Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Thực tiễn giải quyết các vụ việc ly hôn ở tòa án nhân dân tỉnh kon tum và một số kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.65 KB, 43 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU TẠI KON TUM

ĐỖ THỊ HỒNG HẠNH
BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC
LY HƠN Ở TỊA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KON
TUM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Kon Tum, tháng 12 năm 2016


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU TẠI KON TUM

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC
LY HÔN Ở TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KON
TUM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : Th.S. NGUYỄN THỊ ANH THƯ
SINH VIÊN THỰC HIỆN

: ĐỖ THỊ HỒNG HẠNH

MSSV
LỚP

: 122501017
: K612LHV




MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI ...................................................................................1
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ............................................................................................2
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................................................2
5. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI ...................................................................................................2
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KON TUM ..................3
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KON TUM .................................3
1.1.1. Vị trí địa lý .............................................................................................................3
1.1.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum .............................................3
1.2. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KON TUM ......5
1.2.1. Chức năng của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum ....................................................5
1.2.2. Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum .....................................................6
CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LY HÔN ...............................................9
2.1. KHÁI NIỆM LY HÔN VÀ LỊCH SỬ CHẾ ĐỊNH LY HÔN TRONG PHÁP
LUẬT VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN .........................................9
2.1.1. Khái niệm ly hôn ...................................................................................................9
2.1.2. Lịch sử chế định ly hôn trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát triển ..9
* Ly hôn theo cổ luật Việt Nam ......................................................................................9
* Ly hôn trong thời kì Pháp thuộc (đến trước năm 1945) .............................................10
* Ly hôn trong giai đoạn từ năm 1945 đến nay .............................................................10
2.2. CĂN CỨ LY HƠN ....................................................................................................13
2.2.1. Căn cứ ly hơn khi thuận tình ly hơn ....................................................................13
2.2.2. Căn cứ ly hơn khi ly hôn theo yêu cầu của một bên ...........................................14
2.3. HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN .....................................................................17
2.3.1. Quan hệ nhân thân giữa 2 vợ chồng ....................................................................17
2.3.2. Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn ..................................................................18
2.3.3. Giải quyết cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn .................................................22

2.3.4. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con khi ly hôn ...............................................22
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC CĂN CỨ LY HÔN ĐỂ GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN VỀ LY HƠN Ở TỊA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KON TUM VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ NHẰM HỒN THIỆN CÁC CHẾ ĐỊNH VỀ LY HƠN ......................25
3.1. THỰC TRẠNG LY HÔN Ở TỈNH KON TUM .....................................................25
3.2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC
TRƯỜNG HỢP LY HƠN TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KON TUM VÀ

i


NHỮNG BẤT CẬP TRONG VIỆC ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN ĐỂ GIẢI
QUYẾT CÁC TRƯỜNG HỢP LY HÔN ......................................................................26
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ LY HƠN...28
3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HỒN THIỆN CHẾ ĐỊNH VỀ LY HƠN.........32
3.4.1. Đối với Tịa án nhân dân: ....................................................................................32
3.4.2. Các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng ly hôn ....................................................36
KẾT LUẬN .......................................................................................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................................39

ii


PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là mơi trường quan
trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Tuy nhiên trong
những năm gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế xã hội thì quan hệ giữa con người
với con người trong đó có quan hệ hơn nhân và gia đình đã bị tác động mạnh mẽ. Hàng

năm, trong cả nước thì số lượng các vụ kiện về hơn nhân gia đình mà Tịa án các cấp phải
thụ lý giải quyết khoảng trên 50.000 vụ việc, chủ yếu là ly hôn và tranh chấp tài sản sau
khi ly hôn.
Hậu quả của việc ly hôn là làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng xấu đến
con cái. Ly hôn là một biện pháp chấm dứt tình trạng mâu thuẫn gay gắt giữa vợ và
chồng, vợ chồng chia tay bằng một phán quyết của Toà án, và nó khơng chỉ gây hậu quả
đối với các thành viên trong gia đình mà cịn gây ra nhiều hậu quả khác cho xã hội. Do
vậy, ly hôn không chỉ là vấn đề riêng của mỗi gia đình mà là vấn đề mà cả xã hội quan
tâm.
Tuy nhiên, ngày nay, ly hơn đã được nhìn nhận đúng với bản chất tích cực và tiến
bộ của nó. Dưới góc độ pháp lý, ly hôn được ghi nhận là một chế định độc lập của Luật
Hơn nhân và gia đình, nó là cơ sở cho Toà án và các bên đương sự giải quyết vấn đề ly
hơn một cách thấu tình đạt lý, góp phần giải quyết con người ra khỏi sự ràng buộc khơng
cần thiết khi tình cảm vợ chồng khơng cịn. Ta thấy rằng, một gia đình tốt thì xã hội mới
tốt và ngược lại, xã hội tốt là điều kiện thúc đẩy gia đình tiến bộ. Mặc dù vậy, khi gia
đình lâm vào tình trạng trầm trọng, khơng thể duy trì, hạnh phúc khơng cịn thì sự ly hơn
là cần thiết. Nhà nước đặt ra chế độ hôn nhân tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ, nhằm xây
dựng gia đình dân chủ, hoà thuận, bền vững ngay cả khi gia đình đó tan vỡ thì sự bình
đẳng về quyền và lợi ích giữa vợ và chồng vẫn được đảm bảo. Đó là sự tiến bộ thể hiện
quyền tự do ly hôn của hai vợ chồng.
Từ rất nhiều năm nay, nhà nước đã tuyên truyền và phổ biến rộng rãi để mọi người
dân hiểu biết trong việc bảo vệ quyền lợi của mọi thành viên và xây dựng hạnh phúc gia
đình. Các cấp, các ngành mà đặc biệt là ngành Toà án đã góp phần khơng nhỏ vào việc tổ
chức và hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế xét xử các vụ án ly hơn cho thấy,
cịn tồn tại một số vướng mắc như vấn đề xác định căn cứ ly hôn, hậu quả pháp lý của ly
hôn. Nhiều vụ đã phải qua nhiều cấp xét xử do có sự kháng cáo của đương sự và kháng
nghị của người có thẩm quyền. Ngun nhân dẫn đến tình trạng trên là do trình độ, năng
lực của một số cán bộ xét xử chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của cơng việc. Bên cạnh
đó, cần phải nói tới sự chưa hồn thiện của pháp luật đã dẫn đến tình trạng các nhà áp
1



dụng pháp luật có cách hiểu khơng thống nhất nên đã vận dụng pháp luật một cách tuỳ
tiện.
Chính vì lí do đó, tơi muốn được đi sâu tìm hiểu về vấn đề này. Được sự giúp
đỡ của Thạc sỹ Nguyễn Thị Anh Thư, tơi xin được tìm hiểu về đề tài “Thực tiễn giải
quyết các vụ án ly hôn ở Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum và một số kiến nghị” để làm
báo cáo tốt nghiệp của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề tài hướng đến các mục đích sau:
- Thứ nhất, cung cấp những luận cứ khoa học, những vấn đề cơ bản của ly hơn.
- Thứ hai, tìm hiểu về thực tiễn áp dụng các căn cứ ly hơn để giải quyết các vụ án ly
hơn ở Tịa án nhân dân tỉnh Kon Tum.
- Thứ ba, trên cơ sở đó, tìm hiểu những quy định cịn bất cập, chưa cụ thể, đề xuất
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các chế định về ly hôn.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản liên quan đến ly hôn theo quy
định pháp luật Việt Nam. Tổng hợp tình hình thực tiễn áp dụng các căn cứ ly hôn để giải
quyết các vụ án ly hơn ở Tịa án nhân dân tỉnh Kon Tum trong thời gian qua. Trên cơ sở
những phân tích về thực trạng, nguyên nhân và hậu quả của ly hôn, đề tài đưa ra một số
kiến nghị hồn thiện chế định ly hơn.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề trong đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Tác giả còn kết hợp các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, so sánh, nghiên cứu lý thuyết,
kết hợp giữa lý luận với thực tiễn.
5. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của đề
tài bao gồm 3 chương chính:
- Chương 1: Giới thiệu về Tịa án nhân dân tỉnh Kon Tum

- Chương 2: Những vấn đề cơ bản về ly hôn
- Chương 3: Thực tiễn giải quyết các vụ án ly hơn ở Tịa án nhân dân tỉnh Kon
Tum, những bất cập và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện.

2


CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH KON TUM
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KON TUM
1.1.1. Vị trí địa lý
Kon Tum là tỉnh miền núi vùng cao nằm ở cực Bắc Tây Nguyên; phía Tây giáp
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia, phía Bắc giáp tỉnh
Quảng Nam; phía Đơng giáp tỉnh Quảng Ngãi; phía Nam giáp tỉnh Gia Lai; diện tích tự
nhiên 9.689,61 km2; có 9 huyện và 01 thành phố với 102 xã, phường, thị trấn (trong đó,
có 13 xã biên giới); dân số trung bình gần 500.000 người; mật độ dân số 50 người/km2;
đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 53,22% dân số tỉnh, với 28 dân tộc khác nhau cùng sinh
sống (trong đó có 6 dân tộc tại chỗ: Xê Đăng, Ba Na, Gia Rai, Giẻ Triêng, Brâu, Rơ
Mâm) và có gần 50% dân số theo các tơn giáo.
Là một tỉnh khó khăn về nhiều mặt như: địa hình vùng cao miền núi chia cắt, mật
độ dân số thấp, sống khơng tập trung, có đường biên giới dài, kinh tế phát triển chậm, tốc
độ tăng trưởng bình quân trên địa bàn thấp...Kon Tum có điều kiện hình thành các cửa
khẩu, mở rộng hợp tác quốc tế về phía Tây. Ngồi ra, Kon Tum có vị trí chiến lược hết
sức quan trọng về quốc phịng, bảo vệ mơi trường sinh thái. Kon Tum là đầu mối giao
lưu kinh tế của cả vùng duyên hải miền Trung và cả nước.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum
Căn cứ theo Điều 38 đến Điều 43 Luật Tổ chức Tịa án nhân dân năm 2014 thì cơ
cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum gồm:
* Uỷ ban Thẩm phán

Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh Kon Tum gồm có: Chánh án, các Phó
Chánh án Tồ án nhân dân tỉnh. Một số Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của
Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tổng số thành viên Uỷ
ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khơng q chín
người. Ngồi ra Tịa án nhân dân tỉnh Kon Tum cịn có : Thẩm tra viên, Thư ký, các cán
bộ cơng chức khác và các vị Hội thẩm nhân dân.
* Các Tịa chun trách
Gồm: Tồ hình sự, Tồ dân sự, Tồ kinh tế, Tồ lao động, Tồ hành chính; trong
trường họp cần thiết Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Toà chuyên
trách khác theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Các Toà chuyên trách của
Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Chánh tồ, Phó Chánh tồ,
Thẩm phán, Thư ký Tồ án.
Nhiệm vụ, quyền hạn của các Tịa chun trách tại Tịa án nhân dân tỉnh Kon Tum:
Tồ hình sự Tịa án nhân dân tỉnh Kon Tum có những nhiệm vụ, quyền hạn
sau đây:
3


Tồ hình sự Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ
án về các tội đặc biệt nghiêm trọng gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại hồ bình, chống lồi
người và tội phạm chiến tranh; các tội: Giết người; giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh; giết người do vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng; vi phạm các quy
định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên… thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm
của Toà án cấp tỉnh trong mọi trường hợp mà khơng căn cứ vào khung hình phạt.
Phúc thẩm những vụ án hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật của Tồ án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố
tụng.

Sơ thẩm những vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Phúc
thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tịa án
cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.
Tồ dân sự Tịa án nhân dân tỉnh Kon Tum có những nhiệm vụ, quyền hạn
Theo quy định tại Điều 26,27,28,33,34 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Tồ dân sự Tồ
án nhân dân tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hơn
nhân gia đình, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tồ án cấp huyện mà có đương sự hoặc
tài sản đang ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt
nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài. Gồm: các tranh chấp dân sự ; tranh chấp về
hôn nhân gia đình; các yêu cầu về dân sự; các yêu cầu về Hơn nhân gia đình…
Tồ kinh tế Tịa án nhân dân tỉnh Kon Tum có những nhiệm vụ, quyền hạn
sau đây:
Sơ thẩm những vụ án kinh tế theo quy định của pháp luật. Phúc thẩm những vụ án
kinh tế mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị
kháng cáo, kháng nghị. Giải quyết việc phá sản theo quy định của pháp luật.
Tồ lao động Tịa án nhân dân tỉnh Kon Tum có những nhiệm vụ, quyền hạn
sau đây:
Sơ thẩm những vụ án lao động theo quy định của pháp luật. Phúc thẩm những vụ án
lao động mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp dưới bị
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Giải quyết các cuộc đình
cơng theo quy định của pháp luật.
Tồ Hành chính Tịa án nhân dân tỉnh Kon Tum có những nhiệm vụ, quyền
hạn sau đây:
Tồ hành chính Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum có thẩm quyền xét xử sơ thấm
những khiếu kiện liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính, khiếu kiện
quyết định kỷ luật buộc thơi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức; quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà người khởi kiện là cá nhân có
nơi cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh
4



thổ với Toà án; phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định hành chính sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của pháp luật tố tụng…
* Bộ máy giúp việc
- Văn phịng Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum:
Chức năng, nhiệm vụ của Văn phịng Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum: Thực hiện
cơng tác tổng hơp thống kê báo cáo; Giúp Chánh án Tịa án nhân dân tỉnh Kon Tum tổ
chức cơng tác xét xử; Giúp Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum chuẩn bị báo cáo
cơng tác của Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và với
Tòa án nhân dân tối cao; Thực hiện cơng tác văn thư, lưu trữ, hành chính quản trị, kế tốn
tài chính và các đảm bảo khác phục vụ cho hoạt động xét xử của đơn vị; Tổ chức và theo
dõi hoạt động thi đua, khen thưởng đối với cán bộ cơng chức Tịa án nhân dân tỉnh và
Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh; Quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí
hoạt động của cơ quan Tịa án nhân dân tỉnh và Tồn án nhân dân cấp huyện; Giúp
Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh thực hiện công tác theo dõi thi hành án hình sự.
- Phịng giám đốc kiểm tra Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum:
Phịng giám đốc kiểm tra Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum có những chức năng,
nhiệm vụ sau: Kiểm tra các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án nhân
dân cấp huyện. Nếu phát hiện bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện có sai
lầm thì báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm theo quy định của pháp luật tó tụng; Giúp Chánh án Tịa án nhân dân tỉnh
kiểm tra, thanh tra công tác xét xử đối với các Tòa án nhân dân cấp huyện trong tỉnh để
phát hiện những sai sót, kịp thời rút kinh nghiệm hoặc kháng nghị theo thẩm quyền; Giúp
Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh trong công tác giải quyết các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền của Tồ án.
- Phịng tổ chức cán bộ Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum:
Phịng tổ chức cán bộ Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum có những chức năng, nhiệm
vụ sau: Giúp chánh án Tòa án nhân dân tỉnh trong việc quản lý tổ chức bộ máy, biên chế
và quản lý cán bộ, công chức; thực hiện công tác cán bộ đối với Tòa án nhân dân tỉnh và

Tòa án nhân dân cấp huyện trong tỉnh; Giúp Hội đồng tuyển chọn thẩm phán Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện về các thủ tục hành chính trong việc tuyển
chọn, đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Thẩm
phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh.
1.2. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KON TUM
1.2.1. Chức năng của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum
Tồ án có một vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng, là cơ quan trung tâm trong hệ thống
các cơ quan tư pháp, thể hiện qua các chức năng và nhiệm vụ sau:

5


Thứ nhất, Toà án là cơ quan xét xử duy nhất của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, chỉ có Tồ án mới có quyền tun bố một người có tội hoặc vơ tội và áp dụng
hình phạt hoặc các biện pháp tư pháp khác đối với họ.
Thứ hai, Toà án xét xử theo chế độ hai cấp, xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm.
Ngoài ra, Tồ án cịn thực hiện chức năng giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án hay quyết
định của Toà án cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có sự
vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục tố tụng...hoặc phát hiện có những tình tiết mới làm
thay đổi bản chất của vụ án...để đảm bảo hoạt động xét xử của Toà án là phải đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai xảy ra.
Thứ ba, Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi
xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Không một
cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được phép can thiệp, tác động, làm ảnh hưởng đến tính độc
lập xét xử của Toà án. Phán quyết của Toà án là nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; Bản án, quyết định của Tồ án có tính cưỡng chế Nhà nước nghiêm
khắc nhất để đảm bảo hiệu lực thi hành.
Thứ tư, Trong tố tụng hình sự, mọi hoạt động điều tra, truy tố đều phục vụ cho quá
trình xét xử, phục vụ cho việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Bản
án, quyết định của Toà án làm cơ sở cho việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người

phạm tội.
Thứ năm, Khi nói đến quyền tư pháp là phải nói đến Tồ án, Toà án là nơi biểu hiện
một cách mạnh mẽ nhất, tập trung và rõ ràng nhất quyền lực tư pháp thơng qua hoạt động
xét xử.
1.2.2. Nhiệm vụ của Tịa án nhân dân tỉnh Kon Tum
Ngoài chức năng xét xử, Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum cịn có nhiệm vụ:
Thứ nhất: Đấu tranh chống và phịng ngừa tội phạm, góp phần ổn định chính trị,
trật tự an tồn xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, tổ chức và mọi cá nhân. Trong quá trình xét xử, giải quyết vụ án
hình sự, Tồ án có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, để từ đó có
những kiến nghị, yêu cầu đối với cá nhân có trách nhiệm, tổ chức, cơ quan nhà nước có
liên quan có những biện pháp hợp lý và kịp thời để chống và ngăn ngừa tội phạm mới
phát sinh.
Thứ hai, Sau khi ra quyết định thi hành bản án, Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum cịn
có nhiệm vụ phối hợp với chính quyền địa phương, các cơ quan đồn thể, cơ quan Viện
kiểm sát để theo dõi, giám sát, giáo dục bị cáo được hưởng án treo, cải tạo không giam
giữ, xét giảm thời gian thử thách đối với những người bị phạt tù nhưng cho hưởng án
treo, công tác đặc xá.
Thứ ba, Trong các vụ án dân sự, lao động, kinh tế Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum
là nơi bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân khi có tranh chấp
xảy ra, ln cố gắng xây dựng mối đồn kết trong nhân dân qua việc xét xử, hoà giải các
6


tranh chấp dân sự, hơn nhân và gia đình, hàn gắn và khôi phục lại một phần những mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữ được truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta là
đoàn kết, thân ái, giúp đỡ, chín bỏ làm mười.
Như vậy, Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum có một vai trị, vị trí quan trọng trong Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Tồ án nhân dân nói chung và Tịa án nhân
dân tỉnh Kon Tum là nơi thực hiện công lý và công bằng xã hội thông qua chức năng xét

xử. Theo quy định tại Điều 2 Luật tổ chức Tồ án nhân dân thì: Trong phạm vi chức
năng của mình, Tồ án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể;
bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của cơng dân.
Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum là nơi biểu hiện quyền lực Nhà nước mạnh mẽ và
sâu sắc, mọi phán quyết của Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum có tính cưỡng chế nghiêm
khắc của Nhà nước. Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum đã có
hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành. Nhà nước đã tạo ra một hệ thống thiết chế, chế tài hỗ trợ
cho bản án, quyết định được thực hiện trong thực tể cuộc sống, đặc biệt trong Bộ luật
hình sự Việt nam hiện hành quy định ba tội phạm liên quan đến những phán quyết của
Tồ án, đó là tội “khơng chấp hành án”, tội “ không thi hành án”, và tội “cản trở việc
thi hành án”.
Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum là nơi thực hiện chức năng tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật có hiệu quả nhất, bằng việc đưa lên phương tiện thông tin đại chúng
các phiên toà xét xử, tổ chức xét xử lưu động ngoài tác dụng răn đe, giáo dục, phòng
ngừa riêng và phòng ngừa chung, cịn có tác dụng tun truyền, giới thiệu, giải thích cho
quần chúng nhân dân về pháp luật để mọi người hiểu biết thêm về pháp luật và hướng họ
tới “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Bằng hoạt động của mình, Tồ án
nhân dân tỉnh Kon Tum góp phần giáo dục cơng dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum khơng chỉ là một cơ quan bảo vệ pháp luật mà cịn
chính là cơ quan trung tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, nó điều hồ, chi phối các q trình xã hội và các quan hệ xã hội,
giữa các cơ quan Nhà nước với nhau, giữa cơ quan Nhà nước, nhân viên Nhà nước với
công dân và giữa các thành viên trong cộng đồng xã hội.
Trong hiến pháp đầu tiên của nước ta được thông qua vào ngày 9/11/1946, mặc dù
khơng có một điều luật cụ thể nào khẳng định tồ án có chức năng xét xử, nhưng nội

dung của các điều luật đều toát lên một nội dung là ở nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
việc xét xử các việc hình sự, dân sự, thương sự đều thuộc thẩm quyền của toà án. Chương

7


VI của Hiến pháp 1946 với tên gọi "cơ quan tư pháp" có 7 điều quy định về tổ chức bộ
máy và các nguyên tắc hoạt động của ngành toà án.
Toà án nhân dân tỉnh Kon Tum xét xử những vụ án hình sự; những vụ án dân sự
(bao gồm những tranh chấp về dân sự; những tranh chấp về hơn nhân và gia đình;
những tranh chấp về kinh doanh, thương mại; những tranh chấp về lao động); những vụ
án hành chính.
Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum giải quyết những việc dân sự (bao gồm những yêu
cầu về dân sự; những u cầu về hơn nhân và gia đình; những yêu cầu về kinh doanh,
thương mại; những yêu cầu về lao động); giải quyết yêu cầu tuyên bó phá sản doanh
nghiệp; xem xét và kết luận cuộc đình cơng họp pháp hay khơng hợp pháp.
Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum giải quyết những việc khác theo quy định của pháp
luật (quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết tranh
chấp thương mại tại Trọng tài; ra quyết định thi hành án hình sự; hỗn hoặc tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù; ra quyết định miễn chấp hành hình phạt hoặc giảm mức hình
phạt đã tun; ra quyết định xố án tích...).
Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của cơng dân.
Bằng hoạt động của mình, Tồ án nhân dân tỉnh Kon Tum góp phần giáo dục công
dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những
nguyên tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi
phạm pháp luật khác.

8



CHƯƠNG 2

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LY HÔN
2.1. KHÁI NIỆM LY HÔN VÀ LỊCH SỬ CHẾ ĐỊNH LY HÔN TRONG PHÁP
LUẬT VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
2.1.1. Khái niệm ly hôn
Theo Khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì ly hơn là sự chấm
dứt quan hệ hơn nhân do Tồ án cơng nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc
chồng hoặc bằng quyết định thuận tình ly hơn. Hay nói cách khác ly hôn là sự chấm dứt
quan hệ vợ chồng trước pháp luật .
2.1.2. Lịch sử chế định ly hôn trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát
triển
* Ly hôn theo cổ luật Việt Nam
- Rẫy vợ:
Rẫy vợ là việc người chồng được đơn phương bỏ vợ ngồi tầm kiểm sốt của các
thiết chế xã hội. Điều 301 Bộ luật Hồng Đức quy định: nếu người vợ phạm phải một
trong các điều “thất xuất” thì chồng phải bỏ vợ, nếu không bỏ vợ sẽ bị tội biếm. Tuy Bộ
luật Hồng Đức không thống kê rõ các trường hợp nào được coi là “thất xuất”, nhưng
trong Bộ luật Gia Long (Điều 108) đã nêu rõ, đó là bảy trường hợp sau: khơng có con,
dâm đãng, khơng thờ bố mẹ chồng, lắm điều, trộm cắp, ghen tuông, bị ác tật. Cổ luật Việt
Nam còn quy định 3 trường hợp người chồng không được bỏ vợ (tam bất khứ) dù cho
người vợ có phạm phải một trong các điều “thất xuất”, đó là: vợ đã để tang nhà chồng
được 3 năm; khi vợ chồng lấy nhau nghèo hèn, sau trở nên giàu có; khi vợ chồng lấy
nhau, vợ cịn bà con họ hàng, khi bỏ vợ, vợ khơng cịn nơi nương tựa.
Có thể nói, việc ly hơn khơng là sự tự nguyện giữa hai người mà hoàn toàn phụ
thuộc vào địa vị kinh tế, vào sự phân tầng giai cấp xã hội.
- Ly hơn bắt buộc
Ngồi các trường hợp thất xuất, cổ luật Việt Nam còn quy định khi việc kết hơn vi

phạm các điều kiện của kết hơn thì vợ chồng buộc phải ly dị. Theo quy định của Điều
108, luật Gia Long quy định: khi vợ chồng phạm phải điều “nghĩa tuyệt” thì buộc phải ly
hơn. “Nghĩa tuyệt” có thể do lỗi của vợ (vợ mưu sát chồng), lỗi của chồng (chồng bán
vợ) hoặc là lỗi của hai vợ chồng. Nghĩa là, ở các trường hợp “nghĩa tuyệt” dù người phụ
nữ cũng được quyền ly hôn trong một số tình huống, địa vị pháp lý của họ cũng khơng
được bình đẳng với chồng.
Có thể nói, với các trường hợp ly hôn bắt buộc, cổ luật Việt Nam chưa phân biệt
sự khác nhau giữa chế định ly hôn với huỷ hơn trái pháp luật.
* Thuận tình ly hơn
9


Điều 108, luật Gia Long, thuận tình ly hơn được quy định như sau: “ nếu chồng vợ
trẹo ý không vui nhau, cả hai đều muốn ly dị, tình thì khơng hợp, ân đã lìa thì khơng thể
nào hồ lại được, cho phép họ ly dị, không bị tội ”.
Như vậy, việc nghiên cứu duyên cớ ly hôn trong cổ luật Việt Nam cho phép rút ra
một số nhận xét sau:
- Một là, trong cổ luật Việt Nam thì căn cứ ly hôn được quy định không đơn nhất
mà rất đa dạng.
- Hai là, vì ảnh hưởng đậm nét bởi tư tưởng Nho giáo, ý chí cá nhân của vợ chồng
bị gạt ra ngồi lề khơng chỉ khi họ kết lập hơn nhân của chính họ, mà cịn khi cuộc hơn
nhân của họ bị huỷ bỏ, để thay vào đó là lợi ích gia đình, gia tộc. Ly hơn vì lí do “thất
xuất” hay “nghĩa tuyệt” là sự phản ánh triệt để quan điểm này.
- Ba là, cũng dưới ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đề cao đức trị mà những quy
định về duyên cớ ly hôn đã được thiết lập trên cơ sở đạo đức và nhân cách cá nhân để rồi
bằng cách ấy chúng đã xố nhồ ranh giới giữa đạo đức và pháp luật.1
- Bốn là, duyên cớ ly hôn trong cổ luật thể hiện sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng,
trong đó số phận người phụ nữ phụ thuộc vào ý chí của người chồng và gia đình chồng.
Ngay cả trong trường hợp thuận tình ly hơn, cũng khơng có bất cứ sự đảm bảo nào cho
người phụ nữ.

* Ly hơn trong thời kì Pháp thuộc (đến trước năm 1945)
Tại Nam Kỳ đã áp dụng quy định của của Bộ Dân Luật giản yếu 1883 quy định
quyền xin ly hôn chỉ do người chồng quyết định, người vợ khơng có quyền xin ly hơn
nhưng được áp dụng chế độ “tam bất khứ” để hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng.
Trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Trung Kỳ thì việc giải quyết ly hôn được xác định
trên cơ sở lỗi của vợ chồng tiếp tục được kế thừa. Theo Điều 118 Bộ Dân luật Bắc Kỳ
quy định người chồng có thể xin ly hơn vợ vì: vợ phạm gian, vợ bỏ nhà chồng mà đi, tuy
đã bắt phải về mà không về, vợ thứ đánh, chửi, tệ bạc với vợ chính. Điều 119 Bộ Dân
luật Bắc Kỳ quy định người vợ có thể xin ly hơn vì những dun cớ sau: chồng không
làm đúng nghĩa vụ đã cam đoan sau khi kết hơn, chồng bỏ nhà đi q hai năm khơng có
cớ gì chính đáng và khơng lo liệu việc ni sống vợ con,…
Vấn đề ly hôn thời kỳ này, chủ yếu được xây dựng trên nền tảng Nho giáo phong
kiến trước đây và dựa theo Dân luật của Pháp năm 1804 với quan điểm thuần tuý coi hôn
nhân là một hợp đồng do Dân luật điều chỉnh.
* Ly hôn trong giai đoạn từ năm 1945 đến nay
- Giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1954

1

Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam lược khảo, quyển thứ nhất, Sài Gòn, năm 1969.

10


Trong bản Hiến Pháp đầu tiên của nước ta năm 1946, quyền bình đẳng giữa nam
và nữ đã được ghi nhận tại điều 19 của Hiến Pháp 1946; “đàn bà ngang quyền đối với
đàn ông về mọi phương diện”. Điều này làm cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đấu tranh
xóa bỏ chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến, đặt nền móng xây dựng hơn nhân và gia
đình dân chủ, tiến bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều sắc lệnh với các quy định rất tiến bộ về

vấn đề ly hôn, và hôn nhân gia đình, như: cho phép người đàn bà sau khi ly dị chồng, có
thể lấy chồng khác ngay sau khi Tịa tun án ly hơn1; hay việc xóa bỏ sự bất bình đẳng
về ngun nhân ly hơn giữa vợ và chồng trong pháp luật cũ 2, Tịa án có thể cho phép vợ
chồng ly hôn trong các trường hợp sau3: ngoại tình; một bên can án phạt giam; một bên
bỏ nhà đi q 2 năm khơng có dun cớ chính đáng; một bên mắc bệnh điên hoặc một
bệnh khó chữa khỏi; vợ chồng tính tình khơng hợp hoặc đối xử với nhau đến nỗi không
thể chung sống được. Các Sắc lệnh đã đề ra một số nguyên tắc chung, tiến bộ góp phần
khơng nhỏ vào việc xóa bỏ chế độ hơn nhân phong kiến, giải phóng phụ nữ, thúc đẩy sự
phát triển của xã hội Việt Nam trong thời kì đầu của cách mạng dân tộc. Tuy nhiên, bên
cạnh những ưu điểm mang tính dân chủ và tiến bộ của một nền pháp chế mới thì quy định
căn cứ ly hơn vẫn dựa trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng.
- Giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1975
Ở miền Bắc, chế độ hơn nhân và gia đình được xây dựng trên nguyên tắc tự do,
tiến bộ, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền và lợi ích của người phụ nữ và con cái. Trên cơ
sở Hiến Pháp 1959 ghi nhận sự bình đẳng dân chủ giữa phụ nữ và nam giới về các mặt,
Nhà nước bảo hộ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em, bảo vệ hôn nhân và gia đình. Luật Hơn
nhân và gia đình được Quốc Hội khóa I thơng qua ngày 29/12/1959 và có hiệu lực ngày
13/01/1960. Lần đầu tiên, căn cứ ly hôn được xác định hồn tồn khác. Việc giải quyết ly
hơn khơng dựa trên yếu tố lỗi của các bên như trước đây mà trên cơ sở thực trạng của
quan hệ hôn nhân (điều 26 Luật Hơn nhân và gia đình 1959).
Ở miền Nam, sau năm 1954, các quy định về hôn nhân và gia đình rất lạc hậu mặc
dù đã bãi bỏ chế độ đa thê, song vẫn thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ chồng,
bảo vệ quyền gia trưởng. Chế độ đa thê bị phá bỏ nhưng người vợ vẫn phụ thuộc chồng,
thể hiện tư tưởng hết sức cực đoan, cấm chỉ sự vợ chồng ruồng bỏ nhau về sự ly hơn, trử
trường hợp đặc biệt Tổng thống có thể quyết định.
- Giai đoạn từ năm 1976 đến nay

1

Điều 4 Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950


2

Sắc lệnh 159/SL ngày 17/11/1950
Điều 2 Sắc lệnh 159/SL ngày 17/11/1950

3

11


Sự ra đời của Hiến pháp 1980 đã có quy định mới về nguyên tắc xây dựng chế độ
hôn nhân và gia đình đã địi hỏi những quy định để cụ thể hóa những nguyên tắc này. Sau
30 năm thực hiện ở miền Bắc và hơn 10 năm thực hiện ở miền Nam, Luật Hơn nhân và
gia đình năm 1959 có một số quy định khơng phù hợp. Xuất phát từ tình hình trên, tại kỳ
họp thứ 12 Quốc hội khố VII ngày 29/11/1986 đã thơng qua Luật Hơn nhân và gia đình
năm 1986 gồm 10 Chương, 57 điều với căn cứ ly hôn được quy định tại Điều 40: “Khi vợ
hoặc chồng, hoặc cả hai vợ chồng có đơn xin ly hơn thì Tồ án nhân dân tiến hành điều
tra và hoà giải. Trong trường hợp cả hai vợ chồng xin ly hơn, nếu hồ giải khơng thành
và xét nếu đúng là hai bên thực sự tự nguyện ly hơn, thì Tồ án nhân dân cơng nhận cho
thuận tình ly hôn. Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hơn, nếu hồ giải
khơng thành thì Tồ án nhân dân xét xử. Nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống
chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được thì Tồ án nhân dân cho
ly hơn”.
Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 đã từng bước xố bỏ chế độ hơn nhân phong
kiến, tư sản thay vào đó là một chế độ hơn nhân gia đình tự do, tiến bộ; vai trị của người
phụ nữ trong gia đình và trong xã hội được đề cao. Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986
ra đời khi nhà nước ta bắt đầu thời kỳ đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, làm cho nó trở nên khơng phù hợp với hồn cảnh xã hội hiện tại. Do vậy, địi hỏi
Luật Hơn nhân và gia đình phải có sự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Tại Kỳ

họp thứ 7, Quốc hội khố X ngày 09/6/2000 đã thơng qua Luật Hơn nhân và gia đình
gồm 13 Chương, 110 điều. Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định căn cứ ly hôn
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Căn cứ ly hôn không được quy định riêng
biệt mà được quy định chung nhất, dựa vào bản chất của quan hệ hơn nhân đã tan vỡ. Tồ
án nhân dân phải tiến hành điều tra và hoà giải nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình và chỉ
khi nào xét thấy quan hệ quan hệ vợ chồng đã thực sự đến mức “tình trạng trầm trọng,
đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được” thì Tồ án
mới giải quyết cho ly hơn (Điều 89).
Tuy nhiên, sau gần 15 năm áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì vẫn
cịn xảy ra nhiều bất cập cần khắc phục. Và tại kỳ họp lần thứ 7, Quốc hội nước cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khố 13 đã thơng qua Luật Hơn Nhân và gia đình 2014 vào
ngày 19/6/2014, gồm 9 chương, 133 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015.
Với những sửa đổi, bổ sung quan trọng, phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế - xã
hội Việt Nam, Luật này đã đáp ứng kịp thời các yêu cầu khách quan của đời sống hơn
nhân và gia đình trong tình hình mới; bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền
công dân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; bình đẳng giới; kế thừa và phát huy các giá
trị văn hóa, đạo đức truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam.
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 đã kế thừa, phát triển và mở rộng hơn, cụ thể hơn,
chi tiết hơn so với luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 nhằm mục đích giải quyết tốt nhất
vấn đề ly hôn trong xã hội Việt Nam.
12


2.2. CĂN CỨ LY HƠN
Ly hơn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tịa án. Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định các căn cứ để Tịa án
thụ lý giải quyết u cầu ly hơn bao gồm hai căn cứ tại Điều 55 và Điều 56:
2.2.1. Căn cứ ly hơn khi thuận tình ly hơn
Thuận tình ly hơn là trường hợp cả vợ hoặc chồng cùng yêu cầu chấm dứt hôn nhân
được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hơn của vợ chồng.

Theo Điều 55 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường hợp
vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa
thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở
bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tịa án cơng nhận thuận tình ly hơn; nếu
khơng thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng khơng bảo đảm quyền lợi chính đáng
của vợ và con thì Tịa án giải quyết việc ly hôn”.
Trong Luật Hôn nhân và gia đình 2000 thì sự tự nguyện của hai vợ chồng không
phải là căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn nhân mà sự tự nguyện của hai vợ chồng yêu
cầu chấm dứt hôn nhân chỉ là cơ sở để Toà án xét xử. Tuy nhiên, theo quy định của Luật
hơn nhân và gia đình 2014 thì trong trường hợp hai vợ chồng có u cầu thuận tình ly
hơn, sự tự nguyện của hai vợ chồng khi yêu cầu chấm dứt hôn nhân là một căn cứ quyết
định việc chấm dứt hôn nhân. Bảo đảm“thật sự tự nguyện ly hôn” là cả hai vợ chồng đều
được tự do bày tỏ ý chí của mình, khơng bị cưỡng ép, khơng bị lừa dối trong việc thuận
tình ly hơn. Việc thể hiện ý chí thật sự tự nguyện ly hơn của hai vợ chồng đều phải xuất
phát từ trách nhiệm đối với gia đình họ, phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực,
đạo đức xã hội.
Ngồi ra, cũng địi hỏi hai vợ chồng cịn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản,
việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính
đáng của vợ và con, nếu vợ chồng khơng thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng
khơng bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con thì Tồ án quyết định giải
quyết việc ly hơn.
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn thì Tồ án vẫn phải tiến hành
hồ giải, mục đích là để vợ chồng rút đơn yêu cầu ly hôn và đồn tụ với nhau. Việc cho
ly hơn trong trường hợp thuận tình này đối với Tịa án là khơng phải dễ, bởi vì khó có thể
định lượng khi chỉ dựa trên yếu tố thỏa thuận tự nguyện thật sự của hai vợ chồng nếu
không xem xét đến các yếu tố tình trạng mâu thuẫn vợ chồng đến đâu, mức độ ảnh hưởng
đến cuộc sống hôn nhân đến cấp độ nào và gắn với việc thỏa thuận của họ đến đâu về
việc chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn. Thực tế, nguyên nhân phát sinh
tranh chấp trong cuộc sống vợ chồng dẫn đến ly hôn hay thuận tình ly hơn cũng là do tình
13



cảm của vợ chồng bị rạn nứt, một trong hai bên đã khơng làm trịn nghĩa vụ của mình với
gia đình hay vì tự ái cá nhân hoặc hiểu lầm trong quan hệ của vợ hoặc chồng mình nên đã
quyết định yêu cầu Tòa án giải quyết cho họ được ly hơn. Nhưng khi có sự giải thích,
phân tích đúng, sai trong quan hệ của họ của người làm công tác hòa giải để khuyên họ
nên bỏ qua những lầm lỗi, tha thứ cho nhau để quay lại chung sống với nhau thì họ đã
hiểu ra và quay lại đồn tụ chung sống với nhau và Tịa án cũng khơng phải giải quyết về
các vấn đề kéo theo như con và tài sản. Nếu hoà giải thành tức là vợ chồng rút đơn thuận
tình ly hơn thì Tồ án lập biên bản hoà giải thành, sau 15 ngày kể từ ngày Toà án lập biên
bản hoà giải thành mà các bên đương sự khơng thay đổi ý kiến thì Tồ án ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án (Điều 10, Điều 211, Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
Cịn khi hồ giải khơng thành, các bên thực sự tự nguyện ly hôn nhưng không thoả thuận
được về việc chia tài sản hoặc việc trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con thì
Tồ án lập biên bản về việc hồ giải đồn tụ khơng thành và về những vấn đề hai bên
khơng thoả thuận được hoặc có thoả thuận nhưng khơng bảo đảm quyền lợi chính đáng
của vợ và con, đồng thời mở phiên Toà xét xử theo thủ tục chung (điểm d, khoản 3, Điều
203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, đã xuất hiện một số trường hợp xin thuận
tình ly hơn giả tạo, lừa dối cơ quan pháp luật, nhằm mưu cầu lợi ích riêng. Nếu khơng
điều tra kỹ, dễ dẫn đến trường hợp Tồ án có thể kết luận là đã có đủ căn cứ để cơng
nhận thuận tình ly hơn. Vì vậy, trong những trường hợp này, Toà án cần xử bác đơn xin
ly hôn của đương sự, đồng thời nghiêm khắc phê phán, giáo dục đương sự với những
hành vi sai trái đó.
2.2.2. Căn cứ ly hôn khi ly hôn theo yêu cầu của một bên
Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai vợ chồng, hoặc
cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn
nhân. Điều 56 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định về ly hôn theo yêu cầu của
một bên như sau:
“1. Khi vợ hoặc chồng u cầu ly hơn mà hịa giải tại Tịa án khơng thành thì Tịa

án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình
hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hơn nhân lâm vào
tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng
đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tịa án tun bố mất tích u cầu
ly hơn thì Tịa án giải quyết cho ly hơn.

14


3. Trong trường hợp có u cầu ly hơn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật
này thì Tịa án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực
gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.”
Theo đó, khi ly hơn theo u cầu của một bên thì Tịa án cần dựa vào các căn cứ sau
đây:
- Thứ nhất, đối với trường hợp khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hịa giải tại
Tịa án khơng thành thì Tịa án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có
hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng
làm cho hơn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục
đích của hơn nhân khơng đạt được (trong khi đó Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000, tại
Điều 89 về căn cứ cho ly hơn chỉ đề cập: Tịa án xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đính hơn nhân khơng đạt được thì Tịa án quyết định cho
ly hơn).
Trước tiên, khi có u cầu ly hơn của vợ, chồng, Toà án phải tiến hành điều tra và
hồ giải, nếu hồ giải khơng thành thì Tồ án cần xác định tình trạng của quan hệ hơn
nhân, xem có căn cứ ly hơn khơng để giải quyết. Việc giải quyết ly hơn cần phải chính
xác. Nếu xét xử đúng, kết quả đó sẽ phù hợp với nguyện vọng của các bên, bảo vệ quyền
và lợi ích của các thành viên trong gia đình. Ngược lại, nếu việc giải quyết khơng chính
xác sẽ dẫn tới tan vỡ hạnh phúc gia đình, phá huỷ một cuộc hơn nhân cịn có thể cứu vãn
được và gây ra hậu quả không đáng có. Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung

điểm mới khi cho ly hơn khi có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng
quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng. Tình trạng bạo lực trong gia đình ngày càng gia tăng và
thể hiện tính chất nghiêm trọng của nó. Tình trạng bạo lực trong gia đình xảy ra do nhiều
lý do khác nhau. Có trường hợp do cuộc sống vật chất quá khó khăn. Có trường hợp do
ghen tng, nghi ngờ một bên ngoại tình nên đã đánh đập nhau. Tệ cờ bạc, nghiện ngập
cũng là lý do dẫn đến tình trạng vợ chồng đánh đập, ngược đãi nhau. Đa phần bạo lực
trong gia đình dẫn đến tình trạng vợ chồng ly hơn, có trường hợp dẫn đến án mạng. Bên
cạnh đó, đối với những vi phạm khác, những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng trong đời
sống vợ chồng... là lý do để ly hơn thì luật cũng quy định rõ ràng phải có cơ sở nhận định
chung rằng tình trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích hơn nhân
khơng đạt được thì mới giải quyết cho ly hơn.
Qua đó, có thể thấy rằng việc đưa ra những nguyên nhân của hơn nhân lâm vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt
được để cụ thể hóa căn cứ cho ly hơn “vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi
phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng” trong Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2014 đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho Tòa án khi giải quyết việc ly hôn theo yêu cầu
15


của một bên. Đây là một quy định rất tiến bộ mang ý nghĩa quan trọng nhằm cụ thể hóa
Hiến pháp năm 2013 về quyền con người và bảo vệ quyền con người trong tiến trình hội
nhập quốc tế. Điều này cũng tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật khi giải
quyết việc ly hôn trong cả nước.
- Thứ hai, đối với trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tịa án tun bố mất tích
u cầu ly hơn thì Tịa án giải quyết cho ly hơn.
Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện
pháp thơng báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn khơng
có tin tức xác thực về việc người đó cịn sống hay đã chết thì theo u cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan, Tịa án có thể tun bố người đó mất tích1. Khoản 2 Điều 55
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định về căn cứ cho ly hơn có đề cập tới

trường hợp yêu cầu ly hôn khi một trong hai người mất tích như sau: “Trong trường hợp
vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích u cầu ly hơn thì Tịa án giải quyết
cho ly hơn.”.
Trường hợp đồng thời u cầu Tịa án tun bố mất tích và u cầu Tịa án giải
quyết ly hơn, cần lưu ý Tịa án chỉ giải quyết cho ly hơn có bằng chứng chứng minh được
chồng hoặc vợ đã biệt tích từ hai năm trở lên kể từ ngày có tin tức cuối cùng về chồng
(vợ), mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của
pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn khơng có tin tức xác thực về việc người đó cịn sống
hay đã chết. Việc tun bố cá nhân mất tích có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó góp phần
bảo vệ lợi ích của cá nhân cũng như các chủ thể có liên quan. Việc xác định đúng điều
kiện và hậu quả pháp lí của các tuyên bố này là cơ sở đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể,
đồng thời góp phần thực hiện có hiệu quả nhưng quy định của pháp luật trong tuyên bố
các cá nhân mất tích.
- Thứ ba, đối với trường hợp có u cầu ly hơn theo quy định tại Khoản 2 Điều 51
của Luật này thì Tịa án giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi
bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của
người kia.
Theo đó, theo quy định trong Luật Hơn nhân và gia đình thì có thể xin ly hơn thay
cho người thân và luật cũng quy định cụ thể về lý do xin ly hơn, trong đó bạo lực gia đình
là một lý do, căn cứ để người chồng hoặc người vợ có quyền u cầu tịa án cho ly hôn.
Cụ thể tại Khoản 2, Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định như sau:
“2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền u cầu tịa án giải quyết ly hơn khi
một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm
1
2

Khoản 1 Điều 78 Bộ Luật Dân Sự năm 2005
Khoản 1 Điều 68 Bộ Luật Dân Sự năm 2015

16



chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của
họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ”.
Quy định này đã tháo gỡ cho nhiều trường hợp mong muốn xin ly hôn thay cho
người thân bị mất năng lực hành vi mà không được do trước đây chỉ quy định việc ly hơn
phải do chính đương sự (vợ, chồng) u cầu, trong khi họ lại bị mất năng lực hành vi dân
sự dẫn đến khơng có năng lực hành vi tố tụng dân sự để xin ly hơn. Chính điều này đã
dẫn tới thực trạng có rất nhiều trường hợp vợ hoặc chồng muốn ly hơn nhưng lại Tịa án
khơng thể tiến hành giải quyết được, có nhiều vụ việc kéo dài trong rất nhiều năm với
nguyên nhân duy nhất là do người vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự.
Đối với trường hợp này yêu cầu cha, mẹ, người thân thích khác của vợ hoặc chồng
cần phải chứng minh được việc người chồng hoặc vợ bị mất năng lực hành vi dân sự phải
là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Tuy nhiên, theo quan điểm của người viết thì
quy định này là khơng cần thiết bởi chỉ cần khi một bên vợ, chồng bị tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì lúc này cuộc hơn
nhân đã khơng cịn hạnh phúc, xét về góc độ tình cảm thì mục đích ban đầu của hơn nhân
khơng đạt được nên cần phải giải quyết ly hôn cho hai bên khi có yêu cầu của người thân
của họ, tránh sự ràng buộc, bế tắc, chứ khơng cần thiết phải có hậu quả là nạn nhân của
bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng,
sức khỏe, tinh thần của họ như quy định của luật.
Nhìn chung, căn cứ ly hơn theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 đang là một
chủ đề nhận được rất nhiều sự quan tâm từ dư luận xã hội. Các căn cứ ly hôn này đã góp
phần giải quyết tốt nhiều án ly hơn, giải phóng cho nhiều cuộc hơn nhân thốt khỏi những
bế tắc. Để từ đó, ly hơn khơng chỉ đơn thuần là làm tan rã những mối quan hệ gia đình
mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở
duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh.
2.3. HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN
2.3.1. Quan hệ nhân thân giữa 2 vợ chồng

Theo nguyên tắc chung, khi bản án, quyết định ly hơn của Tồ án có hiệu lực pháp
luật, quan hệ vợ chồng được chấm dứt. Người vợ, chồng đã ly hơn có quyền kết hơn với
người khác. Sau khi ly hôn, các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng sẽ chấm dứt
hoàn toàn, dù vợ chồng có thoả thuận hay khơng thoả thuận được thì Tồ án cũng sẽ
quyết định. Nghĩa là những quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng phát sinh từ khi
kết hơn, gắn bó tương ứng giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (như nghĩa vụ thương
yêu, quý trọng, chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau tiến bộ, nghĩa vụ chung thuỷ giữa vợ chồng,
quyền đại diện cho nhau…) sẽ đương nhiên chấm dứt. Một số quyền nhân thân khác mà
17


vợ, chồng với tư cách là cơng dân thì khơng ảnh hưởng, không thay đổi dù vợ chồng ly
hôn.
Trong xã hội ta hiện nay, thực tế có một số trường hợp vợ chồng đã ly hôn, phán
quyết ly hôn của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật, sau đó vợ chồng lại “tái hợp” chung
sống với nhau mà không đăng ký kết hôn theo thủ tục luật định. Khi có tranh chấp, việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên sẽ gặp những khó khăn nhất định. Pháp luật
quy định vợ chồng đã ly hôn, sau đó lại trở về chung sống với nhau cũng phải đăng kí kết
hơn theo Khoản 2 Điều 9 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định “vợ chồng đã ly
hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hơn” là nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của các bên, bảo vệ gia đình và xã hội. Trong trường hợp vợ chồng đã ly
hơn theo phán quyết ly hơn của Tồ án có hiệu lực pháp luật, sau đó vợ chồng lại “tái
hợp” chung sống với nhau được một thời gian, giữa họ có con chung, có tài sản chung và
vì lí do nào đó, sau này họ lại có yêu cầu “chấm dứt hơn nhân bằng ly hơn” thì Tồ án
khơng giải quyết việc ly hôn nữa.
2.3.2. Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
Việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là một vấn đề phức tạp nhất hiện nay
trong các án kiện về hôn nhân và gia đình, có những vụ án phải giải quyết nhiều lần vì
việc giải quyết các tranh chấp tài sản khơng làm thoả mãn mong muốn của đương sự.
Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định những nguyên tắc giải quyết tài

sản của vợ chồng khi ly hôn.
* Đối với tài sản riêng của mỗi bên
Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài
sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định tại Khoản 4, Điều 59 Luật Hơn nhân
và gia đình năm 2014. Sau khi ly hơn vợ, chồng có tài sản riêng thì có quyền lấy về. Tuy
nhiên, người có tài sản riêng phải chứng minh được đó là tài sản riêng của mình. Việc
chứng minh có thể bằng sự cơng nhận của bên kia hoặc bằng các giấy tờ xác nhận quyền
sở hữu riêng của mình (các văn tự, di chúc hoặc các chứng từ khác chứng tỏ tài sản đó là
tài sản riêng của vợ, chồng). Trong trường hợp khơng có chứng cứ chứng minh tài sản
mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản
chung (Khoản 3, Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Khi chia tài sản là tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng mà có tranh chấp, cần lưu ý
đã có sự trộn lẫn, ẩn chứa các loại tài sản chung và tài sản riêng trong q trình sử dụng ở
thời kì hơn nhân. Trường hợp vợ, chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản
chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng đã chi dùng cho gia đình mà khơng cịn nữa thì
người có tài sản riêng khơng có quyền địi lại hoặc đền bù. Có trường hợp tài sản riêng
tăng giá trị lên rất nhiều lần vì người có tài sản riêng đã dùng tài sản chung để tu sửa làm
18


tăng giá trị cho tài sản riêng của mình, Tồ án cần xác định phần tăng giá trị đó, nhập vào
tài sản chung để chia.
Đối với những đồ trang sức mà vợ, chồng được cha mẹ vợ (hoặc cha mẹ chồng)
tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng, nhưng nếu những thứ đó được cho chung
cả hai người với tính chất là tạo dựng cho vợ chồng một số vốn thì coi là tài sản chung.
Trong trường hợp người vợ hay người chồng đã vay mượn tiền bạc của người
khác để chi dùng cho mục đích, nhu cầu riêng thì người vợ hoặc người chồng phải có
nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng (Khoản 3, Điều 44 Luật Hơn nhân và gia đình năm
2014). Nếu tài sản riêng khơng có hoặc khơng đủ để thanh tốn thì phải thanh tốn bằng
phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung của vợ chồng hoặc vợ chồng có thể

thoả thuận với nhau để thanh tốn bằng tài sản chung của vợ chồng.
Trường hợp con đã thành niên có đóng góp đáng kể vào việc xây dựng và phát
triển tài sản của cha mẹ thì được trích chia phần đóng góp của họ trong phần tài sản của
cha mẹ khi ly hôn, theo yêu cầu của người con đó. Nếu con chưa thành niên mà có tài sản
riêng (do được tặng cho, thừa kế, hoặc thu nhập hợp pháp của con) thì Tồ án khơng
chia, Tồ án quyết định sẽ giao cho người nào ni giữ, chăm sóc, giáo dục đứa con đó
quản lý tài sản riêng của con.
Trên thực tế, khi vợ chồng ly hôn, một bên u cầu Tồ án xác định một tài sản
nào đó là tài sản riêng nhưng chứng cứ đưa ra để xác định tài sản riêng khơng thuyết
phục, vì vậy tài sản đó vẫn được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Để xác định một
cách chính xác tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của một bên,
Toà án càng thận trọng, một mặt phải lấy lời khai của những người có liên quan, mặt
khác phải căn cứ vào thu nhập thực tế của các bên, từ đó mới có thể có các quyết định
đúng đắn.
* Đối với tài sản chung của vợ chồng
Theo Khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì phần của vợ,
chồng trong khối tài sản chung là ngang bằng nhau, do đó khi vợ chồng ly hôn, tài sản
chung được chia đôi. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên và các lợi ích
khác, trong từng trường hợp cụ thể, tài sản chung của vợ chồng không thể chia đơi mà
cịn phải tn thủ các ngun tắc khác, cụ thể là :
- Tài sản chung của vợ chồng về ngun tắc đựơc chia đơi nhưng có xem xét đến
tình trạng tài sản, hồn cảnh của mỗi bên và cơng sức đóng góp của họ vào việc tạo lập,
duy trì và phát triển khối tài sản. Phải xem xét tài sản chung của vợ chồng bao gồm
những tài sản gì, nguồn gốc phát sinh, tài sản có thể chia được bằng hiện vật hay không,
vợ chồng kết hôn và chung sống với nhau thời gian bao lâu, vợ chồng cùng nhau cư trú

19


hay có nơi cư trú khác nhau, ai là người có cơng sức đóng góp nhiều hơn vào việc duy trì

và phát triển khối tài sản chung, ai là người lao động chủ yếu trong gia đình...
-

Khi chia tài sản chung của vợ chồng, phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

vợ và con chưa thành niên, hoặc con đã thành niên bị tàn tật hoặc bị mất năng lực hành vi
dân sự khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình, để đảm bảo cho
họ được ổn định cuộc sống.
- Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị. Chia tài sản
không thể làm mất giá trị sử dụng của tài sản đó. Người được nhận tài sản có giá trị lớn
hơn so với giá trị phần tài sản họ được chia thì họ phải trả cho bên kia phần giá trị chênh
lệch đó.
Trong trường hợp vợ chồng chung sống với gia đình bên nhà chồng (hoặc bên nhà
vợ) mà ly hôn. Điều 61 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“1. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của
vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình khơng xác định được thì vợ hoặc chồng
được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào cơng sức đóng góp
của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời
sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa
thuận với gia đình; nếu khơng thỏa thuận được thì u cầu Tịa án giải quyết.
2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng
trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hơn, phần
tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều
59 của Luật này. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ
chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly
hơn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia”.
Thực tiễn xét xử cho thấy, trong việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hơn thì khó
khăn, phức tạp hơn cả là đối với những tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất. Cụ thể là:
Đối với việc chia quyền sử dụng đất, thì quyền sử dụng đất riêng của bên nào vẫn
thuộc về bên ấy. Quyền sử dụng đất chung của vợ chồng, khi ly hôn được chia theo Điều

61 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
- Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản, nếu cả hai vợ
chồng đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng thì được chia theo sự thoả thuận
của vợ chồng, nếu vợ chồng khơng thoả thuận được thì u cầu Toà án giải quyết, Toà án
căn cứ vào các nguyên tắc chia tài sản chung tại Điều 59 để chia. Nếu chỉ một bên có nhu
cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng và phải thanh toán
cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng

20


- Trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm,
nuôi trồng thuỷ sản chung với hộ gia đình thì khi ly hơn phần quyền sử dụng đất của vợ
chồng sẽ được tách ra để chia và cũng căn cứ vào nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng
đất của các bên. Bên không có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất sẽ được thanh
toán phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng.
Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Nhà ở thuộc sở hữu
riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hơn vẫn thuộc sở hữu riêng của
người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong
thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận khác”.
- Đối với việc chia nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng, thì về nguyên tắc, nhà ở
thuộc sở hữu chung của vợ chồng là tài sản chung của vợ chồng cho nên khi vợ chồng ly
hôn áp dụng các nguyên tắc của việc chia tài sản chung của vợ chồng để chia. Trong việc
xác định nhà là tài sản chung của vợ chồng, Toà án cần phân biệt các trường hợp: nhà do
hai vợ chồng mua hoặc xây dựng, nhà do cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ cho chung cả hai
vợ chồng, nhà do vợ chồng thuê của nhà nước hoặc tư nhân, hoặc do cơ quan nhà nước
cấp, trường hợp vợ chồng cịn ở chung với gia đình cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ mà
nhà đó là tài sản của cha mẹ, không thuộc tài sản chung của vợ chồng thì khơng chia.
Trường hợp có tranh chấp trong việc nhà ở là tài sản riêng của chồng (vợ) nhưng đã được

vợ chồng tu sửa làm tăng giá trị lên nhiều hoặc bên có nhà đã thoả thuận nhập vào khối
tài sản chung của vợ chồng, khi ly hơn lại nói là chưa nhập,…Vì vậy, Tồ án cần phân
biệt tuỳ từng trường hợp để giải quyết cho thoả đáng, thấu tình, đạt lý.
- Trường hợp nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng có thể chia để sử dụng thì khi
ly hơn được chia theo quy định tại Điều 59 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014. Tuy
nhiên, nếu diện tích nhà q nhỏ hoặc vì đặc điểm nào đó mà nhà khơng thể chia cho cả
hai bên sử dụng thì một bên trực tiếp sử dụng, bên khơng trực tiếp sử dụng sẽ được thanh
tốn phần giá trị mà họ được hưởng căn cứ vào giá giao dịch thực tế tại địa phương vào
thời điểm Tồ án xét xử
- Khi vợ chồng ly hơn, nếu nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên mà đã được đưa
vào sử dụng chung thì về nguyên tắc, nhà đó vẫn thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà
nên không chia. Tuy nhiên, nếu bên kia đã có cơng sức bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo, sửa
chữa nhà thì sẽ được bên chủ sở hữu nhà thanh tốn một phần giá trị nhà tương xứng với
cơng sức đóng góp của họ. Tuy vậy, để xác định cơng sức của các bên không phải là chủ
sở hữu nhà trong việc nâng cấp, bảo dưỡng, cải tạo, sửa chữa nhà là hết sức khó khăn và
phức tạp, đồng thời việc xác định phần giá trị nhà mà họ được thanh tốn cũng là cơng

21


×