Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tài liệu Đề tài “NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ THỊ TRƯỜNG GIẦY DA VIỆT NAM” ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.87 KB, 32 trang )

Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Học viện ngân hàng
~~~~~~*****~~~~~~
BÀI THẢO LUẬN
Môn: Tài trợ dự án đầu tư
Đề tài:
“NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ THỊ TRƯỜNG GIẦY
DA VIỆT NAM”
Giáo viên hướng dẫn:
Nhóm thực hiện: lớp TTQTD – K10
Khoa: Ngân hàng

Hà Nội – 2010
MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................................2
Nhóm thực hiện
1. Lê Văn Khanh
2. Nguyễn Hùng Sơn
3. Nguyễn Văn Hộ
4. Nguyễn Ngọc Hiếu
5. Nguyễn Thị Thân Thương
6. Trần Minh Khôi
7. Hồ Văn Báo
8. Vũ Quang Huy
9. Khổng Thế Anh
Tài liệu tham khảo
Giáo trình: Tài trợ dự án - nhà xuất bản Học Viện Ngân Hàng
Các tạp chí: thời báo kinh tế, ngân hàng, đầu tư
Các website : Viettrade.gov.vn
Tinkinhte.com
vietbao.vn


lefaso.org.vn
vntrades.com
vneconomy.vn
Phần 1: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tác động
rất lớn tới mọi ngành kinh tế của nước ta. Gia nhập WTO có nghĩa là chúng
ta bước sâu hơn vào sân chơi kinh tế thế giới, tạo ra cho chúng ta nhiều cơ
hội để phát triển kinh tế, đặc biệt là cánh cửa xuất khẩu được mở rộng hơn.
Bước vào sân chơi WTO tạo ra những cơ hội lớn song nhiều
người đã lo ngại việc xuất khẩu của Việt Nam. Các doanh nghiệp xuất khẩu
Việt Nam sẽ gặp khó khăn khi cạnh tranh với các doanh nghiệp xuất khẩu
cuả nước ngoài, đặc biệt là các quốc gia có các mặt hàng tương đồng với
chúng ta.
Trong các mặt hàng xuất khẩu của nước ta. Ngành công nghiệp Da
giầy luôn được đánh giá là một trong ba ngành hàng có giá trị XK cao nhất,
chỉ sau ngành dầu khí và dệt may. Kim ngạch XK của ngành đạt tốc độ phát
triển cao, luôn chiếm 10% trong tổng kim ngạch XK của quốc gia. Hiện nay,
da giay VN được xếp trong top 10 nước xuất khẩu hàng đầu vào thị trường
25 nước EU và Mỹ (hai thị trường tiêu thụ giầy dép lớn nhất thế giới). ở khu
vực châu Á, Nhật Bản đang là một trong những thị trường XK giày dép lớn
nhất của VN. Chúng ta đứng thứ ba trong số các nước XK giay dép lớn nhất
vào Nhật Bản, chỉ sau Trung Quốc và Italia.
Với dân số hơn 86 triệu dân, Việt Nam cũng là một thị trường tiêu thụ
lớn về sản phẩm giầy da. Thị trường lao động dồi dào, phù hợp cho việc phát
triển các loại sản phẩm từ giầy da. Bởi đặc trưng của nghành này là cần
nhiều lao động.
Với những đóng góp to lớn cho đất nước và những tiềm năng phát
triển trong tương lai, lĩnh vực giầy da đã gây sự chú ý và quan tâm của các
nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đây là lý do thu hút chúng tôi đến với thị
trường này.

Phần 2: NỘI DUNG CHÍNH
I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG GIẦY DA
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU
Việt Nam được xếp hạng là một trong 10 nước xuất khẩu hàng
đầu trên thị trường quốc tế hiện nay về da giày (xếp thứ 4 về xuất khẩu giày
dép), riêng ở thị trường EU, Việt Nam xếp thứ hai sau Trung Quốc.
Kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam có mức tăng
trưởng trung bình hàng năm 16%, đạt 3,96 tỉ USD năm 2007, đứng thứ 3 sau
ngành dệt may và dầu khí. Kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại năm 2008
đạt 4,7 tỉ USD. Dự báo đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm
ngành da giày Việt Nam sẽ đạt 6,2 tỉ USD.
Số liệu kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam năm 2008

Về năng lực sản xuất, năng lực sản xuất của toàn ngành đạt:
- Năm 2007:
+ Giày dép các loại: 680 triệu đôi
+ Cặp túi xách các loại: 88 triệu chiếc
+ Da thuộc thành phẩm: 150 triệu feet vuông
- Năm 2008:
+ Giầy dép các loại: 750,00 triệu đôi
+ Cặp túi xách: 88,00 triệu chiếc
+ Da thành phẩm: 130,00 triệu feet vuông
Năng lực sản xuất của ngành năm 2007 đã đạt trên 90% mức
năng lực được đầu tư, có mức tăng trưởng mạnh trong 7 năm liên tiếp với
mức tăng trung bình đạt 10%/năm trên 2 loại sản phẩm chính là giày dép và
túi cặp các loại. Riêng sản phẩm da thuộc đạt mức tăng trưởng trung bình
khoảng 20%/năm. Mặt hàng chủ lực của ngành vẫn tập trung chủ yếu vào
giày thể thao, chiếm khoảng 51% năng lực sản xuất các sản phẩm giày dép
của ngành, phù hợp với xu thế tiêu dùng của thị trường xuất khẩu.
Năm 2009, ngành da giày Việt Nam xuất khẩu gần 4,1 tỷ USD, giảm

khoảng 13% so với năm 2008. Sự sụt giảm về kim ngạch chủ yếu do xuất
khẩu vào thị trường Mỹ giảm (năm 2009 chỉ đạt khoảng 1,1 tỷ USD, trong
khi năm 2008 đã đạt tới 1,5 tỷ USD). Với thị trường Liên minh châu Âu,
năm 2008, xuất khẩu da giày đạt 2,2 tỷ USD và năm 2009 vẫn đạt xấp xỉ 2,1
tỷ USD.
Xuất khẩu da giày của Việt Nam ra thị trường thế giới có Bắc Mỹ (Mỹ,
Mehico và Canada), 27 nước của Liên minh châu Âu và Liên bang Nga,
Đông Âu. Thị trường nhập khẩu rất lớn. Trong khi đó 5 nước xuất khẩu của
châu Á luôn cạnh tranh với nhau: Trung Quốc (chiếm khoảng 50%), Việt
Nam hiện ở vị trí thứ hai, tiếp đến là Ấn Độ, Indonesia và Bangladesh. Tổng
lượng sản xuất của 5 nước hiện đạt trên 80% dung lượng giày cần nhập khẩu
trên thị trường toàn thế giới.
Theo thống kê của LEFASO thì hiện tại có 185 hội viên là các doanh
nghiệp (DN) đang kinh doanh các mặt hàng về da giày (bao gồm giầy, thuộc
da, nguyên phụ liệu, cặp, túi xách, sữa chữa máy móc thiết bị) trong nước,
trong đó có 3 DN nhà nước, 103 DN ngoài quốc doanh, 9 DN liên doanh với
nước ngoài, 20 DN 100% vốn nước ngoài, 47 công ty cổ phần và 3 công ty
TNHH Nhà nước một thành viên.
Ngành da giày thế giới tiếp tục có xu hướng chuyển dịch sản
xuất sang các nước đang phát triển, đặc biệt hướng vào các nước có môi
trường đầu tư thuận lợi, chính trị ổn định và an toàn. Khi Việt Nam chính
thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới, hàng rào thuế quan dần được dỡ
bỏ, cùng với các chính sách thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu của Chính phủ,
Việt Nam sẽ trở thành một địa điểm đầu tư lý tưởng cho các nhà sản xuất da
giày..
Hiện nay, giày dép của Việt Nam đã có mặt trên hơn 50 nước trên
khắp châu lục. Thị trường xuất khẩu tiềm năng của nhóm mặt hàng này là
các nước phát triển có sức mua lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc,
Hồng Kông, Hàn Quốc, Canada, Australia. Bên cạnh đó, còn có thể khai
thác các thị trường có sức mua không lớn nhưng chấp nhận hàng hoá phù

hợp với năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam như Indonesia,
Malayxia, Trung Đông, Châu Phi, Nam Á, Nga, các nước Đông Âu cũ…
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế rằng năng lực xuất
khẩu của ngành da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn
chưa cao do mẫu mã chưa đẹp, chưa tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong
nước, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn chế,
giá thành chi phí sản xuất cao, ưu thế về nhân công lao động tuy vẫn là nhân
tố cạnh tranh, nhưng không còn thuận lợi như trước đây. Theo nhận định của
các chuyên gia kinh tế thì dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng lợi
nhuận thu về từ ngành này chỉ đạt mức 25% giá trị gia tăng, vì ngành này
chủ yếu vẫn là lấy công làm lãi.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội và thách thức đối
với sự phát triển của ngành da giày:
Gia nhập WTO tạo cho ngành da giày Việt Nam gia tăng các luồng
chuyển giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy giao lưu văn
hoá, trí tuệ, củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, phát triển văn minh
vật chất và tinh thần tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển thị trường
quốc tế. Song, hội nhập cũng mang lại không ít khó khăn và thách thức. Các
doanh nghiệp sản xuất giày da Việt Nam đang gặp phải cạnh tranh gay gắt từ
các thế lực kinh tế mạnh trong khu vực và quốc tế như Brazil, Trung Quốc
và một số nước ASEAN.
II. PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG
CƠ HỘI
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần thúc đẩy các cơ hội phát
triển ngành da giày, việc chuyển giao công nghệ theo chu kỳ nhanh hơn phù
hợp với yêu cầu khắt khe của thị trường. Việc gia nhập tổ chức mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA) tạo điều kiện việc giao lưu hàng hoá thông suốt, ít cản
trở, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, ưu đãi về thuế quan tạo điều kiện cho
ngành hàng da giày thâm nhập vào thị trường khu vực.
Các thị trường XK giày dép VN năm 2008

EU 54%
Mỹ 23%
Đông Á 8%
Các nước khác 15%
Ngành da giày là ngành sử dụng nhiều lao động xã hội. Tính đến hết
năm 2008, toàn ngành đã thu hút 610.000 lao động (chưa kể số lao động sản
xuất trong lĩnh vực nguyên phụ liệu và lao động tại các cơ sở nhỏ, các hộ gia
đình và các làng nghề có thể lên tới hơn 1 triệu lao động) chiếm 9% lực
lượng lao động công nghiệp. Đây có thể được coi là lợi thế so sánh với mức
chi phí nhân công thấp.
Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt
đầu được chú trọng. Toàn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng
cường tuyên truyền và quảng bá hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như
một quốc gia sản xuất và xuất khẩu da giày tiềm năng, nâng cao năng lực
hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị trường, phòng ngừa các vụ kiện bán phá
giá và vận dụng luật để đấu tranh trong các vụ tranh chấp thương mại.
Phương thức bán hàng tại các doanh nghiệp đã có nhiều đổi mới, hình thành
nhiều mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các kênh phân phối của các
tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức thương mại điện tử.
Với dân số trên 80 triệu dân là một thị trường đầy tiềm năng
cho thị trường nội địa. Mặt khác, với đời sống ngày càng được nâng cao, khả
năng mua sắm của xã hội ngày càng được cải thiện, đất nước ngày càng hội
nhập sâu rộng vào thế giới làm cho ngành du lịch phát triển là những cơ hội
để ngành da giày phát triển theo hướng xuất khẩu trực tiếp ngay trên sân
nhà.
Chế độ xã hội ổn định và đang tạo nhiều cơ hội thuận lợi
cho doanh nghiệp phát triển thông qua cơ chế chính sách phù hợp với tình
hình trong nước và thông lệ quốc tế.
Về thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu da giày Việt Nam
ngày càng được mở rộng và ổn định cụ thể:

Thị trường EU:
Trong những năm vừa qua, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào
EU tăng trưởng nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hết năm
2008, EU vẫn là thị trường lớn nhất tiêu thụ giày dép của Việt Nam với
doanh thu 2,5 tỉ USD, tăng 33,9% so với năm 2006 và chiếm 54% tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam.
Thị trường Mỹ:
Năm 2004, Việt Nam đã vượt Italia và trở thành nhà
cung cấp lớn thứ tư sau Trung Quốc, Brazil, Indonesia. Trong năm 2008,
xuất khẩu vào Mỹ 1 tỉ USD, tăng 30% so với năm 2006. Tháng 1/2009, xuất
khẩu giày dép vào Mỹ giảm 0,07% so với năm 2008, đạt 86,3 triệu USD,
mặc dù vậy, đây vẫn là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của toàn ngành.
Hiện nay và trong những năm tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu mục tiêu
đối với sản phẩm giày dép của Việt Nam và các sản phẩm xuất khẩu chính
sẽ là giày thể thao, giày da nam nữ.
Thị trường các nước Đông Á:
Đây là khu vực thị trường có những phong tục tập quán tương
đối giống Việt Nam, cùng nằm ở khu vực châu Á. Các sản phẩm chủ yếu
xuất khẩu từ Việt Nam sang các thị trường này là giày thể thao, giày da nam
nữ, dép đi trong nhà. Năm 2008, xuất khẩu vào: Nhật Bản đạt 137,6 triệu
USD, Trung Quốc đạt 107,2 triệu USD, Hàn Quốc đạt 64,3 triệu USD.
THÁCH THỨC
Thách thức trước hết phải kể đến là sự cạnh tranh khốc liệt của
Trung Quốc, một đất nước có thế mạnh về mặt hàng giày dép. Gần đây
Trung Quốc là có thêm lợi thế với việc gia WTO. Mặt hàng giày dép xuất
khẩu của Trung Quốc có ưu thế hơn giày dép xuất khẩu của Việt Nam do
trình độ công nghệ của Trung Quốc tiên tiến hơn, mẫu mã của họ đẹp và đa
dạng hơn.
Tuy sức mua của thị trường truyền thống (EU) vẫn giữ ở mức ổn định
nhưng Việt Nam bị chịu nhiều sức ép hơn về thuế và các rào cản so với một

số nước như Brazil, Indonesia... đặc biệt từ ngày 6 tháng 10 năm 2006, EU
áp thuế chống bán phá giá giày mũ da sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu sang
EU là 10%.
Xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng mạnh trong những năm gần đây
nhưng thị phần của Việt Nam cũng mới chỉ chiếm 2,1% về số lượng so với
83,5% của Trung Quốc.
Đối với các thị trường xuất khẩu khác như Liên bang Nga, các
nước Đông Âu, Trung Đông, châu Phi, tuy không yêu cầu cao về mẫu mã và
chất lượng nhưng hàng Việt Nam vẫn không thể thâm nhập mạnh vào thị
trường các nước này. Nhiều nước châu Phi đánh thuế nhập khẩu rất cao
thậm chí là cấm các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam làm cho
ngành da giày khó có thể thâm nhập vào thị trường này.
Nguyên vật liệu sản xuất của ngành da giày chiếm đến 80% giá trị
của sản phẩm trong đó ngành sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Theo
Hiệp hội da giày Việt Nam, nhu cầu da thuộc năm 2007 của toàn ngành
khoảng 350 triệu feet vuông, trong khi đó các nhà máy thuộc da của Việt
Nam và nước ngoài đầu tư tại Việt Nam mới chỉ sản xuất và đáp ứng được
khoảng 20% nhu cầu da thuộc của cả nước, 80% còn lại phải nhập khẩu.
Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, các doanh nghiệp Việt
Nam mới chỉ sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây
giày... nhưng lại “bỏ ngỏ” những loại phụ kiện tinh xảo là các sản phẩm
nhựa có xi mạ như khoen, móc, cườm, các vật trang trí trên giày, đặc biệt là
giày nữ và giày trẻ em.
Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc
doanh và có yếu tố nước ngoài, chiếm trên 90% năng lực của cả ngành,
chứng tỏ năng lực ngành phụ thuộc hoàn toàn vào làn sóng đầu tư của tư bản
tư nhân trong nước và quốc tế.
Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi
dào do dân số trẻ, nhưng năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp,
trung bình trên 1 dây chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000

đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất lao động của người Nhật, 1/30 củaThái
Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của Indonesia.
Hiện nay trình độ công nghệ của ngành da giày Việt Nam đang ở
mức trung bình và trung bình khá, song khá lệ thuộc vào nước ngoài về
trang bị máy móc. Khả năng đầu tư và chuyển giao công nghệ mới phụ
thuộc vào nguồn tài chính hạn hẹp, đội ngũ chuyên gia hiểu biết sâu và cập
nhật công nghệ còn quá ít và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của
doanh nghiệp, kinh nghiệm và khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng về công
nghệ còn hạn chế...Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế năng
suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành trong thời gian
trước mắt cũng như lâu dài. Điều này còn dẫn đến việc ngành có nguy cơ
mất khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.
So với Quy hoạch, giai đoạn 2000 - 2010, xuất khẩu giày dép chỉ đạt
được 85,5%, tỷ lệ nội địa hoá nguyên phụ liệu đạt 40%, không xây dựng
được các cụm công nghiệp, trung tâm xúc tiến thương mại chuyên ngành,
cũng chưa đầu tư được dây chuyền thiết bị tự động hoá trong thiết kế sản
phẩm...
Các DN lớn của Ngành Da giày VN có quy mô đồng bộ hiện cũng chỉ
chú trọng làm hàng xuất khẩu mà không chú trọng tới tiêu thụ trong nước.
Thậm chí, trong mục tiêu phát triển ngành da giày VN đến 2010 cũng nhấn
mạnh tới xuất khẩu... Chính vì vậy mà ngươì tiêu dùng trong nước cũng
không mặn mà gì đối với hàng nội, mặc dù chất lượng giày, dép của VN
không thua kém gì hàng ngoại, thậm chí có phần còn trội hơn. Hàng ngoại
làm tốt công tác tiếp thị nên đã tràn lan trên thị trường giày, dép của Việt
Nam với mẫu mã, kiểu dáng phong phú, giá rẻ... nên đã gây không ít khó
khăn cho các DN lấy thị trường trong nước làm mục tiêu phục vụ.
Bỏ trống thị trường trong nước, không chú ý làm tốt công tác
marketing cũng như tự hoàn thiện, chấp nhận gia công cho các tập đoàn
giày, dép nước ngoài... Đó đang là những điểm yếu mà ngành Giày da Việt
Nam cần biết và có biện pháp khắc phục để phát triển bền vững./.

Nguyên nhân là nguyên vật liệu phải nhập, sản phẩm chưa có thương
hiệu, nội lực của các doanh nghiệp, đặc biệt là DN trong nước còn yếu, đầu
tư không có chất lượng.
Ngoài ra, xuất khẩu da giày còn bị hạn chế vì bị EC áp thuế giày mũ
da và không được hưởng thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP) dành cho hàng
xuất khẩu của Việt Nam, trong đó chủ yếu là giày dép, bình quân mỗi đôi
giày xuất sang EU phải tăng thuế từ 3,5 – 5%. Như vậy, nếu tính gộp cả thuế
này và thuế chống bán phá giá, giày da Việt Nam vào EU chịu thuế 15%,
mất lợi thế cạnh tranh với các nước khác như Indonexia, Bangladesh…
Da giày là ngành xuất khẩu lớn, tạo nhiều việc làm cho lao động,
nhưng thực tế là lao động chủ yếu chưa qua đào tạo, thu nhập bình quân
thấp... Trong khi giá cả biến động, mức lương bình quân trong ngành da giày
là 1.640.000 đồng/tháng chưa hấp dẫn với người lao động. Đây cũng là lý do
xảy ra biến động lao động thường xuyên trong ngành da giày. Tuy nhiên,
trong bối cảnh chi phí đầu vào sản xuất gia tăng, lợi nhuận của ngành cũng

×