Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Quy định pháp luật về hoạt động công chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017.92 KB, 49 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

ĐẬU THỊ THANH HOA

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG

Kon Tum, tháng 8 năm 2018


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

: Th.S NGUYỄN THỊ ANH THƯ

SINH VIÊN THỰC TẬP

: ĐẬU THỊ THANH HOA

LỚP

: K814LK1



MSSV

: 141 502 034

Kon Tum, tháng 8 năm 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................................2
5. Bố cục đề tài ....................................................................................................................2
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ THỦ TỤC THỰC HIỆN
CÔNG CHỨNG .................................................................................................................3
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁP LUẬT CƠNG CHỨNG VIỆT NAM ................3
1.1.1. Thời kì pháp thuộc đến trước cách mạng tháng tám năm 1945 ............................3
1.1.2. Thời kì sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay ..........................................4
1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CÔNG CHỨNG ......................................................8
1.2.1. Khái niệm công chứng...........................................................................................8
1.2.2. Đặc điểm công chứng ..........................................................................................10
1.3. PHẠM VI CÁC VIỆC CÔNG CHỨNG VÀ PHÂN BIỆT CƠNG CHỨNG VỚI
CHỨNG THỰC................................................................................................................12
1.3.1. Phạm vi các việc cơng chứng ..............................................................................12
1.3.2. Phân biệt công chứng và chứng thực...................................................................13
1.4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC .......................................................................................14
1.4.1. Thành lập cơ quan công chứng............................................................................14
1.4.2. Công chứng viên ..................................................................................................19

1.4.3. Quản lý Nhà nước về hoạt động cơng chứng ......................................................23
1.5. THỦ TỤC THỰC HIỆN CƠNG CHỨNG .............................................................24
1.5.1. Thủ tục chung về công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn ........24
1.5.2. Thủ tục chung về công chứng hợp đồng, giao dịch do công chứng viên soạn thảo
theo đề nghị của người yêu cầu công chứng .................................................................26
KẾT CHƯƠNG 1 .............................................................................................................30
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HỒN THIỆN
PHÁP LUẬT CƠNG CHỨNG .......................................................................................31
2.1. THỰC TIỄN THI HÀNH LUẬT CÔNG CHỨNG ...............................................31
2.1.1. Thực tiễn thi hành luật công chứng .....................................................................31
2.1.2. Bất cập tồn tại ......................................................................................................33
2.2. KIẾN NGHỊ NHẰM HỒN THIỆN PHÁP LUẬT CƠNG CHỨNG .................38
KẾT CHƯƠNG 2 .............................................................................................................41
KẾT LUẬN .......................................................................................................................42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................
NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN ........................................................................


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật Công chứng 2014 ra đời trong bối cảnh tình hình kinh tế xã hội đang trên đà
phát triển mạnh mẽ. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc cụ thể hóa nội dung về
hoàn thiện thể chế công chứng ở nước ta được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Đến nay, sau
04 năm thi hành Luật Công chứng, những kết quả bước đầu đạt được đã khẳng định Luật
đã thực sự đi vào cuộc sống, chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng là hết sức đúng
đắn, đội ngũ công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng ở nước ta đã phát triển
nhanh về số lượng và ngày càng tăng cường về chất lượng. Thơng qua việc đảm bảo tính
an tồn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch dân sự và kinh tế, hoạt động công chứng đã
góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa các tranh chấp, khiếu nại trong lĩnh vực đất

đai, nhà ở, một lĩnh vực vốn phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến tranh chấp, khiếu
kiện. Chúng ta không thể phủ nhận công chứng là lá chắn phòng ngừa hữu hiệu, đảm bảo
an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, tiết kiệm thời gian, chi phí cho xã hội, giảm
thiểu gánh nặng pháp lý cho Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự.
Tuy nhiên cho đến nay, Luật Công chứng cũng bộc lộ những bất cập, hạn chế. Tiêu
chuẩn công chứng viên quy định còn đơn giản; thời gian đào tạo nghề ngắn, cơ sở đào tạo
nghề chưa đáp ứng được yêu cầu; chưa quy định về quyền, nghĩa vụ của công chứng viên
cũng như người tập sự hành nghề công chứng, đối tượng miễn đào tạo nghề, miễn tập sự
hành nghề công chứng rộng nên chất lượng công chứng viên được bổ nhiệm thấp, có
nhiều sai sót khi công chứng hợp đồng, giao dịch. Tiêu chuẩn thành lập Văn phòng công
chứng chưa chặt chẽ; quy hoạch ban hành chậm và thiếu cơ sở pháp lý; thiếu sự kiểm tra,
thanh tra sau khi cho phép thành lập tổ chức hành nghề công chứng; chưa có quy định về
việc chuyển đổi mô hình Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập sang
mô hình văn phòng công chứng do 2 công chứng viên trở lên thành lập và ngược lại;
nghĩa vụ của các tổ chức hành nghề công chứng chưa chặt chẽ, đặc biệt về việc thực hiện
lưu trữ hồ sơ công chứng và mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng
viên, chưa quy định việc chia sẻ và khai thác cơ sở dữ liệu công chứng giữa tổ chức hành
nghề công chứng và các cơ quan liên quan. Thủ tục công chứng chưa cụ thể, chi tiết,
chưa thuận tiện, chưa có sự phối hợp, liên thông với các thủ tục hành chính khác liên
quan, khiến người yêu cầu công chứng phải mất nhiều thời gian, công sức; một số thủ tục
công chứng chưa hợp lý, chưa rõ ràng, thậm chí còn chồng chéo, mâu thuẫn với các quy
định của pháp luật liên quan, gây khó khăn, lúng túng cho cơng chứng viên khi hành
nghề...
Vì các lý do trên, tác giả chọn đề tài "Quy định của pháp luật về hoạt động công
chứng" làm đề tài nghiên cứu quy định pháp luật đồng thời đưa ra những kiến nghị, giải
pháp để bảo đảm thực hiện pháp luật về cơng chứng trong tình hình kinh tế - xã hội hiện
nay.
1



2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tổng hợp những kiến thức lý luận về thực hiện pháp luật về công chứng; trên
cơ sở nghiên cứu thực tiễn việc thi hành Luật Công chứng để đánh giá những mặt được,
chưa được của hoạt động công chứng trên một số phương diện như: công chứng viên, tổ
chức hành nghề công chứng, thủ tục công chứng dưới góc độ lý luận nhà nước và pháp
luật. Từ đó đưa ra một số luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật công chứng trong bối cảnh hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật công chứng thời
gian qua, những giải pháp chủ yếu để từng bước hồn thiện pháp luật cơng chứng trong
thời gian tới là đối tượng chính được nghiên cứu trong đề tài.
Đề tài tập trung nghiên cứu và phân tích những tồn tại, bất cập của pháp luật công
chứng và thực hiện pháp luật về công chứng trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố cũng như
hoạt động chuyên môn tại các tổ chức hành nghề công chứng để đưa ra những kiến nghị
nhằm hồn thiện pháp luật cơng chứng trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chung xuyên suốt là phép biện chứng duy vật. Phương pháp cụ thể là:
logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, phân tích tài liệu, khái quát hóa, so sánh… Nhằm
làm rõ các quy định của pháp luật về hoạt động công chứng, vận dụng vào thực tiễn như
thế nào và bất cập còn đọng lại là gì để đề xuất kiến nghị hoàn thiện những quy định trên.
Tại phương pháp logic – lịch sử được vận dụng vào các mục 1.1, 1.2 và 2.1 nhằm
nghiên cứu cụ thể các quy định pháp luật về công chứng cũng như thực tiễn áp dụng từ
khi Luật Công chứng ra đời. Lịch sử hình thành pháp luật công chứng đã tác động mạnh
mẽ đến việc ban hành luật hiện hành trên cơ sở logic, cải tiến và mang tính ứng dụng cao.
Phương pháp phân tích – tổng hợp, phân tích tài liệu là phương pháp xuyên suốt
được vận dụng tất cả các mục, chủ yếu phải kể đến như: Mục 1.2, 1.5, 2.1.2 và 2.2. Từ
việc phân tích các quy định của pháp luật về hoạt động công chứng, tác giả tổng hợp lại
vấn đề và chỉ ra những bất cập, thiếu sót còn tồn tại. Đây là phương pháp nhằm đem lại
cái nhìn tồn diện về vấn đề thơng qua những phân tích cụ thể về và tóm gọn vấn đề.
Các biện pháp khác như so sánh, khái quát hóa… được vận dụng vào nhiều mục

thiên về so sánh giữu các phạm trù như 1.4, 1.5 hay trừu tượng các quy định vào thực tiễn
như 2.1, 2.2. Mục đích là nhằm làm rõ sự khác nhau giữa các khái niệm và thông qua đó,
làm nổi bật vấn đề mang tính “thời sự” với quan điểm phù hợp với quy định của pháp
luật.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết thúc, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản và thủ tục thực hiện công chứng
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật cơng chứng

2


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ THỦ TỤC THỰC HIỆN CƠNG
CHỨNG
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁP LUẬT CƠNG CHỨNG VIỆT NAM
1.1.1. Thời kì pháp thuộc đến trước cách mạng tháng tám năm 1945
Lịch sử hoạt động công chứng, chứng thực, làm chứng gắn liền với sự phát triển của
xã hội. Suốt từ thời kỳ cổ đại đến trung cổ, giữa người làm công chứng (Công chứng
viên) và người lập văn tự thuê chưa được phân biệt rõ ràng. Ở thời kỳ cổ đại, người ta đã
thấy những viên thư lại tiến hành soạn thảo các khế ước (hợp đồng) theo một trình tự, thủ
tục chặt chẽ, khó có thể bị thay đởi về sau, khác hẳn với những khế ước không thành văn
theo truyền thống (giao kết miệng). Lịch sử hình thành và phát triển nhà nước cũng cho
thấy, đã có thời kỳ chưa có khái niệm công chứng. Một số tác giả nghiên cứu về công
chứng cho rằng, có hai loại hình thực hiện cơng chứng là tư chứng thư và công chứng
thư. Các tác giả đã đưa ra các khái niệm “công” và “tư” để phân biệt giữa những cá nhân
tự do làm chứng với các chức danh được nhà nước giao cho nhiệm vụ thực hiện hành vì
cơng chứng hoặc Nhà nước trực tiếp thực hiện các việc công chứng.
Ở Việt Nam, các thể thức giấy tờ, khế ước như chúc thư, văn khế bán ruộng đất, văn
khế cầm cố ruộng đất… đều quy định người chứng kiến, người bảo lãnh, người viết thay

phải điểm chỉ vào văn tự. Đây là những quy định nhằm bảo đảm hiệu lực pháp lý, hạn
chế tranh chấp kiện tụng. Ngày nay, Bộ luật Dân sự của nước ta vẫn quy định trong quan
hệ dân sự các bên phải thiện chí, trung thực… Nếu một bên cho rằng bên kia khơng trung
thực, thì phải có chứng cứ (chứng cứ ở đây bao hàm cả những chứng cứ do cơ quan
chuyên trách cung cấp và cả chứng cứ do bất kỳ tổ chức, cá nhân nào cung cấp.
Hoạt động công chứng xuất hiện khá sớm ở Việt Nam, kể từ khi thực dân Pháp xâm
lược nước ta vào những năm 30 của thế kỷ XIX. Hoạt động công chứng của nước ta ở
giai đoạn này đều áp dụng theo mơ hình của Pháp chủ yếu phục vụ cho chính sách cai trị
của Pháp tại Đơng Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Tiêu biểu là Sắc lệnh ngày
24 tháng 8 năm 1931 của Tởng thống Cộng hịa Pháp về tổ chức công chứng (được áp
dụng ở Đông Dương theo quyết định ngày 7 tháng 10 năm 1931 của Tồn quyền Đơng
Dương theo quyết định ngày 7 tháng 10 năm 1931 của Tồn quyền Đơng Dương P.
Pasquies). Theo đó, người thực hiện công chứng là công chứng viên mang quốc tịch Pháp
do Tổng thống Pháp bổ nhiểm và giữ chức vụ suốt đời. Quy chế công chứng viên do Nhà
nước bổ nhiệm (cụ thể do tổng thống Pháp bổ nhiệm và giữ chức vụ suốt đời). Công
chứng viên hoạt động với tư cách là người thi hành công vụ, hoạt động mang tính chất
của người hành nghề tự do.Khi đó Việt Nam chỉ có một văn phòng cơng chứng ở Hà Nội,
ba văn phòng cơng chứng ở Sài gịn, ngoài ra ở các thành phố Hải Phòng, Nam Định, Đà
Nẵng thì việc cơng chứng do Chánh lục sự Tòa án sơ thẩm kiểm nhiệm.

3


1.1.2. Thời kì sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
a. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, ngày 1 tháng 10 năm 1945 Bộ trưởng Bộ Tư Pháp Vũ Trọng Khánh đã ký quyết
định về một số vấn đề liên quan đến hoạt động công chứng như: bãi chức công chứng
viên người Pháp tên Deroche tại văn phòng công chứng, bổ nhiệm một công chứng viên
người Việt Nam là ông Vũ Quý Vỹ đang là luật sư tập sự tại Tòa thượng thẩm Hà Nội

thay thế cho công chứng viên người Pháp tại Hà Nội, những quy định cũ về công chứng
của Pháp vẫn được áp dụng, trừ những quy định trái với chính thể Việt Nam dân chủ
cộng hịa. Đến năm 1987, công chứng mới được đề cập lần đầu tiên trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, tại thời điểm này, công chứng được hiểu là “Công quyền đứng ra làm
chứng”, cụ thể là nhà nước trao thẩm quyền cho một tổ chức hành nghề công chứng và
được phép nhân danh nhà nước để xác định các quan hệ giao dịch dân sự và thương mại.
Công chứng được gọi là “trưởng khế”1.
Để đáp ứng các nhu cầu giao dịch dân sự của nhân dân, ngày 15 tháng 11 năm
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 59/SL quy định về thể lệ thị thực các giấy tờ
với nội dung, trình tự thủ tục thị thực cho cơng dân tong giao lưu dân sự như mua bán,
trao đổi, chứng nhận địa chỉ cụ thể của một người tại địa phương. Xét về nội dung đây
chỉ là một thủ tục hành chính, càng về sau việc áp dụng Sắc lệnh 59/SL càng mang tính
hình thức, chủ yếu dành để xác nhận ngày, tháng, năm, chữ ký và địa chỉ thường trú của
đương sự.
Ngày 29/2/1952 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85 quy định về thể lệ trước
bạ việc mua bán, cho, đởi nhà cửa, ruộng đất. Do hồn cảnh lịch sử bấy giờ nên Sắc lệnh
này chỉ áp dụng đối với những vùng tự do hoặc những vùng thuộc Uỷ ban kháng chiến.
Cũng theo Sắc lệnh này, Uỷ ban kháng chiến cấp xã hoặc xã được nhận thực vào văn tự
theo hai nội dung sau: Nhận thực chữ ký của các bên mua bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng
đất và nhận thực người đứng ra bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất. Có thể thấy rằng hoạt
động cơng chứng trong giai đoạn này không được phát triển do nhiều nguyên nhân, cụ
thể như sau:
Thứ nhất, do hoàn cảnh đất nước đang trong giai đoạn chiến tranh khó khăn, thiếu
thốn nhiều mặt, đặc biệt là nền kinh tế nước nhà đang trong giai đoạn trì trệ, kém phát
triển.
Thứ hai, do Nhà nước ta lúc này không chấp nhận chế độ sỡ hữu của các thành phần
kinh tế khác ngoài quốc doanh và tập thể, trong khi đó hoạt động công chứng lại chủ yếu
chứng thực các quan hệ sở hữu tư nhân, mọi giao lưu kinh tế, dân sự chủ yếu được xác
lập theo quan hệ hành chính, thương mại gần như không phát triển. Do vậy, các tổ chức
công chứng không được thành lập trong giai đoạn này.

1

Xem thêm
(24/7/2018)

tại:

/>
4


b. Giai đoạn từ năm 1954 đến 1991
Tại miền nam Việt Nam trong giai đoạn sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, cơng chừn
dưới thời chính quyền Nguỵ - Sài Gòn được điều chỉnh bởi Dụ 43 ngày 29/11/1954 quy
định về ngạch Chưởng Khế2 do Bảo Đại ký với tư cách là Quốc Trưởng. Mục đích là
thiết lập trong mỗi quản hạt của mỗi Toà sơ thẩm thuộc Bộ Tư pháp một Phịng Cơng
chứng hoạt động tại Sài Gịn và tồn tại đến năm 1975.
Cũng trong giai đoạn này, có rất ít quy phạm điều chỉnh hoạt động công chứng,
chứng thực. Đến năm 1981, có Nghị định 143 của Hội đồng Bộ Trưởng quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp. Trên cơ sở của Nghị định 143, đến năm
1987 có Thông tư số 574/QLTP quy định về công tác công chứng nhà nước được ban
hành cùng với sự ra đời của Phịng Cơng chứng Thành phố Hồ Chí Minh, Phịng Cơng
chứng Hà Nội và một số Phịng Công chứng ở các địa bàn khác, từ đó công tác công
chứng, chứng thực của Uỷ ban nhân dân (UBND) cũng được kiện toàn. Thời gian sau
này, nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho các địa phương tiếp cận với hoạt động công chứng,
Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 858/QLTP ngày 15/10/1987 hướng dẫn thực hiện
các việc làm công chứng, tại thời điểm này chủ thể duy nhất thực hiện hoạt động cơng
chứng là Phịng Cơng chứng. Căn cứ vào văn bản này, các tỉnh thành trên cả nước đã lập
ra các Phịng Cơng chứng, dần hình thành mạng lưới các Phịng Cơng chứng trên khắp cả
nước.

c. Giai đoạn từ năm 1991 đến nay
Kể từ sau Đại hội Đảng VI năm 1986, nước ta đã có những chuyển biến to lớn
sang thời kỳ của mở cửa và hội nhập. Nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân thời kỳ này
và theo quan điểm chỉ đạo của Đảng, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số
45/HĐBT ngày 27/2/1991 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Theo quy định
của Nghị định này thì “Phòng Công chứng nhà nước là cơ quan thuộc UBND tỉnh, có tư
cách pháp nhân, có tài khoản riêng ở ngân hàng, có con dấu mang hình quốc huy”.
Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị định 31/CP về tổ chức và hoạt động của công
chứng Nhà nước vào ngày 18/5/1996 thay thế cho Nghị định 45/HĐBT, theo đó Phòng
Công chứng là đơn vị trực thuộc Sở Tư pháp, quy định này nhằm chun mơn hố hoạt
động cơng chứng và giảm tải cho hoạt động của Uỷ ban nhân dân.
Sau một thời gian với tình hình kinh tế nước ta ngày càng phát triển kéo theo sự
gia tăng của các quan hệ kinh tế, thương mại khiến cho các quy định của Nghị định
31/CP trở nên lạc hậu. Ngày 8/02/2000 Chính Phủ ra quyết định ban hành Nghị định
75/NĐ-CP về công chứng, chứng thực. Nghị định này quy định về phạm vi của cơng
chứng, chứng thực; tở chức Phịng Cơng chứng; ngun tắc hoạt động, trình tự thủ tục
của việc cơng chứng, chứng thực; công tác chứng thực của UBND cấp huyện, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh và UBND cấp xã, phường, thị trấn. Bằng hoạt động công
chứng, chứng thực của mình, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực thi cơng tác đã
2

Là người có chức vụ chứng thực và quản lý giấy tờ, khế ước.

5


góp phần cho việc bảo đảm an tồn pháp lý trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và
các quan hệ xã hội khác, phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Cũng từ Nghị định này, thì thuật ngữ “Phòng Cơng chứng Nhà nước” đã
được thay thế bằng “Phòng Công chứng” thể hiện quan điểm xã hội hố hoạt động cơng

chứng của Nhà nước ta.
Đây là Nghị định mang nhiều điểm tiến bộ so với các văn bản trước đây như khái
niệm cơng chứng, chứng thực được phân biệt rạch rịi, phạm vi công chứng, chứng thực
được quy định rộng hơn, trình tự thủ tục được quy định rõ ràng, cụ thể. Về tính chất hành
vi cơng chứng, đây là một hoạt động bổ trợ tư pháp, là loại dịch vụ cơng nhằm xác định
tính chân thực và đúng pháp luật của bản sao các loại giấy tờ và các giao dịch dân sự.
Theo quy định tại Nghị định 75/2000/NĐ-CP các cơ quan có thẩm quyền cơng chứng,
chứng thực gồm có: Các Phịng Cơng chứng Nhà nước, UBND cấp huyện, UBND cấp
xã, cơ quan đại diện Ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài. Bên cạnh đó,
cơ quan tổ chức cấp bản gốc các loại hồ sơ, giấy tờ mang tính pháp lý cũng có quyền
chứng thực bản sao. Mặc dù nhiều cơ quan có thẩm quyền công chứng như trên nhưng
trong thực tế, đa số người dân có nhu cầu cơng chứng thường đở dồn về các Phịng Cơng
chứng gây ra tình trạng q tải.
Luật Cơng chứng năm 2006 đánh dấu bước phát triển mới trong tổ chức và hoạt
động công chứng ở nước ta thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động cơng chứng của
Đảng và Nhà nước với mục đích tạo điều kiện cho công chứng Việt Nam phát triển cả về
chiều rộng và chiều sâu, là một bước tiến quan trọng trong việc hồn thiện pháp luật về
cơng chứng, đưa hoạt động cơng chứng phát triển theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp
với thông lệ quốc tế. Sự đan xen hai hình thức tổ chức hành nghề cơng chứng là Phịng
cơng chứng và Văn phòng công chứng tạo điều kiện phục vụ tốt hơn nhu cầu công chứng
của cá nhân, tổ chức trong xã hội, người dân có thêm sự lựa chọn khi có yêu cầu công
chứng. Luật Công chứng 2006 là bộ luật đầu tiên quy định về hoạt động công chứng ở
nước ta, gồm 8 chương, 67 điều với các nội dung về công chứng viên, tổ chức hành nghề
công chứng, thủ tục công chứng hợp đồng – giao dịch; lưu trữ hồ sơ, phí công chứng, thù
lao công chứng, xử lý vi phạm, khiếu nại, giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh Luật Công chứng 2006 là sự ra đời của các văn bản có liên quan như Nghị
định 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ
bản chính, chứng thực chữ ký nhằm tách bạch phạm vi giữa công chứng, chứng thực.
Mới hơn là Nghị định 04/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 1 điều 5 về thẩm quyền và
trách nhiệm chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký của Nghị định

79/2007/NĐ-CP.
Qua 20 năm kể từ khi các văn bản quy phạm pháp luật quy định về công chứng
được ban hành dưới hình thức nghị định, thông tư đến trước ngày Luật Công chứng năm
2006 có hiệu lực thi hành (ngày 01/7/2007), tổ chức và hoạt động công chứng đã trải qua
thời kỳ phát triển mang nhiều dấu ấn. Trên cả nước chỉ có 393 công chứng viên làm việc
tại 131 Phòng công chứng được phân bố tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
6


trong cả nước, nhưng hoạt động công chứng đã được đánh giá là có nhiều đóng góp cho
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đất nước đổi mới và những năm tiếp
theo. Hình ảnh công chứng Việt Nam đã được các cá nhân, tổ chức trong nước và nước
ngoài biết đến như địa chỉ tin cậy trong việc bảo đảm an toàn pháp lý cho các cá nhân, tổ
chức tham gia hợp đồng, giao dịch. Đội ngũ công chứng viên của các Phòng công chứng
được đào tạo bài bản, có tâm huyết và tinh thông nghề nghiệp, có đủ khả năng đảm
nhiệm tư cách công chứng viên trong những năm các Phòng công chứng trên cả nước còn
rất mỏng, chế định công chứng còn rất mới mẻ trong xã hội. Luật Công chứng năm 2006
đánh dấu bước phát triển mới trong tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta thực hiện
chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng của Đảng và Nhà nước với mục đích tạo
điều kiện cho công chứng Việt Nam phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, là một bước
tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về công chứng, đưa hoạt động công chứng
phát triển theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế. Sự đan xen hai hình
thức tổ chức hành nghề công chứng là Phòng công chứng và Văn phòng công chứng tạo
điều kiện phục vụ tốt hơn nhu cầu công chứng của cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Do đặc điểm tình hình hình giai đoạn này đã có sự thay đởi, sau nhiều năm thực
hiện xã hội hóa hoạt động công chứng, số lượng các tổ chức hành nghề cơng chứng và
cơng chứng viên trên tồn quốc đã tăng lên đáng kể, khơng cịn tình trạng ách tắc, q tải
tại các tổ chức hành nghề công chứng nữa. Cùng với đó, cơ chế xin - cho trước đây đã
được thay thế bằng cơ chế dịch vụ, mà ở đó khách hàng được coi trọng; những tiêu cực
trước đây trong hoạt động cơng chứng cũng khơng còn. Trước tình hình này, ngày

20/6/2014 Quốc hội nước ta đã thông qua Luật công chứng mới. Luật công chứng năm
2014 đã giao trở lại cho tổ chức hành nghề công chứng thẩm quyền chứng thực bản sao
từ bản chính, chứng thực chữ ký và thẩm quyền cơng chứng bản dịch. Có thể nói, việc
giao trở lại cho tổ chức hành nghề công chứng các thẩm quyền này là phù hợp với tình
hình hiện nay, một mặt vừa tạo thêm một “kênh” để người dân lựa chọn, một mặt vừa tạo
điều kiện cho các tở chức hành nghề cơng chứng duy trì và nâng cao chất lượng hoạt
động.
Còn với sự ra đời của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính
phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và
chứng thực hợp đồng, giao dịch, thì về cơ bản hoạt động chứng thực vẫn được duy trì tại
UBND cấp huyện, cấp xã, bên cạnh đó là hoạt động chứng thực bản sao, chữ ký tại tổ
chức hành nghề công chứng. Tuy nhiên, để đảm bảo phù hợp với điều kiện, năng lực của
đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác chứng thực, việc chứng thực hợp đồng, giao dịch
đã được đơn giản hóa, đặc biệt là giá trị pháp lý của hợp đồng, giao dịch được chứng
thực. Theo đó, hợp đồng, giao dịch được chứng thực chỉ có giá trị “hình thức,” tức có giá
trị pháp lý thấp hơn so với hợp đồng, giao dịch được công chứng. Điều này là phù hợp
với thực tế vì hiện nay, tại những tỉnh, thành phố lớn nơi có điều kiện kinh tế - xã hội
phát triển thì việc chứng thực hợp đồng, giao dịch đã được chuyển giao cho các tổ chức
hành nghề công chứng. Chỉ tại những địa phương vùng sâu, vùng, xa, vùng kinh tế khó
7


khăn... thì UBND cấp huyện, cấp xã vẫn tiếp tục đảm đương nhiệm vụ chứng thực hợp
đồng, giao dịch.
Việc chứng thực hợp đồng, giao dịch theo quy định tại Nghị định số 23/2015/NĐCP một mặt vừa làm giảm thủ tục cũng như lệ phí cho bà con nơi đây. Mặt khác vẫn đảm
bảo yêu cầu của pháp luật trong trường hợp giao dịch đó buộc phải có cơng chứng/chứng
thực. Chỉ trong trường hợp phát sinh tranh chấp thì do hợp đồng, giao dịch được chứng
thực có giá trị pháp lý thấp hơn nên độ an tồn khơng cao bằng hợp đồng, giao dịch được
công chứng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy giao dịch diễn ra tại những địa phương này
thường là đơn giản, có giá trị nhỏ vì vậy khả năng phát sinh tranh chấp không cao hoặc

nếu có cũng không quá khó để giải quyết.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CƠNG CHỨNG
1.2.1. Khái niệm cơng chứng
Cơng chứng với tư cách là một thể chế pháp lý đã hình thành ở nước ta khá sớm, từ
những năm 1930 dưới thời Pháp thuộc, nhưng mãi đến năm 1987, thuật ngữ “công
chứng” mới bắt đầu được sử dụng một cách rộng rãi.
Việc xác định khái niệm công chứng là vấn đề mấu chốt của hoạt động cơng chứng,
có vai trị lý luận cũng như thực tiễn vơ cùng quan trọng, nó khơng những ảnh hưởng đến
mơ hình tở chức, cơ chế hoạt động mà căn cứ vào đó người ta có thể xác định được phạm
vi, nội dung, thậm chí đến quyền và nghĩa vụ của những cá nhân, được tổ chức giao cho
quyền năng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. Cho đến nay, chúng ta đã có 5 khái
niệm khác nhau về công chứng phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước về công chứng
trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước ta. Cụ thể như sau:
Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công tác
công chứng nhà nước quy định: “Công chứng nhà nước là một hoạt động của nhà nước,
nhằm giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản sự kiện có ý nghĩa
pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu
lực thực hiện. Bằng hoạt động trên, công chứng nhà nước tạo ra những đảm bảo pháp lý
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với
Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi
phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Nghị định số 45/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 27 tháng 2 năm 1991 về tổ
chức và hoạt động công chứng nhà nước quy định: “Công chứng là việc chứng nhận xác
thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cơng dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi
tắt là các tổ chức), góp phần phịng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ đã được cơng chứng có giá trị chứng cứ”.
Nghị định số 31/CP ngày 18 tháng 5 năm 1996 của Chính phủ về tở chức và hoạt
động cơng chứng nhà nước quy định: “Công chứng là việc chứng nhận xác thực của các

hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
8


của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi tắt là các
tở chức), góp phần phịng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy ban Nhân
dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị tịa án nhân dân
tun bố là vơ hiệu”.
Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ về công
chứng, chứng thực, tại điều 2 quy định: “Cơng chứng là việc Phịng Cơng chứng chứng
nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong
quan hệ dân sự, thương mại và quan hệ xã hội khác (Sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch)
và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này”. Đáng chú ý, Nghị định này
đã có sự phân định rõ khái niệm công chứng và chứng thực, điều mà các Nghị định trước
đây chưa làm rõ được, bản chất của hành vi công chứng là:“chứng nhận tính xác thực của
hợp đồng”, còn hành vi chứng thực lại chỉ là việc “xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao
dịch và chữ ký của cá nhân”. Như vậy, theo quy định nêu trên, hành vi cơng chứng chính
là việc xác lập giá trị pháp lý cho văn bản, hợp đồng; còn hành vi chứng thực chỉ đơn
thuần là việc sao lại các văn bản, hợp đồng mà thôi.
Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Cơng chứng là việc Cơng chứng viên chứng
nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng,
giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân,
tở chức tự nguyện u cầu cơng chứng”.
Có thể nhận thấy, những khái niệm về công chứng gắn liền với những thay đổi của
xã hội nước ta. Ở các giai đoạn phát triển khác nhau thì khái niệm về cơng chứng rõ ràng
có những thay đởi nhất định. Sự thay đổi này thể hiện quan điểm của nhà nước ta về công
chứng cũng như trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng xét về bản chất và
mục đích của hành vi thì vẫn khơng thay đổi.
Từ các quy định pháp luật trên đây, có thể hiểu: Công chứng là việc Công chứng

viên, theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức hoặc quy định của pháp luật, chứng nhận tính hợp
pháp, tính xác thực của các văn bản hợp đồng, giao dịch nhằm đảm bảo lợi ích của nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức3.
- Ý nghĩa pháp lý của hoạt động công chứng là bảo đảm giá trị thực hiện cho các
hợp đồng giao ý dịch, phòng ngừa tranh chấp và cung cấp chứng cứ nếu có tranh chấp
xảy ra.
Như vậy có thể hiểu, Cơng chứng là hành vi của cơng chứng viên lập, chứng nhận
tính xác thực của các giao dịch nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể tham gia
giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật. Văn bản cơng chứng có giá trị
thực hiện và giá trị chứng cứ.

3

Khoản 1, Điều 2 Luật Công chứng 2014.

9


Để hiểu sâu thêm khái niệm công chứng, ta xem xét tình huống:
Ngày 1/3/2018, chị M. làm hợp đồng mua nhà của anh Q. với giá 700 triệu. chị M.
đặt cọc trước 300 triệu, sau ba tháng chị M. trả đủ tiền thì anh Q. giao giấy tờ nhà. Khi
chị M. đến giao thì quá ba ngày và anh Q. không bán nữa và cũng giữ lại 300 triệu tiền
cọc (vì trong hợp đồng có thỏa thuận nếu một bên khơng thực hiện hợp đồng thì phải
chịu cọc). Lúc này, nếu chị M. muốn mua thì phải trả thêm 100 triệu nữa. Chị M. khơng
đồng ý, khởi kiện ra tịa yêu cầu một là anh Q. tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc phải trả
lại tiền cọc.
Trước tòa cả hai đều đệ trình hợp đồng mua bán nhà nhưng chưa có công chứng.
Theo quy định tại Điều 430 Bộ luật dân sự 2015 thì hợp đồng mua bán nhà ở phải
được lập thành văn bản, có cơng chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác. Vì vậy, hợp đồng mua bán hợp đồng trên có hiệu lực.

Mặt khác, theo quy định tại Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014 về công chứng, chứng
thực hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở: Hợp đồng về nhà ở phải
có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của UBND cấp huyện đối với nhà ở tại
đô thị, chứng thực của UBND xã đối với nhà ở tại nông thôn, trừ các trường hợp sau đây:
- Cá nhân cho thuê nhà ở dưới sáu tháng;
- Bên bán, bên cho thuê nhà ở là tở chức có chức năng kinh doanh nhà ở;
- Th mua nhà ở xã hội;
- Bên tặng cho nhà ở là tổ chức.
Như vậy, hợp đồng mua bán nhà ở phải có cơng chứng tại văn phòng cơng chứng
hoặc được chứng thực tại UBND trừ các trường hợp được quy định ở trên. Đối với hợp
đồng mua bán nhà ở không thuộc trường hợp được ngoại trừ ở trên mà chưa được công
chứng, chứng thực thì chưa có giá trị pháp lý, đồng nghĩa với việc quyền sở hữu nhà ở
chưa được chuyển giao sang cho người mua.
Khi giải quyết vụ việc, Tòa án sẽ coi hợp đồng mua bán nhà ở lập giữa anh A và
chị B như một chứng cứ để giải quyết vụ việc.
1.2.2. Đặc điểm công chứng
Thứ nhất, công chứng là hành vi do Công chứng viên thực hiện. Điều này phân biệt
với chứng thực là hành vi do người đại diện của cơ quan hành chính công quyền thực
hiện.
Công chứng viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, chịu trách
nhiệm tiếp nhận hoặc lập các hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công
chứng đảm bảo cho các hợp đồng, giao dịch sau khi được chứng nhận có giá trị pháp lý
như một văn bản của cơ quan công quyền. Cơng chứng viên Phịng Cơng chứng là cơng
chức, viên chức nhà nước được hưởng lương từ ngân sách nhà nước; Công chứng
viênVăn phòng công chứng không phải là công chức, viên chức nhà nước, lương và các
khoản thu nhập khác được trích từ nguồn thu phí cơng chứng, thù lao công chứng và
nguồn thu hợp pháp khác từ hợp đồng công chứng.
10



Thứ hai, nội dung cơ bản của công chứng là chứng nhận các hợp đồng và lập hợp
đồng, giao dịch theo yêu cầu của công dân, tổ chức và chứng nhận các hợp đồng, giao
dịch theo quy định của pháp luật.
Đây là đặc điểm quan trọng của hoạt động công chứng để phân biệt với các hoạt
động mang tính chất hành chính khác của các cơ quan cơng quyền. Việc lập hợp đồng,
giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng và chứng nhận các hợp đồng, giao
dịch theo quy định của pháp luật chính là việc tạo nên các văn bản công chứng. Lập hợp
đồng, giao dịch theo yêu cầu của người yêu cầu công chứng là việc Công chứng viên,
bằng nghiệp vụ chuyên môn của mình giúp người u cầu cơng chứng thể hiện được ý
chí, nguyện vọng của mình được thỏa thuận bằng văn bản, không vi phạm pháp luật,
không trái đạo đức xã hội; hoặc tư vấn, góp ý để người yêu cầu công chứng thể hiện đầy
đủ ý chí, nguyện vọng của mình một cách rõ ràng, chính xác trong các văn bản họ tự lập
nhằm đảm bảo tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch họ tự lập. Nói cách khác, hành
vi của Cơng chứng viên nhằm xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng hoặc
các giao dịch.
Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch là vô cùng quan
trọng nhằm bảo đảm cho chúng có giá trị chứng cứ. Trong pháp luật về tố tụng, khi nói
đến chứng cứ thì bao giờ cũng đề cao tính xác thực của các sự kiện, tình tiết có thực,
khách quan được coi là chứng cứ. Sở dĩ pháp luật coi văn bản cơng chứng có giá trị
chứng cứ cũng là do tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã được
Cơng chứng viên xác nhận. Tính xác thực này được Công chứng viên kiểm chứng và xác
nhận ngay khi nó xảy ra trong thực tế, trong số đó có những tình tiết, sự kiện chỉ xảy ra
một lần, khơng để lại hình dạng, dấu vết về sau (ví dụ: Sự tự nguyện của các bên khi ký
kết hợp đồng) và do đó, nếu khơng có Cơng chứng viên xác nhận thì về sau rất dễ xảy ra
tranh chấp mà tồ án khơng thể xác minh được.
Chứng nhận các hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật là việc Cơng
chứng viên, bằng nghiệp vụ chun mơn của mình xác nhận tính hợp pháp của hợp đồng,
giao dịch. Đây là điểm khác biệt giữa trường phái công chứng nội dung (cơng chứng hệ
Latine) và trường phái cơng chứng hình thức (cơng chứng hệ Anglosason). Trong cơng
chứng hệ Latine thì các hợp đồng, giao dịch hợp pháp mới được Công chứng viên xác

nhận, những hợp đồng, giao dịch bất hợp pháp thì bị từ chối cơng chứng. Đặc điểm này
của công chứng hệ Latine quy định chức năng phòng ngừa các tranh chấp trong hợp
đồng, giao dịch của công chứng.
Nội hàm của khái niệm công chứng là tạo lập nên một loại chứng cứ viết, có giá trị
pháp lý cao, vì các hợp đồng, giấy tờ này được chứng nhận tính xác thực của nó do
những người có thẩm quyền cơng chứng, chứng nhận nên nó mang dấu ấn của công
quyền và trở thành “công chứng thư”. Về ngoại diên của khái niệm công chứng bao hàm
các loại giấy tờ, hợp đồng mà theo quy định của pháp luật bắt buộc phải công chứng,
hoặc cá nhân tổ chức tự nguyện công chứng để những giấy tờ này trở thành một chứng cứ
pháp lý.
11


Thứ ba, văn bản cơng chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thực hiện.
Văn bản công chứng do Cơng chứng viên lập theo trình tự, thể thức bắt buộc, ghi lại
chính xác thời gian, khơng gian, ý chí, nguyện vọng cũng như năng lực chủ thể của các
bên khi tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch. Văn bản công chứng trước hết nhằm tạo
lập giá trị thực hiện giữa các bên tham gia giao dịch, hợp đồng bằng việc ràng buộc
quyền và nghĩa vụ giữa các bên, là căn cứ pháp lý không thể bác bỏ buộc các bên phải
thực hiện đúng các cam kết đã xác lập, đồng thời có giá trị pháp lý cả với bên thứ ba.
Thứ tư, Nhà nước thực hiện sự quản lý đối với tổ chức và hoạt động công chứng
Hoạt động cơng chứng là hoạt động mang tính dịch vụ cơng. Cơng chứng là một
biện pháp phịng ngừa tranh chấp, giúp công dân, tổ chức thực hiện và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình bằng pháp luật. Hoạt động công chứng là hoạt động bổ trợ tư
pháp, cung cấp chứng cứ cho hợp đồng tư pháp nhưng hoàn toàn khác với hoạt động của
các cơ quan tư pháp. Trước đây, cơng chứng ở Việt Nam hồn tồn do các cơ quan nhà
nước thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước. Hiện nay, theo Luật Công chứng năm
2006, tổ chức hành nghề cơng chứng gồm Phịng Cơng chứng (do UBND cấp tỉnh thành
lập, trực thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở và con dấu riêng) vàVăn phòng công chứng (do
Công chứng viên thành lập, hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp). Cả 2 loại

hình này đều đặt dưới sự quản lý của nhà nước.
1.3. PHẠM VI CÁC VIỆC CÔNG CHỨNG VÀ PHÂN BIỆT CÔNG CHỨNG VỚI
CHỨNG THỰC
1.3.1. Phạm vi các việc công chứng
Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng
nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính
chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng
Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định
của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Như vậy, cùng với việc chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao
dịch dân sự khác bằng văn bản, khoản 1 Điều 2 Luật công chứng năm 2014 quy định:
“Cơng chứng viên có quyền chứng nhận tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã
hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước
ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ
chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.
Đi kèm với quy định này, khoản 1 Điều 61 Luật công chứng năm 2014 quy định rõ:
“Việc dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngồi
sang tiếng Việt để cơng chứng phải do người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức
hành nghề công chứng thực hiện. Cộng tác viên phải là người tốt nghiệp đại học ngoại
ngữ hoặc đại học khác mà thơng thạo thứ tiếng nước ngồi đó. Cộng tác viên phải chịu
trách nhiệm đối với tổ chức hành nghề công chứng về tính chính xác, phù hợp của nội
dung bản dịch do mình thực hiện”.
12


Quy định này nhằm tạo thuận lợi hơn cho người dân khi có nhu cầu sử dụng bản
dịch có cơng chứng, tránh việc khi phát hiện sai sót trong bản dịch thì người dân không
biết phải tìm ai để yêu cầu bồi thường. Việc quy định rõ cộng tác viên dịch thuật phải
chịu trách nhiệm đối với tổ chức hành nghề cơng chứng về tính chính xác, phù hợp của
nội dung bản dịch do mình thực hiện cũng là cơ sở để bảo đảm nâng cao trách nhiệm của

người phiên dịch trong q trình này.
Bên cạnh đó, Luật cơng chứng năm 2014 đã mở rộng phạm vi hoạt động của các tổ
chức hành nghề công chứng, của công chứng viên khi Điều 73 của Luật quy định: “Công
chứng viên được chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn
bản. Việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản
được thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng thực”.
Quy định này nhằm tạo thuận lợi hơn cho người dân trong việc lựa chọn và tiếp cận
loại hình dịch vụ cơng này, trong khi Phòng Tư pháp cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp
xã vẫn thực hiện các công việc chứng thực theo quy định tại Nghị định số 23/2015/NĐCP như hiện nay; đồng thời giảm bớt sự quá tải của Phòng Tư pháp cấp huyện và UBND
cấp xã trong việc chứng thực.
1.3.2. Phân biệt công chứng và chứng thực
Nếu công chứng được nêu với khái niệm như trên thì Chứng thực được quy định cụ
thể tại Nghị định số 23/2015/NĐ-CP dựa trên hai khía cạnh sau: Một là: Chứng thực là
việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng
với bản chính hoặc chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản là chữ ký của người đã
yêu cầu chứng thực. Hai là: Chứng thực là việc cơ quan có thẩm quyền chứng thực về
thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự
nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên giao kết hợp đồng, giao dịch.
Nếu công chứng được thực hiện bởi cơ quan bở trợ tư pháp hoặc Phịng cơng chứng
(do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập, là đơn vị sự nghiệp cơng lập thuộc Sở Tư pháp,
có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng) hoặc Văn phòng công chứng (do 02 công chứng
viên hợp danh trở lên thành lập theo loại hình tở chức của cơng ty hợp danh, có con dấu
và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ phí
cơng chứng, thù lao cơng chứng và các nguồn thu hợp pháp khác) thì hoạt động chứng
thực Chủ yếu cho cơ quan nhà nước thực hiện (hầu hết khách hàng muốn thực hiện Sao y
bản chính đều đến các UBND cấp xã hoặc Phòng Tư pháp) hoặc Cơ quan đại diện ngoại
giao, Cơ quan đại diện lãnh sự và Cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh
sự của Việt Nam ở nước ngoài và cũng có thể thực hiện bởi Công chứng viên. Chứng
thực cũng tùy từng loại giấy tờ mà thực hiện ở các cơ quan khác nhau.
Về bản chất, một yếu tố quan trọng để phân biệt hai khái niệm trên, đó là: Công

chứng bảo đảm được nội dung của một hợp đồng, một giao dịch, Cơng chứng viên chịu
trách nhiệm về tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đó và qua việc bảo đảm tính hợp
pháp để giảm thiểu rủi ro, nhờ đó công chứng mang tính pháp lý cao hơn. Còn chứng
13


thực nhằm chứng nhận sự việc, không đề cập đến nội dung, chủ yếu chú trọng về mặt
hình thức.
Về tính giá trị pháp lý, rõ ràng hoạt động công chứng mang lại giá trị cao hơn, văn
bản cơng chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức
hành nghề công chứng. Hợp đồng, giao dịch được cơng chứng có hiệu lực thi hành đối
với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ của
mình thì bên kia có quyền u cầu Tịa án giải quyết theo quy định pháp luật, trừ trường
hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác. Hợp đồng, giao dịch được
cơng chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được
công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tịa án tun bố là vơ hiệu. Bản
dịch được cơng chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch.
Cịn hoạt động chứng thực thì bản sao được chứng thực từ bản chính có giá trị sử
dụng thay cho bản chính đã dùng để đối chiếu chứng thực trong các giao dịch, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác. Chữ ký được chứng thực có giá trị chứng minh người
yêu cầu chứng thực đã ký chữ ký đó, là căn cứ để xác định trách nhiệm của người ký về
nội dung của giấy tờ, văn bản. Hợp đồng, giao dịch được chứng thực có giá trị chứng cứ
chứng minh về thời gian, địa điểm các bên đã ký kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành
vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng,
giao dịch4.
Từ những phân tích trên, nhận thấy được cơng chứng là một lĩnh vực đòi hỏi những
kỹ năng pháp lý nhất định để có có thể xác nhận được giá trị của giao dịch, cần phải có
đội ngũ Cơng chứng viên được đào tạo bài bản để có thể bảo đảm sự chính xác và cũng là
cơ sở để giải quyết các tranh chấp trước cơ quan có thẩm quyền.
1.4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC

1.4.1. Thành lập cơ quan công chứng
Nguyên tắc thành lập tổ chức hành nghề công chứng được nêu rõ tại điều 18 Luật
Công chứng 2014. Việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng phải tuân theo quy định
pháp luật và phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng do
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Phịng cơng chứng chỉ được thành lập mới tại những
địa bàn chưa có điều kiện phát triển được Văn phòng công chứng.Văn phòng công chứng
thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn được
hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của Chính phủ.
a. Phịng Cơng chứng
Phịng Cơng chứng do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập. Phịng Cơng chứng là
đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng. Người
đại diện theo pháp luật của Phịng Cơng chứng là Trưởng phòng. Trưởng phịng cơng
chứng phải là công chứng viên, do Chủ tịch UBND cấp tỉnh bở nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức. Tên gọi của Phịng công chứng bao gồm cụm từ “Phòng công chứng” kèm theo số
4

Xem thêm tại:
thuc.aspx (13/6/2018)

/>
14


thứ tự thành lập và tên của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Phòng Công chứng
được thành lập (ví dụ: Phịng Cơng chứng số 1 tỉnh Kon Tum, Phịng Cơng chứng số 6
Thành phố Hồ Chí Minh…). Phòng cơng chứng sử dụng con dấu khơng có hình quốc
huy, được khắc và sử dụng con dấu sau khi có quyết định thành lập.
Việc thành lập Phịng Cơng chứng được căn cứ dựa trên tình hình nhu cầu cơng
chứng của địa phương đó, các cơ quan ban ngành như: Sở Tư Pháp phối hợp cùng Sở Kế
hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Nội vụ xây dựng đề án thành lập trình UBND cấp tỉnh

xem xét, quyết định. Đề án nêu rõ sự cần thiết thành lập Phịng cơng chứng, dự kiến về tổ
chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai
thực hiện.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày UBND cấp tỉnh ra quyết định thành lập Phịng
cơng chứng, Sở Tư pháp phải đăng báo trung ương hoặc báo địa phương nơi có trụ sở của
Phịng cơng chứng trong ba số liên tiếp về các nội dung sau đây:
Tên gọi, địa chỉ trụ sở của Phịng cơng chứng; Số, ngày, tháng, năm ra quyết định
thành lập và ngày bắt đầu hoạt động của Phịng cơng chứng.
Trong trường hợp UBND cấp tỉnh quyết định thay đổi tên gọi hoặc địa chỉ trụ sở
của Phịng cơng chứng thì Sở Tư pháp phải đăng báo những nội dung thay đổi đó theo
quy định pháp luật.
Trong trường hợp không cần thiết duy trì Phịng cơng chứng thì Sở Tư pháp lập đề
án chuyển đởi Phịng cơng chứng thành Văn phòng cơng chứng trình UBND cấp tỉnh
xem xét, quyết định. Trường hợp khơng có khả năng chuyển đởi Phịng cơng chứng thành
Văn phòng cơng chứng thì Sở Tư pháp lập đề án giải thể Phịng cơng chứng trình Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.
Phịng cơng chứng chỉ được giải thể sau khi thanh toán xong các khoản nợ, làm
xong thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với người lao động, thực hiện xong các
yêu cầu công chứng đã tiếp nhận.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày UBND cấp tỉnh ra quyết định giải thể Phịng
cơng chứng, Sở Tư pháp phải đăng báo trung ương hoặc báo địa phương nơi có trụ sở của
Phịng cơng chứng trong ba số liên tiếp về việc giải thể Phòng cơng chứng.
b. Văn Phịng Cơng chứng
Văn phòng cơng chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Công
chứng 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đối với loại hình cơng
ty hợp danh.
Văn phòng cơng chứng phải có từ hai cơng chứng viên hợp danh trở lên. Văn phòng
cơng chứng khơng có thành viên góp vốn. Người đại diện theo pháp luật của Văn phòng
công chứng là Trưởng Văn phòng. Trưởng Văn phòng công chứng phải là công chứng
viên hợp danh của Văn phòng công chứng và đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở

lên.
Tên gọi của Văn phòng công chứng phải bao gồm cụm từ “Văn phòng công chứng”
kèm theo họ tên của Trưởng Văn phòng hoặc họ tên của một công chứng viên hợp danh
15


khác của Văn phòng công chứng do các công chứng viên hợp danh thỏa thuận, không
được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề công chứng khác, không
được vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc
(ví dụ: Văn Phòng Công chứng Quách Cao Yềm, Văn Phòng Cơng chứng Hồng Trần
Vinh…).
Cũng giống như Phòng Cơng chứng, Văn phòng cơng chứng có con dấu (con dấu
khơng có hình quốc huy) và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài
chính bằng nguồn thu từ phí công chứng, thù lao công chứng và các nguồn thu hợp pháp
khác.
Về quy trình thành lập, các cơng chứng viên thành lập Văn phòng cơng chứng phải
có hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng gửi UBND cấp tỉnh xem xét, quyết
định. Hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng gồm đơn đề nghị thành lập và đề
án thành lập Văn phòng công chứng, trong đó nêu rõ sự cần thiết thành lập, dự kiến về tổ
chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai
thực hiện; bản sao quyết định bổ nhiệm công chứng viên tham gia thành lập Văn phòng
công chứng.
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công
chứng, UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định cho phép thành lập Văn phòng công chứng;
trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Trong thời hạn 90 ngày
kể từ ngày nhận được quyết định cho phép thành lập, Văn phòng công chứng phải đăng
ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi đã ra quyết định cho phép thành lập.
Nội dung đăng ký hoạt động của Văn phòng cơng chứng bao gồm tên gọi của Văn
phịng cơng chứng, họ tên Trưởng Văn phòng công chứng, địa chỉ trụ sở của Văn phòng
công chứng, danh sách công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng và danh

sách công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng của Văn phòng cơng chứng (nếu
có).
Hồ sơ đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng gồm đơn đăng ký hoạt động,
giấy tờ chứng minh về trụ sở của Văn phòng công chứng phù hợp với nội dung đã nêu
trong đề án thành lập và hồ sơ đăng ký hành nghề của các công chứng viên hợp danh,
công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng lao động tại Văn phòng cơng chứng (nếu
có). Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký hoạt động, Sở Tư
pháp cấp giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng; trường hợp từ chối phải
thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Văn phòng công chứng được hoạt động công
chứng kể từ ngày Sở Tư pháp cấp giấy đăng ký hoạt động.
Khi thay đổi một trong các nội dung hoạt động, Văn phòng công chứng phải đăng
ký nội dung thay đổi tại Sở Tư pháp nơi Văn phòng công chứng đã đăng ký hoạt động.
Việc thay đổi trụ sở của Văn phòng công chứng sang huyện, quận, thị xã, thành phố khác
trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi đã ra quyết định cho phép thành
lập phải được UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định và phải phù hợp với Quy hoạch tổng
thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng.
16


Về các vấn đề liên quan phát sinh như: Đăng báo nội dung đăng ký hoạt động, thay
đổi thành viên hợp danh hay chuyển nhượng, sáp nhập, chấm dứt hoạt động của Văn
phịng Cơng chứng cũng được quy định cụ thể tại các điều 26, 27, 28, 29, 30, 31 của Luật
Công chứng 2014. Nhìn chung, Văn phòng Công chứng cũng hoạt động dựa trên mơ hình
của cơng ty hợp danh, vì vậy các vấn đề liên quan đến thành lập, hoạt động và chấm dứt
cũng tuân thủ theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2015.
Về tổ chức hành nghề công chứng: Luật công chứng năm 2014 cũng có những thay
đổi so với Luật công chứng năm 2006, cụ thể: Luật này quy định khuyến khích phát triển
Văn phòng cơng chứng theo định hướng xã hội hóa, quy định: trong trường hợp khơng
cần thiết duy trì Phịng cơng chứng, Sở Tư pháp lập đề án chuyển đởi Phịng cơng chứng
thành Văn phòng cơng chứng trình UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định. Nếu khơng

chuyển đởi được thì mới giải thể Phịng cơng chứng (Điều 21).
Nếu Luật cơng chứng năm 2006 cho phép tồn tại song song hai loại hình doanh
nghiệp đó là: Văn phòng công chứng do 01 công chứng viên thành lập được tổ chức và
hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân và Văn phòng cơng chứng do hai công
chứng viên trở lên thành lập được tổ chức và hoạt động hoạt động theo loại hình cơng ty
hợp danh thì Luật cơng chứng năm 2014 chỉ cho phép Văn phòng công chứng được thành
lập theo một loại hình cơng ty hợp danh và quy định rõ Văn phòng cơng chứng khơng có
thành viên góp vốn.
Một điểm mới không thể không kể đến trong Luật công chứng năm 2014 đó là siết
chặt hơn quy định về tên gọi của Văn phòng công chứng, cụ thể: Khoản 3 Điều 22 quy
định: “Tên gọi của Văn phòng công chứng phải bao gồm cụm từ “Văn phòng công
chứng” kèm theo họ tên của Trưởng Văn phòng hoặc họ tên của một công chứng viên
hợp danh khác của Văn phòng công chứng do các công chứng viên hợp danh thỏa thuận,
không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề công chứng khác,
không được vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá và đạo đức”.
Về hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng Văn phòng công chứng: Đây là những quy
định hồn tồn mới của Luật cơng chứng năm 2014 so với Luật công chứng năm 2006.
UBND cấp tỉnh là cơ quan có thẩm quyền xem xét việc hợp nhất, sáp nhập, chuyển
nhượng Văn phòng công chứng tại địa phương mình quản lý. Đặc biệt, đối với việc
chuyển nhượng chuyển nhượng Văn phòng công chứng, Luật công chứng năm 2014 đã
quy định khá chặt chẽ về điều kiện của công chứng viên nhận chuyển nhượng văn phòng
công chứng, cụ thể: Khoản 2 Điều 29 quy định: “Công chứng viên nhận chuyển nhượng
Văn phòng công chứng phải đáp ứng các điều kiện sau đây: Đã hành nghề công chứng từ
02 năm trở lên đối với người dự kiến sẽ tiếp quản vị trí Trưởng Văn phòng công chứng;
Cam kết hành nghề tại Văn phòng cơng chứng mà mình nhận chuyển nhượng; Cam kết
kế thừa quyền và nghĩa vụ của Văn phòng công chứng được chuyển nhượng”. Tuy
nhiên, điều luật này cũng quy định: công chứng viên đã chuyển nhượng văn phòng công
chứng không được phép tham gia thành lập văn phòng công chứng mới trong thời hạn 05
năm kể từ ngày chuyển nhượng.
17



Vấn đề ở đây chính là việc xác định văn phòng công chứng không phải là một
doanh nghiệp đang tạo ra những bất lợi cho các văn phòng công chứng so với các doanh
nghiệp và điều này dẫn đến hệ quả là không thúc đẩy việc phát triển nguồn công chứng
viên và các tổ chức hành nghề công chứng để thực hiện mục tiêu xã hội hóa hoạt động
công chứng. Cụ thể, Luật Công chứng năm 2014 quy định văn phòng công chứng được tổ
chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh, nhưng văn phòng công chứng lại
không phải là công ty hợp danh (doanh nghiệp), nên không có thành viên góp vốn. Trong
khi đó, theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, thì ngoài các thành viên hợp
danh, công ty hợp danh có thể có thêm thành viên góp vốn. Như vậy, việc hạn chế không
cho phép văn phòng công chứng có thành viên góp vốn đã dẫn đến hạn chế nguồn tài
chính của văn phòng công chứng, trong khi nguồn tài chính này sẽ mang lại những lợi thế
nhất định nào đó cho chính các văn phòng công chứng như việc sử dụng nguồn tài chính
để mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho các công chứng viên với mức cao nhất có
thể, đều này vừa tránh được tình trạng các văn phòng công chứng không mua bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên theo quy định của Luật Công chứng, vừa
tránh tình trạng các văn phòng công chứng chỉ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
cho các công chứng viên của văn phòng công chứng với mức thấp nhất hoặc rất thấp để
hoàn thành nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, khi có rủi ro nghề nghiệp xảy ra thì
không đủ khả năng để đền bù thiệt hại, ảnh hưởng đến hoạt động của văn phòng công
chứng hoặc nguồn tài chính sẽ được các văn phòng công chứng đầu tư vào việc xây dựng
trụ sở của văn phòng công chứng, mua sắm các loại máy móc, thiết bị như máy soi, chụp,
kiểm tra giấy tờ giả, đầu tư vào việc xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc tra cứu các
thông tin về hợp đồng, giao dịch... để phục vụ cho hoạt động của văn phòng công chứng
được tốt hơn, đảm bảo an tồn cho các cơng chứng viên khi ký công chứng các hợp đồng,
giao dịch về bất động sản...
Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Nghị định số 29/2015/NĐ-CP thì “Công
chứng viên đang là Trưởng Văn phòng công chứng hoặc đang là công chứng viên hợp
danh của Văn phòng công chứng không được tham gia đấu giá quyền nhận chuyển đổi

Phòng công chứng”. Như vậy, dù văn phòng công chứng không phải là doanh nghiệp
nhưng thành viên hợp danh của văn phòng công chứng lại chịu sự điều chỉnh như thành
viên hợp danh của công ty hợp danh là doanh nghiệp. Đây là sự không công bằng đối với
công chứng viên hợp danh của các văn phòng công chứng, vì quy định này hạn chế
quyền được nhận chuyển đổi Phòng công chứng của các công chứng viên hợp danh của
các văn phòng công chứng để đầu tư, mở rộng phạm vi hoạt động, cung cấp dịch vụ công
của các công chứng viên hợp danh của các văn phòng cơng chứng. Ngồi ra, vì văn
phòng công chứng không phải là doanh nghiệp, nên trong quá trình hoạt động, các văn
phòng công chứng không được mở các chi nhánh, văn phòng đại diện để mở rộng phạm
vi hoạt động mình. Điều này cũng hạn chế hoạt động của các văn phòng công chứng
được thành lập ở những địa bàn vùng sâu, đi lại khó khăn có số lượng hợp đồng, giao
dịch ít trong việc cạnh tranh với các văn phòng công chứng được thành lập ở những địa
18


bàn trung tâm có lợi thế về số lượng hợp đồng, giao dịch nhiều. Thiết nghĩ, để huy động
được nguồn công chứng viên tham gia thành lập các văn phòng công chứng, thực hiện
mục tiêu xã hội hóa hoạt động công chứng, trong giai đoạn hiện nay khi mà thể chế pháp
luật để điều chỉnh tổ chức và hoạt động của văn phòng cơng chứng chưa hồn thiện thì
pháp luật cần xem xét có cơ chế đặc thù nhằm tạo điều kiện cho hoạt động công chứng
phát triển. Đó là việc xem xét sửa đổi quy định nghiêm cấm văn phòng công chứng mở
cơ sở, địa điểm giao dịch khác ngồi trụ sở của văn phòng cơng chứng. Vì việc cho phép
các văn phòng công chứng được mở các cơ sở hay địa điểm giao dịch mang lại rất nhiều
các lợi ích. Để hoạt động công chứng phát triển lành mạnh, thực hiện mục tiêu xã hội hóa
hoạt động công chứng, pháp luật cần phải có cơ chế điều chỉnh phù hợp, tương thích với
tính chất, tổ chức và hoạt động của các văn phòng công chứng, đảm bảo cho các văn
phòng công chứng được cạnh tranh với nhau một cách lành mạnh trong việc cung cấp
dịch vụ cho khách hàng. Có như vậy hoạt động công chứng tại Việt Nam mới có thể phát
triển được và phát triển theo xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới.
1.4.2. Công chứng viên

Nguyên tắc hành nghề công chứng đưa công chứng viên vào khuôn phép pháp luật
khi hành nghề, đó là: phải thật sự khách quan, trung thực, không thiên vị, khơng vì lợi ích
cá nhân, sự quen thân làm ảnh hưởng đến lợi ích người khác, không công chứng hợp
đồng, giao dịch có nội dung trái đạo đức xã hội. Cơng chứng viên phải ln coi trọng uy
tín của mình đối với công việc chuyên môn, không thực hiện những hành vi làm tổn hại
đến danh dự cá nhân, thanh danh nghề nghiệp, không sử dụng trình độ chuyên mơn, hiểu
biết của mình trong cơng việc để trục lợi, gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng.
Nguyên tắc hành nghề công chứng trong Luật công chứng quy định công chứng viên phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng. Nguyên tắc này đề cao nhiệm
vụ, trách nhiệm, vai trị của cơng chứng viên khi thi hành công việc được giao. Đồng
thời, đây cũng là nguyên tắc để công chứng viên cần thận trọng khi xem xét ký vào văn
bản công chứng.
Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, được Bộ
trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng5. Những tiêu chuẩn đó bao gồm:
Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm
chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bở nhiệm cơng chứng
viên:
- Có bằng cử nhân luật;
- Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi
đã có bằng cử nhân luật;
- Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng (Thời gian đào tạo nghề công chứng là
12 tháng và được cơ sở đào tạo nghề công chứng cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa
đào tạo nghề cơng chứng) hoặc hồn thành khóa bồi dưỡng nghề cơng chứng (Thuộc
5

Khoản 2, điều 2 Luật Công chứng 2014.

19



trường hợp miễn đào tạo nghề công chứng. Thời gian bồi dưỡng nghề công chứng là 03
tháng và được cấp giấy chứng nhận hồn thành khóa bồi dưỡng nghề cơng chứng);
- Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề cơng chứng (Người có giấy chứng
nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc giấy chứng nhận bồi dưỡng nghề
công chứng phải tập sự hành nghề tại một tở chức hành nghề cơng chứng. Người tập sự
có thể tự liên hệ với một tổ chức hành nghề công chứng đủ điều kiện nhận tập sự về việc
tập sự tại tổ chức đó; trường hợp không tự liên hệ được thì đề nghị Sở Tư pháp ở địa
phương nơi người đó muốn tập sự bố trí tập sự tại một tổ chức hành nghề công chứng đủ
điều kiện nhận tập sự. Người tập sự phải đăng ký tập sự tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi
có tở chức hành nghề công chứng nhận tập sự. Thời gian tập sự hành nghề công chứng là
12 tháng đối với người có giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề cơng chứng và
06 tháng đối với người có giấy chứng nhận bồi dưỡng nghề công chứng. Thời gian tập sự
hành nghề cơng chứng được tính từ ngày đăng ký tập sự. Tổ chức hành nghề công chứng
nhận tập sự phải có cơng chứng viên đáp ứng điều kiện hướng dẫn tập sự theo quy định
tại khoản 3 Điều này và có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc tập sự. Tổ chức hành nghề
công chứng phân công công chứng viên hướng dẫn người tập sự. Công chứng viên hướng
dẫn tập sự phải có ít nhất 02 năm kinh nghiệm hành nghề công chứng. Công chứng viên
bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề cơng chứng thì
sau 12 tháng kể từ ngày chấp hành xong quyết định kỷ luật, quyết định xử phạt vi phạm
hành chính mới được hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng. Tại cùng một thời điểm,
một công chứng viên không được hướng dẫn nhiều hơn hai người tập sự. Khi hết thời
gian tập sự, người tập sự hành nghề cơng chứng phải có báo cáo bằng văn bản về kết quả
tập sự có nhận xét của công chứng viên hướng dẫn và xác nhận của tổ chức hành nghề
công chứng nhận tập sự gửi đến Sở Tư pháp nơi mình đã đăng ký tập sự; được đăng ký
tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng. Người đạt yêu cầu kiểm tra kết
quả tập sự hành nghề công chứng được cấp giấy chứng nhận kết quả kiểm tra tập sự hành
nghề công chứng);
- Bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng.
Người đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo quy định có quyền đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư
pháp bổ nhiệm công chứng viên. Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên được gửi đến

Sở Tư pháp nơi người đề nghị bổ nhiệm công chứng viên đã đăng ký tập sự hành nghề
công chứng.
Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công
chứng viên, Sở Tư pháp có văn bản đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm công chứng
viên kèm theo hồ sơ đề nghị bổ nhiệm; trường hợp từ chối đề nghị thì phải thơng báo
bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do cho người nộp hồ sơ. Trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày nhận được văn bản và hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên của Sở Tư pháp, Bộ
trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định bổ nhiệm công chứng viên; trường hợp từ chối
bổ nhiệm phải thông báo bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do, gửi cho Sở Tư pháp và
người đề nghị bổ nhiệm.
20


Những trường hợp không được bổ nhiệm Công chứng viên bao gồm:
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị kết tội bằng bản án đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án về tội phạm do vơ ý mà chưa được xóa án tích hoặc về tội phạm
do cố ý.
- Người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy định của pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính.
- Người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Cán bộ bị kỷ luật bằng hình thức bãi nhiệm, cơng chức, viên chức bị kỷ luật bằng
hình thức buộc thôi việc hoặc sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, sỹ quan, hạ sỹ quan, công nhân, viên
chức trong đơn vị thuộc Công an nhân dân bị kỷ luật bằng hình thức tước danh hiệu quân
nhân, danh hiệu Công an nhân dân hoặc đưa ra khỏi ngành.
- Người bị thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư do bị xử lý kỷ luật bằng hình thức
xóa tên khỏi danh sách của Đoàn luật sư, người bị tước quyền sử dụng chứng chỉ hành
nghề luật sư mà chưa hết thời hạn 03 năm kể từ ngày quyết định thu hồi chứng chỉ hành
nghề luật sư có hiệu lực hoặc kể từ ngày chấp hành xong quyết định tước quyền sử dụng
chứng chỉ hành nghề luật sư.

Theo điều 17 Luật Cơng chứng 2014, Cơng chứng viên có các quyền sau đây: Được
pháp luật bảo đảm quyền hành nghề công chứng; Tham gia thành lập Văn phòng công
chứng hoặc làm việc theo chế độ hợp đồng cho tổ chức hành nghề công chứng; Được
công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của Luật này; Đề nghị cá nhân,
cơ quan, tở chức có liên quan cung cấp thơng tin, tài liệu để thực hiện việc công chứng;
Được từ chối công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức
xã hội;
Bên cạnh đó, Công chứng viên có các nghĩa vụ cần phải tuân thủ trong hoạt động
nghề nghiệp sau đây: Tuân thủ các nguyên tắc hành nghề công chứng; Hành nghề tại một
tổ chức hành nghề công chứng; Tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người
yêu cầu công chứng; Giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp từ
chối u cầu cơng chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người u cầu cơng chứng; Giữ
bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý
bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; Tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công
chứng hàng năm; Chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng
về văn bản công chứng của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của Văn
phịng cơng chứng mà mình là cơng chứng viên hợp danh; Tham gia tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên; Chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
của tở chức hành nghề cơng chứng mà mình làm cơng chứng viên và tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên mà mình là thành viên; Các nghĩa vụ khác theo quy
định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
21


Đạo đức nghề hành nghề cơng chứng chính là khơng ngừng phấn đấu, trau dồi
phẩm chất, chú trọng nâng cao trình độ, thường xuyên học tập, nghiên cứu kiến thức về
các lĩnh vực liên quan đến hoạt động nghiệp vụ chun mơn; tích cực tham gia các hoạt
động, trao đởi kiến thức, kinh nghiệm với đồng nghiệp trong hoạt động công chứng, là sự
tôn trọng, bảo vệ danh dự, uy tín cho đồng nghiệp, có thái độ thân thiện, giúp đỡ nhau
hoàn thành nhiệm vụ. Đó là quan hệ hợp tác, bình đẳng giữa công chứng viên với nhân
viên nghiệp vụ, Trưởng phòng, Trưởng văn phòng công chứng trong hoạt động công

chứng.
Đối với người yêu cầu công chứng, đạo đức hành nghề công chứng là thể hiện sự
văn minh, lịch sự khi tiếp xúc với người dân, khi thực hiện việc cơng chứng, cơng chứng
viên cần có thiện chí và phải tư vấn cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ về hệ quả
pháp lý phát sinh sau khi hợp đồng, giao dịch được công chứng. Công chứng viên phải có
trách nhiệm hướng dẫn cho người u cầu cơng chứng lựa chọn hình thức văn bản cơng
chứng phù hợp để bảo đảm tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch. Cơng chứng viên cần
tận tình, hịa nhã giải đáp thắc mắc của người yêu cầu công chứng để họ hiểu đúng pháp
luật, ý chí của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch phải phù hợp với các quy định của
pháp luật. Công chứng viên cần giải thích cho người yêu cầu công chứng về quyền, nghĩa
vụ, trách nhiệm đối với Nhà nước, về quyền được khiếu nại, tố cáo của người yêu cầu
công chứng khi tham gia ký kết hợp đồng, giao dịch.
Ngoài việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về nguyên tắc hành nghề công
chứng, Luật công chứng còn có quy định tại Điều 12 về các hành vi bị nghiêm cấm đối
với công chứng viên như: không được sách nhiễu, gây khó khăn cho người yêu cầu công
chứng, không đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác ngồi phí, thù lao cơng
chứng và chi phí khác đã được thoả thuận; không nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích vật chất
nào khác để thực hiện hoặc không thực hiện việc công chứng, không sử dụng thông tin
biết được từ việc công chứng để phục vụ lợi ích cá nhân, khơng cơng chứng đối với
trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức
xã hội. Có thể nói mọi hành vi tác nghiệp của cơng chứng viên đều liên quan đến các quy
định trong các điều của Luật cơng chứng. Do vậy, vai trị, vị trí của công chứng viên rất
quan trọng nhưng cũng khá nặng nề nếu không thận trọng, cẩu thả, yếu kém về chuyên
môn, nghiệp vụ sẽ dễ phải gánh chịu hậu quả pháp lý.
Qua hơn bốn năm thực hiện Luật Công chứng cho thấy: hoạt động công chứng ở
nước ta đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về công chứng của nhân dân trong nền kinh tế thị
trường, đồng thời là công cụ đắc lực phục vụ quản lý nhà nước có hiệu quả, bảo đảm an
tồn pháp lý cho các giao dịch, góp phần tích cực vào việc phịng ngừa tranh chấp, vi
phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Xã hội hóa cơng chứng là một bước đột phá trong công tác quản lý hoạt động công
chứng, công chứng viên là điểm trọng tâm xuyên suốt toàn bộ các quy định của Luật
công chứng. Các quy định về công chứng viên trong Luật Công chứng càng khẳng định
22


×