Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

CÔNG NGHIỆP hóa gắn với HIỆN đại hóa và NHỮNG vẫn đề đặt RA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.68 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
A. Phần Mở Đầu…………………...................................................................2
B. Phần Nội Dung………………………………………………………...…..3
I.

Một số vấn đề lí luận về sự nghiệp CNH, HĐH………………...….3

I.1.

Khái niệm về CNH, HĐH………………………………………….3

I.2.

Vai trò của CNH, HĐH với sự phát triển của đất nước……………4

II.

CNH gắn với HĐH và những vấn đề đặt ra hiện nay………………6

II.1. Quá trình thực hiện CNH, HĐH…………………………………....6
II.1.1. CNH trước thời kì đổi mới ( 1960-1985 )………………………….6
II.1.2. CNH, HĐH thời kì đổi mới ( 1986 cho tới nay )…………………...9
II.2. Thành tựu của CNH, HĐH…………………………...…………...12
II.3. Một số vấn đề, thách thức đặt ra…………………………………..15
II.4. Giải pháp thúc đẩy quá trình CNH, HĐH………...………………19
II.4.1. Đầu tư, nâng cao chất lượng giáo dục…………………………….19
II.4.2. Thu hút đầu tư nước ngồi………………………………………...20
II.4.3. Tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của nhà
nước……………………………………………………………….20
II.4.4. Tạo điều kiện cho kinh tế phát triển…………………………..…..21
II.4.5. Đổi mới phát triển khoa học công nghệ……………..……………22


II.4.6. Giữ vững ổn định chính trị………………….…………………….22
II.4.7. Phát triển kinh tế đi đơi với bảo vệ môi trường…………………...23
C. Kết Luận……………………………………………………………...….24
D. Tài liệu tham khảo………………………..……………………………...25

1


Quy định chữ viết tắt trong đề tài

BCHTW

: Ban chấp hành Trung ương

CNH

: Cơng nghiệp hóa

CNH, HĐH

: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH XHCN : Cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
CNTT

: Công nghệ thông tin

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội


TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

2


CƠNG NGHIỆP HĨA GẮN VỚI HIỆN ĐẠI HĨA VÀ
NHỮNG VẪN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY
A.

Phần Mở Đầu:

Trong những năm qua, những thành tựu bước đầu của sự nghiệp
CNH, HĐH đã chứng minh rằng đất nước ta đã đi đúng hướng, quan hệ
sản xuất XHCN được củng cố và hoàn thiện, nền sản xuất xã hội không
ngừng phát triển, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân khơng
ngừng được nâng cao.
CNH, HĐH đang được thừa nhận là xu hướng phát triển chung của
các nước trên thế giới do đó khơng chỉ có Đảng và nhà nước ta mà nó cịn
là đề tài nóng thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học,
nhà nghiên cứu.
Cùng với sự phát triển của thế giới, ở nước ta hiện nay CNH , HĐH
cũng đang dần từng bước được nâng cao và phát triển. Tuy nhiên, việc
thực hiện CNH, HĐH ở nước ta chưa thực sự mang lại nhiều thành tựu

cao. Bên cạnh đó, nó cịn đặt ra nhiều vấn đề và thác thức.
Bản thân em là một sinh viên đang học tập trong nhà trường, em
thấy rằng việc nghiên cứu những vẫn đề về CNH , HĐH là hết sức cần
thiết. Chính vì vậy em quyết định lựa chọn “ CNH gắn với HĐH là những
vẫn đề đặt ra hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm nâng cao kiến thức, vốn hiểu biết
của mình cũng như tìm hiểu thực trạng xung quanh vẫn đề CNH , HĐH, từ
đó thấy được những thành tựu đã đạt được để phát huy và tìm ra biện pháp
khắc phục những hạn chế, thiếu sót nhằm đem lại hiểu quả cao hơn và
tránh được một số vấn đề thiết yếu.
3


B. Phần Nội Dung:
I. Một số vẫn đề lí luận về sự nghiệp CNH, HĐH
1.1. Khái niệm CNH, HĐH
Để hiểu hơn về khái niệm CNH, HĐH thì trước hết ta phải biết về
khái niệm CNH. Vậy CNH là gì ?
“CNH là q trình chuyển đổi từ lao động thủ cơng sang lao động
sử dụng bằng máy móc của một ngành kinh tế , một vùng kinh tế hay một
nền kinh tế”.
Đây là quá trình chuyển biến kinh tế-xã hội ở một cộng đồng người
từ nền kinh tế với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé sang nền kinh tế cơng
nghiệp.
CNH là một phần của q trình HĐH. Sự chuyển biến kinh tế xã hội
này đi đôi với tiến bộ công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất
năng lượng và luyện kim quy mô lớn.
Hội nghị trung ương lần thứ 7 khóa VII (1/1994) đã có bước phát
triển đột phá mới trong nhận thức và khái niệm CNH , HĐH : “ CNH,
HĐH ở nước ta là q trình chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt động

sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quả lý kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiến tiến, hiện đại tạo ra
năng suất lao động xã hội cao”.
CNH, HĐH không đơn giản là cuộc cách mạng cơng nghệ bình
thường mà nó cịn được gọi là cuộc “ Cách mạng khoa học kỹ thuật” làm
thay đổi chóng mặt về các thành tựu khoa học kỹ thuật.
4


1.2. Vai trò của CNH, HĐH đối với sự phát triển của đất nước
Đối với dân tộc Việt Nam, từ thế kỷ XX đã đánh dấu một mốc quan
trọng đầy tự hào về những chiến công oanh liệt và những thắng lợi có ý
nghĩa lịch sự và thời đại. Nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến
đã trở thành một quốc gia độc lập tự do phát triển theo con đường xã hội
chủ nghĩa. Nhân dân ta từ than phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất
nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta bước qua khỏi cuộc đấu tranh từ một
nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu.
Đại hội III của Đảng khẳng định : “Muốn cải biến tình trạng kinh tế
lạc hậu của nước ta, khơng có cin đường nào khác ngồi con đường CNH
xã hội chủ nghĩa”. Tức là khẳng định tính tất yếu của CNH đối với công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu, đời sống nhân dân khó khăn. Chúng ta tiến hành CNH, HĐH
chính là “Một cuộc cách mạng tồn dân và sâu sắc trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội” là con đường tất yếu để đưa nước ta thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu và nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu
vực, để giữ vững ổn định chính trị xã hội.
Tại Đại hội tồn quốc lần thức VIII, xuất phát từ tình hình thực tiễn
của nước ta và căn cứ vào cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá

độ lên CNXH,“ Đảng ta đã khẳng định phát triển đất nước theo hướng
đẩy mạnh CNH, HĐH. Mục tiêu của CNH,HĐH là xây dựng nước ta thành
một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần, quốc phòng an ninh vững
chắc dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
5


Quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật là con đường tạo ra lực
lượng sản xuất mới nhằm khai thác và phát huy tốt nhất các nguồn lực bên
trong và sử dụng có hiểu quả các nguồn lực bên ngồi.
Sự nghiệp CNH, HĐH địi hỏi phải có sự nỗ lực, phấn đấu và tham
gia của toàn Đảng, toàn dân. Trong quá trình thực hiện CNH , HĐH, con
người được đào tạo, củng cố về tri thức, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
ngày càng được phát huy; Quan hệ về kinh tế giữa các dân tộc, giữa các
vùng trong nước ngày được phát triển đồng đều; việc tham gia và thực
hiện ấy giúp cho công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta có điều kiện phát
triển nhanh hơn; Quốc phòng và an ninh của đất nước ngày càng được giữ
vững; mở rộng quan hệ về tất cả mọi mặt ( kinh tế, văn hóa , xã hội , giáo
dục, …)với các quốc gia trên thế giới ngày được nhân lên thúc đẩy quá
trình hội nhập với thế giới.
Hơn thế nữa, CNH, HĐH chính là quy luật khách quan cho tiến trình phát
triển của nước ta.
Do đó, để có được một môi trường thuận lợi đảm bảo cho sự nghiệp
CNH, HĐH đi đến và đạt được những thành tựu to lớn thì cần phải có sự
tích cực phấn đấu không ngừng của Đảng, các cấp, các ngành trong cả
nước.

6



II. Cơng Nghiệp Hóa gắn với Hiện Đại Hóa và những vấn đề đặt ra
hiện nay
2.1. Quá trình thực hiện CNH, HĐH
Trên thế giới, cuộc cơng nghiệp hóa đầu tiên được diễn ra ở nước
Anh (thế kỷ XVIII).
Ở nước ta, năm 1960 được xem là mốc son đánh dấu cho việc thực hiện
quá trình CNH. Quá trình CNH ở nước ta có thể chía làm hai giai đoạn
lớn: từ năm 1960_1985 và 1986 đến nay.
2.1.1. CNH trước thời kỳ đổi mới ( 1960-1985 )
Như đã nói ở trên, tại đại hộ III của Đảng (tháng 9/196 6) đường lối
công nghiệp hóa đã được hình thành.
Dựa vào cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nước ta ở thời kỳ này mà Đảng
đã đề ra một số chủ trương về CNH.
* Về cơ sở lý luận:
Mỗi phương thức sản xuất chỉ được xác lập vững chắc trên cơ sở vật
chất kỹ thuật tương ứng. Thực hiên CNH, HĐH nhằm xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho CNXH. CNXH là phương thức sản xuất phát triển sau
của Chủ nghĩa tư bản, trong khi đó Việt Nam ta muốn quá độ lên CNXH
cho nên cần phải có cở sở vật chất phát triển hơn Chủ nghĩa tư bản. Việc
thực hiện CNH là tất yếu.
Bên cạnh đó sự phù hợp giữa sản xuất và lực lượng sản xuất là rất cần
thiết. Vì vậy, tiến hành CNH để nhằm nâng cao trình độ của lực lượng sản
xuất. Theo Lênin, nền sản xuất hàng hóa được chia là hai khu vực: Đó là
7


sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng, trong đó phần lớn ta
chú trọng đến sản xuất tư liệu sản xuất.

Muốn đạt được những điều trên ta cần phải có đường lối đúng đắn để tiến
hành CNH.
* Về cơ sở thực tiễn:
Do sức phát triển của nước ta trước khi bước vào CNH là thấp
(Khoa học kỹ thuật lạc hậu, kinh tế nghèo nàn về vốn, nguồn nhân lực
lành nghề thì thiếu,…)
Hơn nữa, lúc bấy giờ Việt Nam bị chiến tranh tàn phá và bị bao vây cấm
vận của các nước TBCN. Chúng ta chỉ nhận được sự hợp tác, giúp đỡ của
Liên Xô, Trung Quốc và một số nước Đông Âu. Muốn làm thay đổi những
điều đó, chúng ta phải thực hiện CNH.
Từ những cơ sở đó, đại hội III của Đảng đã xác định mục tiêu cơ
bản của CNH XHCN là xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện
đai; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và Kỹ thuật của CNXH. Đó là mục
tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.
Để chỉ đạo thực hiên CNH, Hội nghị trung ương lần thứ bảy khóa III
(26/03_16/04/1962) đã đề ra phương hướng chung là trang bị kỹ thuật
hiện đai cho công nghiệp và nông nghiệp. Hội nghị đề ra phương hướng
cụ thể là: ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng một cách hợp lý (Bởi đó là
ngành kinh tế mũi nhọn, quan trong, vững chắc); kết hợp chặt chẽ phát
triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp (đây là hai ngành kinh tế
then chốn nhất); ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu
tiên phát triên công nghiệp nặng; ra sức phát triển công nghiệp Trung
Ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương.
8


Sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất và
quá độ lên CNXH. Đại hội 4 của Đảng (1976) đề ra đường lối CNH
XHCN là “ Đẩy mạnh CNH XHCN, xây dựng cở sở vật chất-kỹ thuật của
CNXH, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.

Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông
nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công nghiệp-nông nghiệp; vừa
xây dựng kinh tế Trung Ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp
kinh tế Trung Ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc
dân thấp nhất”.
Đường lối này nhất trí với những nhận thức cơ bản về CNH ở giai đoạn
trước (1960), đồng thời có sự phát triển thêm.
Tại Đại hội V của Đảng (1982), chúng ta có nhận thức mới hơn về
CNH và đã đề ra phương hướng là tập trung phát triển nông nghiệp, coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. đây được xem là sự nhìn nhận rất đúng
đắn của Đảng, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trên con đường đi tới CNH.
Ta có thể thấy rằng, ở thời kỳ này CNH theo mô hình nền kinh tế
khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng. Với lý do là
đất nước đang bị bao vây, cấm vận và mong muốn tự trang bị cho mình về
các loại máy móc. Thay bằng nhập khẩu ta đã tạo ra mơ hình khép kín ấy.
CNH chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn
viện trợ của các nước XHCN; chủ lực thực hiện CNH là nhà nước và các
doanh nghiệp nhà nước; việc phân bổ nguồn lực để CNH được thực hiện
thơng qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, không tôn
trọng các quy luật của thị trường. Đồng thời việc thực hiện CNH cịn nóng

9


vội, đơn giản, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn mà lại không
quan tâm đến hiểu quả kinh tế-xã hội.
Mặc dù vậy, trong khoảng thời gian 25 năm tiến hành CNH thì nước
ta vấn mang lại một số kết quả sau: Số xí nghiệp được tăng lên (tăng gấp
16,5 lần so với thời kỳ CNH); bước đầu hình thành các cơ sở cơng nghiệp

nặng và các khu công nghiệp; hệ thống các trường Đại học, Cao đẳng đã
đào tạo được đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học kỹ thuật. Đây là nguồn
nhân lực quan trọng cho cơng nghiệp hóa giai đoạn sau.
2.1.2. CNH, HĐH thời kỳ đổi mới ( 1986 cho đến nay )
Từ những nguyên nhân chủ quan cũng như nguyên nhân khách quan
dẫn tới nhiều hạn chế, sai lầm ở thời kỳ 1960-1985 mà Đảng ta đã có sự
thay đổi.
Trên cơ sở: xu thế tự do hóa và quốc tế hóa phát triển mạnh, đặt Việt Nam
trước những thách thức mới trong quá trình thực hiên CNH, HĐH. Nền
kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong trạng thái trì trệ sau hơn mười năm tiến
hành CNH trong điều kiện đất nước thống nhất; sự sụp đổ của Liên Xô và
các nước Đông Âu đã làm mất đi thị trường và kể cả sự giúp đỡ lớn đối
với đất nước ta. Bên cạnh tác động cải tổ của Liên Xơ.
Trên cơ sở đó Đảng ta đã có những bước phát triển qua từng thời kỳ Đại
hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986 ) phê phán
vừa chỉ ra những sai lầm trong nhận thức về chủ trương CNH thời kỳ
1960-1985.
Sai lầm trong việc xác định mục tiêu, bước đi, bỏ qua những bước đi cần
thiết, chưa có đủ các tiền đề cần thiết, chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế. Cơ cấu kinh tế thiên về xây dựng công nghiệp nặng, quy mô lớn vấn
10


đề lương thực, thực phẩm , hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu chưa giải
quyết được; chưa thực sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu.
Từ việc chỉ ra những sai lầm khuyết điểm, đại hội đã cụ thể hóa nội dung
chính của CNH XHCN trong những năm cịn lại của chẳng đường đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ là thực hiện cho bằng được ba chủ trương mục
tiêu: Lương thực-thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu. Đại hội
đánh dấu một mộc quan trọng trong lịch sự quá trình CNH ở nước ta tại

hội nghị Trung Ương lần thứ 7 khóa VII (1/1994) Đảng ta đã có nhận thức
toàn diện và sâu sắc hơn về khái niệm CNH, HĐH, bước đầu đề ra mục
tiêu, quan điểm đúng đắn về CNH, HĐH.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6/1996) khẳng định đây là thời kỳ
nước ta đẩy mạnh CNH, HĐH. Chuẩn bị tiền đề cho CNH đã cơ bản hồn
thành để chyển sang thời kì mới đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; CNH là
sự chuyển đổi căn bản, toàn diện nề sản xuất hiện tại.
Ở Đại hội này Đảng ta đã nêu ra 6 quan điểm hoàn chỉnh chỉ đạo đẩy
mạnh sự nghiệp CNH, HĐH.
Đến Đại hội IX ( 2001 ), Đại hội X (200 6) Đảng ta xác định rõ con
đường CNH, HĐH: rút ngắn, thu hẹp, tận dụng, đi tắt đón đầu; hướng
CNH, HĐH ở nước ta: tập trung các lĩnh vực có lợi thế, đảm bảo xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy nhanh
CHN, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Đảng xác định rõ mục tiêu cơ bản của CNH, HĐH là: Biến nước ta thành
một nước công nghiệp có cuộc sống vật chất, kinh tế hiện đại, có cơ cấu
kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực
lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng_an ninh
vững chắc, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; đến
11


giữa thế kỉ XXI nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại theo định
hướng XHCN.
Để thực hiện tốt các mục tiêu trên, ta cần phải đạt được những mục tiêu cụ
thể. Đại hội X đề ra mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền
tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Hội nghị làn thứ bảy BCH TW khóa VII của Đảng (1994) đã nêu ra

6 quan điểm về chỉ đạo quá trình thực hiện CNH, HĐH đất nước trong
thời kì đổi mới. Nó được phát triển và bổ sung qua các Đại hội VIII, IX,
X, XI của Đảng và nhất trí qua 5 quan điểm:
Một là, CNH gắn với HĐH và CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trườngđịnh hướng XHCN
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là nhân tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bễn vững.
Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của CNH, HĐH.
Năm là, phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội.
Những quan điểm này của Đảng là nhằm định hướng một cách đúng
đắn cho con đường thực hiện CNH, HĐH của đất nước.

12


2.2. Thành tựu của CNH, HĐH
Trong suốt hơn 25 năm thực hiện quá trình đổi mới, nước ta đã thu
được một số thành tựu to lớn:
Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao: trong thời gian dài tốc độ
tăng trưởng 7-8%. Là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh nhất thế giới. Trong hơn 15 năm qua, GDP bình quân đầu người
tăng gấp 3 lần, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể.
Nền kinh tế đang chuyển mạnh sang kinh tế thị trường. Thể chế kinh
tế trường đã bắt đầu hình thành và đang trong q trình hồn thiện. các
loại thị trường đã được thiết lập, như: thị trường vốn, thị trường lao động,
thị trường cơng nghệ mới hình thành và bắt đầu phát triển,
Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước đối với khu vực tư nhân

thể hiện qua luật doanh nghiệp, đã tạo một bước ngoặt trong việc phát
triển kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân đã phát triển nhanh, đóng góp vào
tăng trưởng phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm.
Nước ta là một trong những nước thu hút nhiều đầu tư nước ngoài và
hiện nay đầu tư nước ngoài đang gia tăng nhanh chóng. Vốn đầu tư nước
ngồi lớn cộng với đàu tư trong nước chiếm tỷ lệ cao trong GDP đã góp
phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, nâng cao trình độ cơng nghệ của
sản xuất và phát triển cơ sở hạ tầng.
Kết cấu hạ tầng của nước ta phát triển nhanh và đạt được HĐH một bước;
hệ thống giao thong, các khu đo thị đã có hình dạng mới.

13


Quan hệ kinh tế đối ngoại không ngừng mở rộng, khối lượng xuất
nhập khẩu tăng nhanh. Việt Nam là nước có tỷ lệ xuất nhập khẩu loại cao
so với thế giới.
Trình độ cơng nghệ của một số lĩnh vực được nâng cao, theo kịp
trình độ chung của các nước xung quanh; đã bước đầu phát triển một số
nghành công nghiệp công nghệ cao.
Nền nông nghiệp nước ta phát triển nhanh, nơng dân có trình độ học
vấn khơng thấp, tiếp thu nhanh tiến bộ kỹ thuật và cũng tiếp cận nhanh
kinh tế thị trường. Như vậy, từ một nước nghèo đói phải nhập khẩu lương
thực nước ta nay đã trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế
giới, là một nước đứng đầu về xuất khẩu cà phê, cao su,…; nông thôn mới
bước đầu được HĐH.
Ta đã kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, đã chú trọng
đầu tư phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo. Nước ta
được các tổ chức quốc tế thừa nhận là nước có thành tích xóa đói giảm
nghèo nhanh nhất.

Cơng nghệ thơng tin và viễn thông Việt Nam đã đạt tốc độ tăng
trưởng cao. Về sử dụng internet, năm 1996 nước ta mới bắt đầu sử dụng,
đến nay số người sử dụng internet so với số dân đã đạt xấp xỉ 24%, ngang
mức bình quân thế giới.
Cơng nghệ thơng tin được ứng dụng có kết quả bước đầu trong các ngành
tài chính, ngân hàng, điện lực, y tế, giáo dục,…
Đã bắt đầu nối mạng đến một số vùng nông thôn vùng sâu, vùng xa.

14


Các doanh nghiệp nói chung tích cực, chủ động sử dụng công nghệ thông
tin để cải tổ chức quản lý, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh
tranh.
Nền khoa học công nghệ nước ta đạt được những tiến bộ nhất định.
Tỷ lệ đầu tư cho khoa học và công nghệ trong tổng chi ngân sách nhà
nước từ mức 0,78% năm 1996 đã được tăng lên 2% trong những năm gần
đây, thuộc mức cao trong các nước đang phát triển. Các viện nghiên cứu
đầu nghành và các phịng thí nghiệm trọng điểm đã được chú trọng đầu tư
chiều sâu.
Tiềm năng trí tuệ của con người Việt Nam khơng thua kém các nước,
con người việt nam thông minh, sáng tạo, dễ đào tạo, có năng lực tiếp thu
nhanh tri thức mới, công nghệ mới, dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào.
Từ những thành tựu đã đạt được ở trên, ta có thể thấy rằng: CNH
phải ln đi đơi với HĐH. Bên cạnh sử dụng máy móc vào các hoạt động
sản xuất chúng ta phải luôn đổi mới, đi kịp với đà tiến trong khu vực và
thế giới.
Những thành tựu trên cũng đã khẳng định quan điểm, chủ trương đúng đắn
của Đảng. Điều đó cũng khẳng định sức mạnh đồn kết của toàn Đảng và
toàn dân ta.


15


2.3. Một số vấn đề, thách thức đặt ra
Bên cạnh những thành tựu trong bước đầu thực hiện CNH, HĐH
cũng khơng ít những vấn đề và thách thức đặt ra hiện nay, nhất là vấn đề
về kinh tế.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp, hiệu quả kém, đang tiềm ẩn
nguy cơ phát triển không bền vững, chưa rút ngắn được khoảng cách so
với nhiều nước trong khu vực.
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ rõ: “tăng trưởng
kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm”.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, vẫn cịn nặng về nơng nghiệp và
khai thác tài nguyên, cơ cấu kém hiệu quả, (tỷ lệ nông nghiệp 20%, công
nghiệp 41%, dịch vụ 39%, trong khi bình qn tồn thế giới năm 2006 là
4%, 33% và 63%).
Nền kinh tế nước ta đang còn dựa chủ yếu vào tài nguyên và lao
động, năng suất thấp, giá trị do tri thức tạo ra không đáng kể. Đóng góp
vào tăng trưởng kinh tế chủ yếu là do vốn với tỷ lệ đến 64%; năng suất
nhân tổ hợp chỉ đóng góp 19%, (cùng giai đọa phát triển đó, Nhật Bản
41%, Hàn Quốc 42%, Đài Loan 60%).

16


Giá trị xuất khẩu tuy khá cao nhưng hiệu quả kém. Sản phẩm xuất
khảu chủ yếu là nông sản và nguyên liệu ít qua chế biến, khối lượng lớn
nhưng giá trị lại thấp.

Năng suất lao động nước ta còn thấp hơn từ 2-15 lần so với các nước
ASEAN. Năng suất lao động trong ngành thực phẩm của ta chỉ bằng 7%
của Đài Loan, 6% của Hàn Quốc.
Đầu tư kém hiệu quả, thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản lớn,
nhiều cơng trình đàu tư chưa hợp lý nên hiệu quả đầu tư kém.
Kinh tế thị trường phát triển chậm; thể chế kinh tế thị trường chưa
được thiết lập đồng bộ; môi trường pháp lý thiếu minh bạch. Trước yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế tri thức, nước ta vẫn bị xếp
vào nhóm nước có môi trường kinh doanh kém thuận lợi của thế giới.
Theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu của diễn đàn kinh té thế giới ( WEF ),
chỉ số cạnh tranh tăng trưởng ( GCI ) của nền kinh tế nước ta từ vị trí
60/101 ( năm 2003 ) đã lùi xuống vị trí 79/109 ( năm 2004 ) và 81/117
(năm 2005 ); thấp hơn nhiều nước xung quanh ( Philipin thứ 77, Trung
Quốc thứ 49, Thái Lan thứ 36, Inđônêxia thứ74,…) chỉ số tự do kinh tế
Việt Nam 2004 được xếp thứ 137/116 nước.
Nguồn nhân lực: Tiềm năng trí tuệ của con người Việt Nam tuy
không thua kém các nước nhưng do nhiều yếu kém trong công tác đào tạo
nên chất lượng nguồn nhân lực chúng ta còn thấp, bất cập trước yêu cầu
phát triển kinh tế tri thức.
CNH, HĐH đòi hỏi những người lao động phải có chun mơn tay nghề
cao. Song trên thực tế, mặt bằng dân trí, trình độ đào tạo chuyên sâu nghề
nghiệp còn chưa thực sự cao và đồng đều.
17


So với các nước trong khu vực, nguồn nhân lực của nước ta thua kém về
số lượng, cơ cấu, cũng như trình độ, năng lực. Nước ta chưa có chính sách
trọng dụng nhân tài.
Theo Báo cáo phát triển con người năm 2005 của Liên Hợp Quốc, chỉ số
phát triển con người (HDI) của việt Nam năm 2003 là 0,704. Việt Nam

được xếp hạng 108/159 quốc gia, trong khi năm 2002 là 112/117, năm
2001 là 109/175.
Lực lượng lao động dồi dào nhưng tỷ lệ đào tạo và chuyên môn kỹ thuật
thấp, cơ cấu đào tạo lạ bất hợp lý. Công nhân kỹ thuật phục vụ các ngành
cơng nghệ cao cịn thiếu nghiêm trọng.
Năng lực khoa học công nghệ quốc gia và đổi mới hệ thống quốc
gia: Năng lực khoa học và cơng nghệ quốc gia cịn yếu; kết quả ứng dụng
cịn ít, số cơng trình cơng bố rất thấp so với các nước.
Thị trường khoa học cơng nghệ chậm được hình thành, sự gắn kết
họa động khoa học và công nghệ với giáo dục-đào tạo và sản xuất-kinh
doanh còn yếu. Cho tới nay, nước ta chưa lập quỹ đầu tư mạo hiểm để
khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới cơng nghệ.
Trình độ cơng nghệ của sản xuất cịn thấp. Năm 2004 chỉ số công
nghệ xếp thứ 79/117 nước (Thái Lan 37/117), chỉ số đổi mới công nghệ
xếp thứ 66/117 (Thái Lan 4/117).
Tỷ lệ sử dụng công nghệ cao trong công nghiệp của Việt Nam mới chỉ
khoảng 20%, trong khi Philipin 29%, Thái Lan 31%.
Đầu tư cho đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam rất
thấp, chỉ khoảng 0,2-0,3% doanh thu, trong khi Ấn Độ là 0,5 %, Hàn Quốc
18


là 10%. Đầu tư từ các doanh nghiệp cho nghiên cứu phát triển rất thấp,
khoảng 0,3% doanh thu.
Thông tin và truyền thông: Công nghệ thông tin ở Việt Nam đang
phải đối mặt với hàng loạt vấn đề, như: thu nhập người dân cịn thấp mà
chi phí cho CNTT lại khá cao, năng lực chính sách cịn yếu so với u cầu
phát triển CNTT, đội ngũ nhân lực chưa sẵn sàng. Ứng dụng CNTT ở
nhiều nơi cịn mang tính hình thức, hiệu quả thấp; mơi trường pháp lý cịn
chưa rõ ràng, thiếu chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư ứng

dụng và phát triển CNTT.
Theo đánh giá của Tổ chức quốc tế về mức độ phát triển CNTT thì Việt
Nam cịn thua kém so với các nước trong khu vực, trong khối ASEAN.
Theo xếp hạng quốc tế năm 2005, CNTT của Việt Nam như sau: về chỉ số
sẵn sàng kết nối đứng thứ 75/115 nước; về chỉ số sẵn sàng cho kinh tế
đứng thứ 61/65 nước.
Trên thế giới hiện nay, môi trường cạnh tranh về kinh tế thị trường
ngày càng quyết liệt, trong khi đó Việt Nam cịn chưa thực sự đứng vững
và có tiếng trên thị trường.
Trong nước vẫn cịn tình trạng tham nhũng và sự suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên gây maats
lòng tin ở nhân dân.
Sự nghiệp CNH, HĐH mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội mới nhưng
cũng đặt ra nhiều vấn đề nhức nhối về quốc phòng-an ninh. Lợi dụng sự
giao lưu, hội nhập giữa các nước mà nhiều thành phần xấu đã lôi kéo,
truyền bá những tư tưởng phản động, gây mất đoàn kết dân tộc.

19


Mặt khác, CNH, HĐH cũng gây nên những vấn đề về mơi trường
nghiêm trọng.

2.4. Giải pháp đẩy mạnh q trình CNH, HĐH
Nhằm thúc đẩy quá trình và nâng cao hơn nữa thành tựu về CNHHĐH đất nước, chúng ta đề ra một số giải pháp sau:
2.4.1. Đầu tư, nâng cao chất lượng giáo dục
Như đã đề cập ở trên, CNH, HĐH đòi hỏi nguồn lực con người phải
đáp ứng được những yêu cầu : những con người có tài, ham học hỏi, sáng
tạo, làm việc quên mình vì độc lập của dân tộc và sự tôn vinh của tổ quốc,
được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hóa, được đào tạo thành thạo về nghề

nghiệp, về sản xuất kinh doanh, về quản lý kinh tế xã hội,.... CNH , HĐH
đòi hỏi con người ta phải có tri thức về mọi mặt, có năng lực tiếp thu và
sáng tạo về khoa học, cơng nghệ, có trình độ học vấn và trình độ nghiệp
vụ cao,...
Để có nguồn nhân lực đáp ứng được những u cầu đó thì trước hết
ta phải coi trọng việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo, lấy giáo dục đào tạo
làm hướng chính của đầu tư phát triển, giáo dục đâò tạo là nhiệm vụ hàng
đầu.

20


Giáo dục như là yếu tố quyết định tạo ra một cơ cấu nhân lực đồng
bộ về mọi mặt. Không chỉ giáo dục, đào tạo về kiến thức, trình độ tay
nghề mà còn phải giáo dục về cả đạo đức. Đất nước có được những người
vừa có tài lại vừa có đức thì khơng chỉ nền kinh tế phát triển mà sẽ khơng
cịn tình trạng tham ơ, tham nhũng,... ln đạt lợi ích dân tộc lên hàng
đầu, đưa đát nước phát triển vững mạnh.
Việc giáo dục, đào tạo phải kết hợp với việc bố trí và sử dụng tốt
nguồn nhân lực đã đào tạo. Phải phát huy hết vai trò, năng lực sáng tạo
của nhân tài để có được hiệu quả kinh tế cao, đóng góp xứng đáng cho sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2.4.2. Thu hút vốn đầu tư nước ngồi
CNH, HĐH khơng chỉ u cầu cao về nguồn nhân lực mà cịn phải
có nguồn vốn lớn.
Nước ta là một nước nghèo, kinh tế còn kém phát triển nên vấn đề về vốn
đầu tư lại càng hết sức cần thiết.
Để thu hút vốn đầu tư từ nước ngồi, thì nước ta phải có nền chính
trị ổn định. Đó là yếu tố quan trọng, làm cho nhà đầu tư yên tâm và thoải
mái đầu tư.

Bên cạnh đó, chúng ta phải tạo được uy tín, niềm tin trên thị trường quốc
tế, thể hiện được năng lực, khả năng của mình.
2.4.3. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý
của nhà nước

21


Sự nghiệp CNH, HĐH có mang lại kết quả cao hay không là nhờ
vào công tác lãnh đạo và năng lực quản lý của nhà nước ta. Đây là yếu tố
đặt nền móng cho sự thành cơng của sự nghiệp CNH, HĐH.
Mặc dù CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân nhưng phải do một
Đảng lãnh đạo, nhà nước là nhà nước của dân-do dân và vì dân nhưng nhà
nước phải có năng lực quản lý thì CNH, HĐH ở nước ta mới có thể được
hồn thành.
Đảng đề ra đường lối, quan điểm thực hiện CNH, HĐH, nhà nước có vai
trị quản lý và tồn dân có trách nhiệm thực hiện.
Đảng khơng ngừng nâng cao, đổi mới lí luận, đẩy mạnh cơng tác
chỉnh đốn Đảng, nâng cao trình độ đảng viên, kết nạp những đảng viên
mới ưu tú. Đồng thời Đảng phải là một hệ thống có sự đồn kết vững
chắc,thống nhất về quan điểm lẫn hành động.
Đối với nhà nước thì phải đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính,
khơng ngừng làm trong sạch bộ máy nhà nước. Thường xun bồi dưỡng,
nâng cao trình độ của cơng chức và chuận bị nguồn nhân lực con người
cho bộ máy. Nhanh chóng đưa chính sách của Đảng vào đời sống,...
Có thể nói sự thành cơng của CNH, HĐH phụ thuộc trực tiếp vào vai trò
quản lý của nhà nước.
2.4.4. Tạo điều kiện cho kinh tế phát triển
Nhằm đẩy mạnh sự phát triển của kinh tế, trong những năm qua
nước ta đã thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần. Thành tựu trong

những năm qua đã chứng minh việc thực hiện chính sách kinh té nhiều
thành phần là đúng đắn.
22


Phát triển kinh tế nhiều thành phần phù hợp với trình độ lực lượng
sản xuất thấp kém của nước ta, do đó nó đã làm cho nèn kinh tế phát triển;
làm cho nền kinh tế hàng hóa phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện
và nâng cao , mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội phát triển; nó khắc
phục được tình trạng độc quyền, tạo ra động lực phát triển kinh tế xã hội.
Vì vậy, trong những năm tới chúng ta cần hoàn thiện hệ thống pháp
luật, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Mặt khác cần phát
huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, phát triển kinh tế tập thể, hợp
tác xã để cho kinh tế nước nhà ngày càng phát triển.

2.4.5. Đổi mới, phát triển khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ chính là động lực thúc đẩy q trình phát triển
của CNH, HĐH .
Hiện nay, trình độ khoa học cơng nghệ của nước ta còn lạc hậu so
với thế giới. Vì vậy, muốn đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH thì chúng ta
cần phải đẩy nhanh qúa trình đổi mới cơng nghệ và phát triển nghiên cứu
khoa học.
Để phát triển khoa học cơng nghệ ở nước ta thì cần phải xây dựng và
thực hiện tốt cơ chế, chính sách đồng bộ cho phát triển khoa học cơng
nghệ. Nhanh chóng hình thành thị trường khoa học công nghệ. Gắn nhà
sản xuất với nhà nghiên cứu. Chú trọng nghiên cứu, nhanh chóng triển
khai, tiếp cận các thành tựu khoa học hĩ thuật mới; tăng cường nâng cao
cơ sở vật chất kĩ thuật cho các ngành khoa học và công nghệ; mở rộng
quan hệ nhằm tiếp cận những thành tựu mới của thế giới.
2.4.6. Giữ vững ổn định chính trị

23


Ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng hàng đầu để
phát triển đất nước. Đất nước có bền vững, ổn định thì kinh tế mới phát
triển được.
Như đã trình bày ở trên, chính trị ổn định chính là điều kiện để thu
hút vốn đầu tư của nước ngồi.
Muốn giữ vững chính trị ổn định thì cần phải tăng cường nâng cao
vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của nhà nước, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.

2.4.7. Phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường
Môi trường là yếu tố rất quan trọng, là sự sống của toàn nhân loại.
Hiện nay, chỉ vì q đề cao mục đích phát triển kinh tế mà môi
trường đang bị lãng quên đi. Việt Nam là đất nước đang nằm trong khu
vực báo động về vấn đề ô nhiễm môi trường.
Sự nghiệp CNH, HĐH càng được đẩy nhanh thì mơi trường bị ơ
nhiễm ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
Muốn bảo vệ được sự sống của mình chúng ta cần đề ra những biện
pháp, chính sách hợp lý cho việc bảo vệ môi trường, đề ra và thực hiện
đúng theo hệ thống pháp luật quay định; khuyến khích việc trồng cây
xanh; tăng cường vai trị quản lý của nhà nước; giáo dục, tuyên truyền về
vấn đề bảo vệ môi trường,...

24


C. Kết Luận


Sự nghiệp CNH, HĐH là cả một quá trình to lớn và lâu dài. Nó cần
sự đồn kết, hợp tác của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Mỗi một
người, mỗi một ngành,...sẽ góp phần trong cơng tác thực hiện CNH, HĐH
để sớm đưa nước ta thành một nước cơng ngiệp theo hướng hiện đại.
Trí thức trẻ là một trong những nguồn nhân lực quan trọng trong sự
nghiệp CNH, HĐH. Chính vì vậy, ngay từ khi cịn ngồi trong ghế nhà
trường, chúng ta hãy góp sức mình bằng cách học tập thật tốt để sau này là
những người trực tiếp đi vào thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Như Bác Hồ ta đã từng nói: “Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay khơng chính là nhờ một phần ở công học
tập của các cháu”.
25


×