng tác và phương thức tiếp cận hiện thực,
tiểu thuyết thời kì này đã phản ánh chân lí cuộc sống và tạo nên những cảm
hứng thẩm mĩ trong sáng cho người đọc, “góp phần giải quyết những vấn đề
sống cịn của đất nước, của Chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng quan tâm đến số
phận những cá nhân, đấu tranh cho những mục tiêu của chủ nghĩa nhân đạo
chân chính” [24, 76].
1.1.3. Sự đổi mới về kĩ thuật và bút pháp
Từ những khám phá có chiều sâu về bức tranh xã hội, về đời sống tâm
linh và cả những phần vô thức trong con người, các nhà văn hiện đại Việt
Nam đã khơng cịn “trói mình” trong thi pháp truyền thống mà vươn tới thi


16
pháp hiện đại. Một khi đã chấm dứt cách viết hời hợt về đất nước, về lịch sử,
về con người, tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã dịch chuyển, đổi mới và đa

dạng hóa kĩ thuật, bút pháp thể hiện để đến với những thể nghiệm mới.
Theo Mai Hải Oanh, bút pháp linh hoạt trong tiểu thuyết hiện đại trước
hết là bút pháp tả thực mới. Đó có thể là cái nhìn khách quan, cái nhìn giễu
nhại được nhà văn sử dụng triệt để để soi chiếu hiện thực đa diện, nhiều
chiều. Nhờ đó, tiểu thuyết đã đem đến cho người đọc những thông tin chân
thực và thẩm mĩ về cuộc sống. Nếu như những tiểu thuyết nổi tiếng của Trung
Quốc như: Một nửa đàn ông là đàn bà của Trương Hiền Lượng, Báu vật của
đời của Mạc Ngôn, Trường hận ca của Vương An Ức… nhận thức lại những
bi kịch, nhận thức lại thời kì đen tối, tang tóc nhất trong cuộc cách mạng văn
hóa thì Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Ba người khác
(Tơ Hồi), Chuyện làng Cuội (Lê Lựu)… cũng nhận thức lại sự giáo điều, rập
khn, ấu trĩ dẫn đến những tình cảnh oái ăm trong cải cách ruộng đất. Thời
xa vắng (Lê Lựu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Bến không chồng
(Dương Hướng)… lột trần bản chất của chiến tranh, phản ánh cuộc sống tăm
tối, bế tắc của con người cả hai bên chiến tuyến.
Trong q trình vượt thốt khỏi cái “hành lang hẹp và chật” của văn
học trước đó, nhiều nhà văn đã sử dụng bút pháp huyền thoại để chuyển tải
những thông điệp cuộc sống. Dưới bút pháp huyền thoại ấy, những hình
tượng trong tiểu thuyết đều mang tính ẩn dụ, tượng trưng. Nguyễn Xuân
Khánh trong Hồ Quý Ly, Võ Thị Hảo trong Giàn thiêu… mượn yếu tố kì ảo
để giải thiêng lịch sử. Phạm Thị Hoài trong Thiên sứ, Hồ Anh Thái trong Cõi
người rung chuông tận thế, Tạ Duy Anh trong Thiên thần sám hối, Giã biệt
bóng tối… sử dụng huyền thoại để soi chiếu hiện thực đa tầng, đa sự.
Trong suốt một thời gian dài, tiểu thuyết được thể hiện bằng giọng điệu
trang trọng, hào sảng. Sau Đổi mới, văn học trở lại nhận chân giá trị cuộc
sống, bản chất con người nên bút pháp trào lộng được dịp phát huy tác dụng.


17
Trong Thời xa vắng, Lê Lựu đã viết về một thời chưa xa với những nỗi cay

đắng, bi hài trong cuộc đời của Giang Minh Sài. Ở Cõi người rung chuông
tận thế, Hồ Anh Thái bỡn cợt, bông đùa mà xót đau trước những bi hài kịch
đang diễn ra trong cuộc sống, xót đau cho cái xã hội tồn tại kiểu gia đình mà ở
đó người mẹ và con gái đã “lập thành tích” “rước giai” về nhà.
Cùng với những bút pháp nghệ thuật khác, bút pháp tượng trưng lôi
cuốn người đọc khi tạo ra chiều sâu và vẻ đẹp lung linh của hình tượng. Trong
tiểu thuyết hiện đại thế giới, hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng thường nương náu
trong những chi tiết, hình tượng độc đáo, mới mẻ thậm chí phi lí. Trong Biến
dạng, F. Kafka xây dựng chi tiết G. Samsa vốn là một nhân viên mẫn cán
bỗng biến thành một con côn trùng khổng lồ. Chi tiết G. Samsa biến thành
con bọ là một hình tượng ẩn dụ bi đát về sự tha hóa, vật hóa của con người.
Lối viết ấy đã được lặp lại trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam. Trong Cõi
người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái), chi tiết cô bé Mai Trừng nhìn vào
ai cũng làm người đó sợ hãi. Kẻ ác khiếp sợ trước ánh mắt của cô, người nhân
hậu cũng không thể gần cô. Chi tiết mang màu sắc ẩn dụ có khả năng chuyển
tải những thơng điệp đầy nhân văn: cuộc sống cần sự hóa giải hận thù và cái
thiện có sức sống mãnh liệt.
Thành cơng của tiểu thuyết còn được thể hiện trong việc đổi mới kĩ
thuật sáng tác. Trong những chặng đường đổi mới văn học, một số nhà văn
chỉ cần thêm “gia vị” cho tác phẩm của mình bằng kĩ thuật dịch chuyển điểm
nhìn trần thuật để đào sâu hơn vào đời sống nội tâm nhân vật. Với sự kết hợp
tinh tế giữa cái nhìn bên ngồi với bên trong, điểm nhìn từ xa đến gần, từ rộng
đến hẹp…, nhiều tác phẩm đã tạo nên một bức tranh tự sự mn màu sắc. Với
điểm nhìn được phản ánh qua nhiều nhân vật, Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt
Hà) đã tạo nên một trường nhìn khách quan, chân thật về những mảnh đời,
những số phận con người.
Từ những năm cuối thế kỉ XX đến nay, văn đàn Việt Nam lại sôi động
hẳn lên bởi sự xuất hiện của những cây viết lạ: Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy



18
Anh, Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái, Thuận, Đoàn Minh Phượng, Nguyễn
Đình Tú… Những sáng tác của họ có thể chưa phải là những tuyệt tác nhưng
đã tạo tiếng vang trong dư luận, tạo sự phân lập sâu sắc trong sự đánh giá của
công chúng. Quan niệm “tiểu thuyết như là trò chơi” của một số nhà văn
thuộc thế hệ Đổi mới đã giải phóng tiểu thuyết khỏi tính chất giáo huấn, trang
nghiêm để lựa chọn kĩ thuật pha trộn thể loại trong kết cấu. Với kĩ thuật này,
một tác phẩm có thể dung chứa nhiều thể loại như thơ, tự truyện, nhật kí…
trong nó. Phiên bản của Nguyễn Đình Tú có sự hịa trộn của kinh thánh, lí
thuyết tội phạm học, bản tin và tiểu thuyết. Những đứa con rải rác trên đường
của Hồ Anh Thái kết hợp hài hịa giữa tiểu thuyết với sự hồi tưởng trong nhật
kí, cảm xúc trong viết thư…
Kĩ thuật lắp ghép trong kết cấu cũng được nhiều nhà văn chuyên dùng. Sự
lắp ghép thể hiện khá rõ trong việc nhà văn tạo ra những khoảng trống, khoảng
trắng của không gian, thời gian rồi xâu chuỗi lại, liên kết lại tạo ra dư ba, ám ảnh
người đọc. Những đứa con rải rác trên đường của Hồ Anh Thái có kết cấu tưởng
như lỏng lẻo nhưng lại rất logic, là sự lắp ghép của ba câu chuyện về cuộc đời
anh lính lái xe gắn với những cuộc tình “rải rác trên đường”.
Góp phần tạo nên sắc thái, diện mạo mới mẻ của tiểu thuyết là kĩ thuật
đồng hiện không - thời gian. Đồng hiện được dùng để giảm bớt những quy
chiếu không gian, thời gian trong quá khứ và để các thời điểm khác nhau, các
không gian khác nhau hiện lên cùng lúc. Trong Lão Khổ của Tạ Duy Anh, ba
khoảnh khắc thời gian cùng tồn tại trong sự việc lão Khổ ngồi uống rượu mà
hồi tưởng về quá khứ, mộng tưởng về tương lai. Sự chồng xếp của các không
gian cũng được hiện diện: Tại phiên tòa, tiếng vỗ tay rần rật của mọi người
khi ơng Bùi - Bí thư huyện - kết thúc bài diễn văn đã gợi cho lão Khổ nhớ về
“tiếng vỗ tay thành nhịp” ở không gian Hội nghị của hai mươi năm trước.
Nhiều nghệ sĩ chân chính khơng bằng lịng với những gì bản thân tạo
dựng nên đã đổi mới cách viết bằng kĩ thuật dòng ý thức. Dòng ý thức biểu



19
hiện trong tác phẩm văn học có thể là những giấc mơ đứt mạch, là miền kí ức
triền miên, là dòng suy tư bất định của con người về thế thái nhân tình.
Nguyễn Minh Châu trong Phiên chợ Giát đã mở đầu cho kĩ thuật dòng ý thức
khi xây dựng hình tượng lão Khúng. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước
nhà, người nơng dân đắm chìm trong những suy tư về quãng đời nhọc nhằn,
về cuộc sống, về thân phận người lao động. Trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo
Ninh đi sâu vào thế giới ảo giác. Chính những giấc mơ của Kiên đã giúp anh
hồi tưởng về Phương - người yêu đầu đời, về người cha đẻ, về cuộc chiến tàn
khốc. Kĩ thuật dịng ý thức xốy sâu, luồn sâu vào đời sống tâm linh, thế giới
tiềm thức, vô thức của con người. Đây quả là một lối viết, một cách viết được
đánh giá cao, là “kĩ xảo của tiểu thuyết hiện đại” (Lê Huy Tiêu).
Từ 1986 đến nay, tiểu thuyết Việt Nam nhiều lần “gây hấn”, “gây sốc”
đối với công chúng khi quyết liệt, mạnh mẽ đổi mới cách viết. M. Bakhtin từng
tiên đoán rằng: tiểu thuyết có sức sống mãnh liệt, trường tồn trong thế giới văn
học nghệ thuật. Quả thật, ba mươi năm qua, trong vòng quay của sự đổi mới,
tiểu thuyết Việt Nam đã trở thành nhân vật chính, nhân vật trung tâm của nền
văn học nước nhà. Có được vị trí xứng đáng như thế là nhờ sự đổi mới và đa
dạng hóa kĩ thuật, bút pháp thể hiện của tiểu thuyết sau 1986 đến nay.
1.2. Hình tượng con người trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay
1.2.1. Sự đổi mới và đa dạng hóa quan niệm nghệ thuật về con người
Văn học là cơng trình nghệ thuật mà ở đó nhà văn lấy việc “khắc họa
hình tượng con người” để khám phá, nhìn nhận thế giới quan, nhân sinh quan.
Vì thế, quan niệm nghệ thuật về con người là một khái niệm, một vấn đề được
giới nghiên cứu, phê bình đặc biệt quan tâm. Các tác giả: Lê Bá Hán - Trần
Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) trong Từ điển thuật ngữ văn học
cho rằng “Quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người thể hiện ở điểm
nhìn nghệ thuật, ở chủ đề cảm nhận đời sống được hiểu như những hằng số
tâm lí của chủ thể, ở kiểu nhân vật và biến cố mà tác phẩm cung cấp, ở cách



20
xử lí các biến cố và quan hệ nhân vật” [32, 184]. Cách hiểu này đã khẳng định
việc khám phá, khai thác hình tượng con người chính là điểm xuất phát để
độc giả từ đó đi đến chiếm lĩnh tác phẩm. Trần Đình Sử trong Giáo trình dẫn
luận thi pháp học đã viết: “Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lí giải,
cắt nghĩa, cảm thấy con người được hóa thân thành các nguyên tắc, phương
tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học tạo nên giá trị nghệ thuật và
thẩm mĩ cho các hình tượng nhân vật đó” [75, 54]. Khái niệm này càng khẳng
định con người là đối tượng của mọi hình thức thể hiện, là hình tượng trung
tâm có tính thẩm mĩ cao trong văn học. Con người khi được nhìn qua lăng
kính của một tâm hồn nghệ sĩ, một trái tim đa cảm, một ánh mắt hiện thực
trong từng giai đoạn văn học sẽ trở thành “người phát ngôn” tư tưởng của thời
đại, “người phát ngôn” tư tưởng của nhà văn. Thông qua cách xây dựng, cắt
nghĩa về con người, về những vấn đề liên quan đến con người trong tác phẩm
có thể khẳng định vị thế, khẳng định tầm vóc của một nền văn học. Hình
tượng con người chìm đắm trong cơ đơn, bị tha hóa, bị rơi vào khủng hoảng
tinh thần; hình tượng con người đầy mặc cảm, âu lo trước hiểm họa của xã
hội hậu công nghiệp trong sáng tác của F. Kafka, của A. Grillet đã phần nào
gợi ra vị trí, giá trị của chủ nghĩa nhân văn thế giới thế kỉ XX - XXI. Trong
mỗi con người đã hàm chứa bao giá trị của cuộc sống: mạnh mẽ và yếu đuối,
lạc quan và yếm thế, nhân ái và hận thù, hạnh phúc và dở dang… Văn học đủ
khả năng để khơi dậy những vẻ đẹp, những tiềm ẩn, những giá trị trong con
người mà không phải ngành khoa học nào cũng có thể khám phá. Trong thế
giới nghệ thuật đầy ngổn ngang ấy, con người luôn là đối tượng nổi bật để
chuyển tải quan niệm thẩm mĩ, quan niệm nhân sinh của nhà văn. Qua văn
học, con người được soi chiếu, được phản ánh và được nhận ra chính mình.
Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người đồng hành với quá trình
đổi mới quan niệm về hiện thực, thể hiện rõ tính chất thời đại trong đó. Thời

trung đại, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, chịu sự chi phối của quan


×