Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty tnhh phát triển khoa học quốc tế trường sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 42 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

RCOM HÀ THÚY

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HĨA VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CƠNG TY TNHH
PHÁT TRIỂN KHOA HỌC QUỐC TẾ
TRƯỜNG SINH

Kon Tum, tháng 8 năm 2018


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHÂN HIỆU ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TẠI KON TUM

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HĨA VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG TẠI CƠNG TY TNHH PHÁT
TRIỂN KHOA HỌC QUỐC TẾ TRƯỜNG SINH

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : TRƯƠNG THỊ HỒNG NHUNG
SINH VIÊN THỰC HIỆN

: RCOM HÀ THÚY

LỚP


: K814LK2

MSSV

: 141502106

Kon Tum, tháng 8 năm 2018


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .............................................................................................. iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU – SƠ ĐỒ ...................................................................................iv
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết....................................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 2
5. Bố cục ................................................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA THEO QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM ........................................................................................... 3
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HĨA ............................................ 3
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa ............ 3
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa .................................................... 4
1.1.3. Phân loại hợp đồng mua bán hàng hóa ....................................................................... 8
1.1.4. Vai trị của hợp đồng mua bán hàng hóa .................................................................... 9
1.2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TẠI VIỆT
NAM ....................................................................................................................................... 10
1.2.1. Hệ thống các văn bản pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa ............................ 10
1.2.2. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa................................................................. 11
1.2.3. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa ...................................................................... 12

1.2.4. Hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa .................................................................... 15
1.2.5. Nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa ..................................................................... 16
1.2.6. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa và giải quyết tranh chấp ..... 16
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ..................................................................................................... 20
CHƯƠNG 2.THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HĨA TẠI CƠNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN PHÁT TRIỂN KHOA
HỌC QUỐC TẾ TRƯỜNG SINH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ............. 21
2.1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA TẠI CÔNG TY TNHH PHÁT TRIỂN KHOA HỌC QUỐC TẾ
TRƯỜNG SINH .................................................................................................................... 21
2.1.1. Những thành tựu đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa tại cơng ty TNHH Phát Triển Khoa Học Quốc Tế Trường Sinh...................... 21
2.1.2. Những hạn chế khó khăn trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa tại cơng ty TNHH Phát Triển Khoa Học Quốc Tế Trường Sinh..... 25
2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế khó khăn trong việc áp dụng pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa tại cơng ty TNHH Phát Triển Khoa Học Quốc Tế Trường Sinh..... 26
2.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY
TNHH PHÁT TRIỂN KHOA HỌC QUỐC TẾ TRƯỜNG SINH .................................. 28
i


2.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện nội dung pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa .................................................................................................................................. 28
2.2.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa tại cơng ty TNHH Phát Triển Khoa Học Quốc Tế Trường Sinh ............................ 30
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ..................................................................................................... 32
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI HƯỚNG DẪN


ii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT CHỮ VIẾT TẮT

GIẢI THÍCH
World Trade Organization (Tổ chức Thương mại Thế giới)

1

WTO

2
3

BLSD
HĐMBHH

Bộ luật Dân sự 2015

4

LTM

Luật Thương mại 2005

5


GATT

General Agreement on Tariffs and Trade (Hiệp ước chung
về thuế quan và mậu dịch)

6

UBND

Ủy ban nhân dân

7

VBHN

Văn bản hợp nhất

8

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

9

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

10


VAT

Value Added Tax (Thuế giá trị gia tăng)

11

BCT

Bộ công thương

Hợp đồng mua bán hàng hóa

iii


DANH MỤC BẢNG BIỂU – SƠ ĐỒ
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Số trang

Bảng 2.1.2. Bảng tổng hợp số lượng hợp đồng mua bán hàng hóa đã ký kết
giai đoạn 2015 – 2017

22

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.2.2. Sơ đồ thống kê tỷ lệ phần trăm hợp đồng tranh chấp giai đoạn
2015 - 2017


iv

24


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Khi xã hội lồi người có sự phân cơng lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng
hóa thì hợp đồng đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan
hệ tài sản. Hợp đồng là sự khái quát một cách tồn diện các hình thức giao lưu dân sự
phong phú của con người, là một trong những phương thức hữu hiệu để các chủ thể tham
gia vào quan hệ pháp luật để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO nền kinh tế có nhiều cơ hội phát triển, pháp luật
Việt Nam có nhiều sự thay đổi để phù hợp với những luật lệ chung của các nước trên thế
giới và thu hẹp khoảng cách giữa luật Việt Nam và luật quốc tế. Tạo được sự bình đẳng
cho tất cả các bên khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. Đây là sự thay đổi lớn
với toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa nói
riêng. Nhất là khi việc giao thương buôn bán giữa các chủ thể khác nhau trong nền kinh
tế diễn ra liên tục, việc giao kết hay thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trở nên quen
thuộc và phổ biến.
Mua bán hàng hóa là hoạt động chính khơng thể thiếu của một doanh nghiệp dù
hoạt động trong bất kì lĩnh vực nào. Khi hai bên tiến hành mua bán hàng hóa với nhau để
làm căn cứ thực hiện hợp đồng thì các bên ký kết với nhau qua hình thức: bằng miệng,
bằng văn bản, bằng email… người ta gọi là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua
bán hàng hóa đã trở thành phương tiện phục vụ cho mục đích kinh doanh trên nguyên tắc
các chủ thể tự nguyện, bình đẳng với nhau và là hình thức pháp lý chủ yếu của các quan
hệ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là cơ sở pháp lý cho sự thỏa thuận giữa các bên trong
quan hệ trao đổi mua bán, đảm bảo cho việc thực hiện giữa các bên và thể hiện sự tham
gia quản lý từ phía Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế. Do đó, việc thực hiện hợp

đồng cần tuân theo đúng quy định của pháp luật mới có thể giúp gắn chặt mối quan hệ
hợp tác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Trước đây, hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng chịu sự
điều chỉnh của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, sau đó là BLDS 1995, BLDS 2005,
LTM 1997 và hiện nay là BLDS 2015 và LTM 2005, ngồi ra cịn có Văn bản hợp nhất
số 19/VBHN-BCT. Các văn bản này hình thành nên hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho
hoạt động mua bán hàng hóa được thúc đẩy và phát triển. Tuy nhiên qua quá trình thực
hiện trên thực tế, một số quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa cịn chưa phù
hợp gây khó khăn trong q trình áp dụng cho các bên tham gia, địi hỏi pháp luật cần có
sự điều chỉnh phù hợp. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
về HĐMBHH là hết sức cần thiết, trên cơ sở đó đưa ra những định hướng, giải pháp cụ
thể nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa trong giai đoạn
hiện nay.
Trong quá trình thực tập tại cơng ty TNHH Phát Triển Khoa Học Quốc Tế Trường
Sinh, em nhận thấy rằng hoạt động mua bán hàng hóa là một trong những lĩnh vực hoạt
1


động quan trọng của công ty và áp dụng nhiều vấn đề pháp lý trong thực tiễn về thực hiện
các hợp đồng kinh doanh. Hợp đồng mua bán hàng hóa chiếm tới 90% tổng số các loại
hợp đồng tại công ty về số lượng và giá trị. Việc áp dụng pháp luật về hợp đồng tại đơn
vị là chưa thật sự đầy đủ và cần có những giải pháp khắc phục, sửa đổi trong quá trình
giao kết cũng như thực hiện hợp đồng. Vì vậy, em lựa chọn “Hợp đồng mua bán hàng
hóa và thực tiễn tại Cơng ty TNHH Phát Triển Khoa Học Quốc Tế Trường Sinh” làm
đề tài cho tiểu luận cuối khóa.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập trung phân tích làm rõ các vấn đề lý luận và quy định pháp luật hiện hành
về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn tại cơng ty TNHH Phát Triển Khoa Học
Quốc Tế Trường Sinh. Từ đó chỉ ra các hạn chế trong quy định pháp luật về mua bán
hàng hóa, cũng như trong q trình thực hiện tại cơng ty. Trên cơ sở đó đưa ra các kiến

nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa để đảm bảo thực thi có
hiệu quả trên thực tế, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn khách quan trong điều kiện kinh tế
thị trường và xu thể hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay; đồng thời nâng cao hiệu quả áp
dụng tại công ty TNHH Phát Triển Khoa Học Quốc Tế Trường Sinh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi bài tiểu luận cuối khóa đề tài chỉ tập trung làm rõ các vấn đề lý luận,
quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn thực hiện tại
cơng ty TNHH Phát Triển Khoa Học Quốc Tế Trường Sinh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng mua bán
hàng hóa tại BLDS 2015 và Luật Thương mại 2005. Và xem xét đánh giá thực tiễn thực
hiện tại công ty TNHH Phát Triển Khoa Học Quốc Tế Trường Sinh trong thời gian từ
năm 2015 – 2017.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, đề tài sử dụng tổng hợp
các phương pháp phân tích và tổng hợp, đối chiếu, thống kê, hệ thống hóa và tham khảo
tài liệu nghiên cứu, bài viết và các giáo trình liên quan để làm rõ các nội dung của đề tài.
5. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục thì nội dung
của đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Tổng quan về hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định pháp luật Việt
Nam
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa tại cơng ty
trách nhiệm hữu hạn phát triển khoa học quốc tế Trường Sinh và một số kiến nghị hoàn
thiện.

2



CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA THEO QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HĨA
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hợp đồng mua bán hàng
hóa
Trong pháp luật của các nước tư bản phương Tây, chế định hợp đồng được coi là
một chế định hoàn thiện và ít mang dấu ấn chính trị nhất. Trong chế định này, tự do hợp
đồng được khẳng định như một nguyên tắc chủ yếu trong các giao dịch dân sự, thương
mại, toàn bộ chế định hợp đồng được xây dựng trên nền tảng của tự do, bình đẳng. Có thể
nói chế định pháp luật có tính chất nhất thể hóa cao trong pháp luật tư sản. Trong hệ
thống pháp luật các nước XHCN, chế định hợp đồng cũng là một chế định cơ bản bên
cạnh các chế định quyền sở hữu quyền thừa kế…
Ngày nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con người thực
hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết mọi như cầu trong đời sống. Tuy vậy, trong
lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra một thuật ngữ chính xác, như thuật ngữ “hợp
đồng” đang được sử dụng ở nhiều quốc gia hiện nay là không dễ dàng. Nhiều quốc gia
cho rằng thuật ngữ “hợp đồng” (contractus) hình thành từ động từ “contrahere” trong
tiếng La-tinh, có nghĩa là “ràng buộc”, và xuất hiện lần đầu ở La Mã vào khoảng thế kỷ
V-IV trước công nguyên 1.
Ở Việt Nam, thời kì phong kiến các bộ luật cổ từng tồn tại trước đây như Luật Hồng
Đức, Bộ luật Gia Long khơng có quy định riêng về hợp đồng dân sự mặc dù trong thực tế
hình thành rất nhiều quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể với nhau. Trong Bộ luật Hồng
Đức cũng chỉ phản ánh hai chế độ sở hữu ruộng đất: sở hữu nhà nước (ruộng công/công
điền/công thổ) và sở hữu tư nhân (ruộng tư/tư điền/tư thổ).
Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về hợp đồng ở nước ta
cho thấy sự điều chỉnh pháp luật về hợp đồng trong hoạt động kinh doanh đã có từ rất
sớm. Khi cịn là thuộc địa Pháp, Việt Nam có bộ luật về hợp đồng Việt Nam bao gồm hai
bộ phận cấu thành: pháp luật về hợp đồng dân sự và pháp luật về hợp đồng thương mại.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã

ban hành một số sắc lệnh, quy định rõ hơn về hợp đồng cho phù hợp với tình hình mới,
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ra quyết định đổi mới cơ chế
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Ngày
25/9/1989, Hội đồng nhà nước đã thông qua các Pháp lệnh hợp đồng kinh tế để điều
chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế trong cơ chế mới. Theo đó “hợp đồng kinh tế là sự
1

/>
3


thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên kí kết về việc tham gia sản xuất,
trao đổi hàng hóa, dịch vụ nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thỏa
thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình” 2.
Sau đó, Quốc hội thông qua BLDS 1995 và LTM 1997 nhằm điều chỉnh về hành vi
thương mại. Tuy nhiên, trong thực tế các bên tham gia hợp đồng chủ yếu vẫn căn cứ vào
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989. Các quy định của ba văn bản này khơng có sự thống
nhất và khơng có quy định về mối quan hệ với nhau, gây nhiều khó khăn cho người áp
dụng, nên địi hỏi pháp luật cần được hoàn thiện và đổi mới quy định pháp luật về hợp
đồng.
Ngày 14/06/2005 Quốc hội khóa XI thơng qua BLDS mới và có hiệu lực từ ngày
01/01/2006 và thay thế cho BLDS 1995 và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989. BLDS
2005 được coi là đạo luật chung áp dụng cho tất cả các quan hệ dân sự, kinh tế, thương
mại, tạo sự thống nhất về pháp luật, đặc biệt điều chỉnh những quan hệ hợp đồng và LTM
1997 cũng được thay thế bởi LTM 2005.
Tuy nhiên, qua thời gian áp dụng BLDS 2005 vẫn không đảm bảo các yếu tố trong
nền kinh tế hiện nay. Ngày 24/11/2015, kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã chính thức
thơng qua BLDS 2015 và có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2017. Điểm mới của Bộ luật

dân sự mới mở rộng phạm vi điều chỉnh, là cơ sở giải quyết tranh chấp phát sinh, tránh
mâu thuẫn giữa các luật và ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa
a. Khái niệm
Theo Từ điển Việt Nam, hàng hóa là một trong những phạm trù cơ bản của kinh tế
chính trị. Theo nghĩa hẹp, hàng hóa là vật chất tồn tại có hình dạng xác định trong khơng
gian và có thể trao đổi, mua bán được. Theo nghĩa rộng, hàng hóa là tất cả những gì có
thể trao đổi, mua bán được.
Trong kinh tế chính trị Marx-Lenin, hàng hóa được định nghĩa là sản phẩm của lao
động thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể là hữu hình như sắt thép, quyển sách
hay ở dạng vơ hình như sức lao động. Marx-Lenin cho rằng hàng hóa trước hết phải là đồ
vật mang hình dạng có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người nhờ vào tính chất của
nó. Để một đồ vật trở thành hàng hóa thì bản thân nó phải có: tính ích dụng đối với người
dùng; giá trị nghĩa là được chi phí bởi lao động và sự hạn chế để đạt được nó nghĩa là độ
khan hiếm 3.
David Ricardo cho rằng hàng hóa có hai thuộc tính cơ bản: giá trị sử dụng và giá trị.
Một là, giá trị của hàng hóa thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Một hàng hóa
có thể có một hay nhiều cơng dụng nên nó có thể giá sự sử dụng khác nhau.
Hai là, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa.
2
3

Điều 1 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế
nguồn trích dẫn wikipedia.org

4


Khi đưa ra ngoài thị trường để trao đổi, mua bán thì giá trị của hàng hóa thể hiện

qua giá trị trao đổi hay giá cả của hàng hóa.
Hiện nay, cùng với sự thay đổi và phát triển nhận thức đối với đời sống kinh tế cách
hiểu hàng hóa của các các nhà kinh tế cổ điển đã khơng cịn phù hợp. Phạm trù hàng hóa
mất đi ranh giới của sự hiển hiện vật lý của vật thể và tiến sát đến gần phạm trù giá trị.
Tiền, cổ phiếu, quyền sở hữu nói chung, quyền sở hữu trí tuệ nói riêng, sức lao động…
được xem là hàng hóa trong khi chúng khơng nhất thiết có những tính chất trên.
Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, khái niệm hàng hóa được quy định
khác nhau tùy theo từng lĩnh vực. Luật Giao thơng đường bộ 2008, hàng hóa là máy móc,
thiết bị, nguyên vật liệu, nhiên liệu, hàng tiêu dùng, động vật sống và các động sản khác
được vận chuyển bằng phương tiện giao thông đường bộ. Luật giá 2013, hàng hóa là tài
sản có thể trao đổi, mua, bán trên thị trường, có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con
người, bao gồm các loại động sản và bất động sản. Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại
2005 định nghĩa hàng hóa là bao gồm tất cả các loại động sản kể cả động sản hình thành
trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai.
Như vậy, trong từng thời kì, hàng hóa đều là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị
sử dụng và giá trị. Theo từng văn bản quy định thì hàng hóa sẽ được khái niệm phù hợp
với mảng quản lý của mình. Hàng hóa là đối tượng của quan hệ mua bán có thể tồn tại
hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai và được phép lưu thơng. Khơng thuộc danh mục
hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện theo
quy định tại Văn bản hợp nhất số 19/VBHN-BCT ngày 09 tháng 03 năm 2014. Nếu hàng
hóa đó thuộc danh mục hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì phải tn
theo đầy đủ các quy định của pháp luật về mua bán các loại hàng đó.
Khái niệm về hợp đồng theo quy định của các quốc gia:
Bộ luật Dân sự Qué bec (Canada) quy định tại Điều 1378 Chương II, Mục 1, Quyển
5 về các nghĩa vụ dân sự: “Hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí về việc một hoặc một số
người nhận thực hiện nghĩa vụ đối với một hoặc một số người khác”.
Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ Điều 1201 quy định: “Hợp đồng là tổng
hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ sự “thỏa thuận” của các bên…”
Luật Hợp đồng Trung Quốc 1999, Điều 2 quy định: “Hợp đồng theo quy định của
luật này là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của

các chủ thể bình đẳng tự nhiên, các tổ chức khác.”
Bộ luật Dân sự Nga 1994 khoản 1 Điều 420 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận
giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Ở Việt Nam, có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng để chỉ về hợp đồng như:
khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, chấp thuận… Sau này, các văn bản hiện hàng của
nước ta khơng cịn sử dụng thuật ngữ “khế ước” như trước mà thay vào đó là hợp đồng
dân sự, hợp đồng lao động, hợp đồng thương mại. Đây là điểm khác biệt với pháp luật
nhiều nước vì họ chỉ sử dụng thuật ngữ “hợp đồng” nói chung chứ khơng dùng các thuật
ngữ chỉ cụ thể các loại hợp đồng.
5


Khác với BLDS 2005, khái niệm về hợp đồng dân sự thì Điều 385 BLDS 2015 quy
định hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền
và nghĩa vụ giữa các bên tham gia thỏa thuận.
Như vậy, pháp luật của các nước quy định về hợp đồng đều có điểm chung là sự
thỏa thuận giữa các chủ thể, hay nói cách khác là sự thống nhất ý chí của các bên. Định
nghĩa hợp đồng của BLDS 2015 Việt Nam có thể nói có nhiều điểm giống BLDS Nga và
Trung Quốc nhưng thể hiện tính ngắn gọn, xúc tích và đầy đủ. Tuy nhiên, nếu như các
nước Việt Nam, Nga, Trung Quốc nêu rõ là “Hợp đồng dân sự” thì pháp luật các nước
Hoa Kỳ, Pháp chỉ định nghĩa “hợp đồng” mà không nêu là hợp đồng gì mặc dù quy định,
định nghĩa về hợp đồng được đưa ra trong BLDS. Phải chăng, nội hàm của khái niệm hợp
đồng đã cho thấy, bản chất dân sự mà không cần ghi đầy đủ là “hợp đồng dân sự”?4
Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo Khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại 2005, mua bán hàng hóa là hoạt động
thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho
bên mua và nhận thanh tốn; bên mua có nghĩa vụ thanh tốn cho bên bán nhận hàng và
chuyển quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận 5.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một phương tiện quan trọng phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng cũng như sản xuất kinh doanh, trao đổi vật tư, sản phẩm giữa các chủ thể thuộc

các thành phần kinh tế khác nhau.
LTM 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa, song có thể
xác định bản chất pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại trên cơ sở
quy định của BLDS về hợp đồng mua bán tài sản. Theo quy định của Điều 430 BLDS
2015 về hợp đồng mua bán tài sản thì: “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa
các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền
cho bên bán…”. Hợp đồng mua bán hàng hóa là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán
tài sản. Bất cứ khi nào, một người mua hàng hóa bằng tiền hoặc hình thức thanh tốn
khác và nhận quyền sở hữu hàng hóa thì khi đó hình thành nên quan hệ hợp đồng mua
bán hàng hóa.
Tóm lại, HĐMBHH có thể hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán
chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán.
HĐMBHH có bản chất chung của hợp đồng, được xác lập giữa các bên, thỏa mãn
về hình thức theo quy định tại Khoản 1 Điều 24 LTM 2005, đối tượng của HĐMBHH là
hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật. Điểm phân biệt giữa
HĐMBHH và hợp đồng mua bán tài sản khác là: đối tượng hàng hóa và mục đích sinh
lời.

4

/>5
Khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại 2005

6


b. Đặc điểm
Hợp đồng mua bán hàng hóa cũng có những đặc điểm chung của hợp đồng mua bán
tài sản trong dân sự như:
- Là hợp đồng ưng thuận, được giao kết tại thời điểm các bên thỏa thuận xong các

điều khoản cơ bản, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không phụ thuộc vào thời điểm
bàn giao hàng hóa, việc bàn giao hàng hóa chỉ được coi là hành động của bên bán nhằm
thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng mua bán đã có hiệu lực.
- Có tính đền bù, bên bán khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua thì sẽ
nhận từ bên mua một lợi ích tương đương với giá trị hàng hóa theo thỏa thuận dưới dạng
khoản tiền thanh toán.
- Là hợp đồng song vụ, mỗi bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa đều bị ràng buộc
bởi nghĩa vụ đối với bên kia, đồng thời cũng là bên có quyền yêu cầu bên kia thực hiện
nghĩa vụ đối với mình. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa tồn tại hai nghĩa vụ chính
mang tính chất qua lại và liên quan mật thiết với nhau: nghĩa vụ của bên bán phải bàn
giao hàng hóa cho bên mua và nghĩa vụ của bên mua phải thanh toán cho bên bán.
Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hóa, hợp đồng mua bán
hàng hóa được thực hiện nhằm mục đích sinh lợi của thương nhân. Vậy nên, hợp đồng
mua bán hàng hóa có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, về chủ thể. Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể
chủ yếu là thương nhân (Khoản 1 Điều 6 LTM 2005) hoặc giữa thương nhân với các chủ
thể khác có nhu cầu về hàng hóa (Khoản 3 Điều 1 LTM 2005). Các chủ thể khơng phải là
thương nhân và khơng nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ mua bán hàng hóa phải
tuân theo LTM khi chủ thể này lựa chọn áp dụng.
Thứ hai, về hình thức. Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thực hiện bằng hình
thức lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp nhất định pháp luật bắt buộc phải giao kết hợp đồng bằng hình
thức văn bản. Ví dụ như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được thể hiện trên cơ
sở bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương như điện báo,
telex, fax…
Thứ ba, về đối tượng. Hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa. Theo
LTM 2005, hàng hóa là đối tượng của quan hệ mua bán hàng hóa có thể là động sản hoặc
bất động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai 6.
Đối tượng mua bán hàng hóa trong pháp luật các nước và trong nhiều Điều ước
quốc tế như Hiệp định GATT, Hiệp định thành lập khối thị trường chung châu Âu, hàng

hóa là tài sản có hai thuộc tính cơ bản: có thể đưa vào lưu thơng và có tính chất thương
mại. Theo pháp luật Hoa Kỳ, hàng hóa bao gồm mọi thứ có thể dịch chuyển quyền sở
hữu được vào thời gian xác định theo hợp đồng mua bán hàng hóa; hàng hóa có thể đã có
ở hiện tại hoặc sẽ có trong tương lai.

6

Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại 2005

7


Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hàng hóa khơng thuộc danh mục hàng hóa,
dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện theo quy định tại
Văn bản hợp nhất số 19/VBHN-BCT. Nếu hàng hóa đó thuộc danh mục hạn chế kinh
doanh hoặc kinh doanh có điều kiện thì phải tn theo đầy đủ các quy định của pháp luật
về mua bán các loại hàng đó. Cịn hàng hóa mua bán quốc tế phải khơng thuộc danh mục
hàng hóa cấm xuất nhẩu, cấm nhập khẩu 7.
Về mục đích, hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là kinh doanh thu lợi nhuận cho
các thương nhân, chỉ phần nào đó phục vụ mục đích tiêu dùng và các mục đích khác cho
cả thương nhân và những chủ thể không phải thương nhân, tùy theo mong muốn và nhu
cầu của họ trong từng thời điểm.
1.1.3. Phân loại hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo LTM 2005 căn cứ vào phạm vi của hợp đồng có thể chia ra làm ba loại:
Một là, hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước. Đây là hợp đồng mà các bên chủ
thể của hợp đồng thực hiện các giao dịch về mua bán hàng hóa với nhau trên lãnh thổ
Việt Nam. Đối với loại hợp đồng này sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, cụ
thể là LTM 2005 và các luật chuyên ngành khác.
Hai là, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Là loại hợp đồng có thêm yếu tố quốc
tế, vượt qua khỏi phạm vi của một quốc gia. Theo Điều 27 LTM 2005 mua bán hàng hóa

quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm
xuất, tái nhập và chuyển khẩu. Do vậy, pháp luật điều chỉnh loại hợp đồng này tương đối
phức tạp, bao gồm các điều ước quốc tế về mua bán hàng hóa quốc tế, các tập quán quốc
tế về thương mại và pháp luật của các quốc gia. Các bên có thể thỏa thuận áp dụng luật
Việt Nam hay luật của bên đối tác hay cũng có thể là luật của một nước thứ ba.
Ba là, hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết thơng qua Sở giao dịch hàng hóa.
Đây là quy định mới được bổ sung tại LTM 2005, là một hoạt động phổ biến trong thực
tiễn thương mại quốc tế nhằm bảo hiểm các rủi ro do việc biến động giá cả trên thị
trường.
Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương mại, các bên
thỏa thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hóa, tuân theo
những tiêu chuẩn, giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao
hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai theo Điều 63 LTM 2005.
Theo Điều 64 LTM 2005, hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa
bao gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn. Hàng hóa mua bán thông qua Sở
giao dịch phải thuộc danh mục hàng hóa do Bộ trưởng Bộ thương mại quyết định. Theo
Điều 69 LTM 2005, thương nhân môi giới mua bán qua sở giao dịch chỉ được phép hoạt
động tại Sở giao dịch hàng hóa khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật;
thương nhân mua bán qua Sở giao dịch chỉ được phép thực hiện hoạt động mơi giới mua
bán hàng hóa và khơng dược phép là một bên của hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở

7

Văn bản hợp nhất số 19/VBHN-BTC ngày 09 tháng 03 năm 2014

8


giao dịch hàng hóa. Các hành vi bị cấm đối với thương nhân mơi giới hàng hóa qua Sở
giao dịch hàng hóa được quy định tại Điều 70 LTM 2005:

- Lôi kéo khách hàng ký kết hợp đồng bằng cách hứa bồi thường toàn bộ hoặc một
phần thiệt hại phát sinh hoặc đảm bảo lợi nhuận cho khách hàng.
- Lôi kéo khách hàng ký kết hợp đồng bằng cách hứa bồi thường toàn bộ hoặc một
phần thiệt hại phát sinh hoặc đảm bảo lợi nhuận cho khách hàng.
- Chào hàng hoặc mua giới mà khơng có hợp đồng với khách hàng.
- Sử dụng giá giả tạo hoặc các biện pháp gian lận khác khi môi giới cho khách hàng.
- Từ chối hoặc tiến hành chậm trễ một cách bất hợp lý việc môi giới các nội dung đã
thỏa thuận với khách hàng.
1.1.4. Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa
HĐMBHH đóng vai trị quan trọng trong đời sống hằng ngày của xã hội, đặc biệt nó
đóng một vai trị nhất định đối với các doanh nghiệp, là cơ sở pháp lý để doanh nghiệp
thực hiện các hoạt động mua bán với khách hàng, thực hiện hoạt động kinh doanh của
mình. Thơng qua hợp đồng, các doanh nghiệp bước vào một thỏa thuận với các đối tác
của mình thơng qua niềm tin mà chúng ta gọi là luật để đảm bảo những thỏa thuận cung
cấp hàng hóa, dịch vụ đó sẽ được thực hiện.
HĐMBHH sẽ bao gồm cả một quá trình đàm phán liên quan đến nhiều điều khoản
mà các bên phải tính đến. Hợp đồng có giá trị pháp lý như luật (contract = law) là công
thức để giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở bảo vệ các lợi ích hợp pháp của mình khi có
tranh chấp xảy ra. HĐMBHH sẽ giúp cho các bên xác định được ai sẽ có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp phát sinh. Các cơ quan giải quyết tranh chấp Tòa án hay Trọng tài sẽ
căn cứ vào hợp đồng để làm bằng chứng về sự thỏa thuận và cam kết giữa các bên để giải
quyết những phát sinh xảy ra. Vì vậy, HĐMBHH vơ cùng quan trọng để qua đó cơ quan
giải quyết tranh chấp sẽ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các doanh nghiệp.
HĐMBHH là cơng cụ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trong hoạt động
kinh doanh. Tài chính là một trong những yếu tố quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh
của doanh nghiệp. Thông qua hợp đồng, các doanh nghiệp sẽ xác định được chi phí, giá
cả theo một thời gian nhất định trong quá trình hợp tác kinh doanh, tránh được những rủi
ro tiềm ẩn trong việc tăng chi phí khi hoạt động. Từ đó giúp cho doanh nghiệp xây dựng
được kế hoạch tài chính chủ động trong việc thực hiện chiến lược cạnh tranh tổng quát
của doanh nghiệp.

HĐMBH cũng là công cụ hữu hiệu để doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị
trường nước ngoài. Cùng xu hướng phát triển của nền kinh tế đặc biệt là trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế như hiện nay hoạt động kinh doanh khơng chỉ gói gọn trong phạm vi
lãnh thổ một quốc gia mà được mở rộng sang thị trường quốc tế. Đây là cơ hội cho các
doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận mở rộng thị trường cung cấp dịch vụ của mình. Thâm
nhập thị trường dịch vụ nước ngồi khơng phải là điều dễ làm khi ở một môi trường mới
khác biệt về văn hóa, pháp luật, chính trị.

9


1.2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TẠI VIỆT
NAM
1.2.1. Hệ thống các văn bản pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
Năm 1954, miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng và cải tạo XHCN nền kinh tế hóa
tập trung và chủ yếu là nơng nghiệp. Đứng trước những khó khăn do thiệt hại chiến tranh
gây ra mục tiêu của Đảng và Nhà nước trước hết là khôi phục lại cuộc sống ổn định cho
nhân dân. Trên định hướng đó năm 1956, Nhà nước đã ban hành điều lệ tạm thời số
735/TTg về chế độ hợp đồng đăng ký kinh doanh. Văn bản này có tên gọi là “Hợp đồng
kinh doanh” để điều chỉnh quan hệ giữa hai hay nhiều chủ thể cam kết tự nguyện thực
hiện theo kế hoạch của nhà nước nhằm phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong thời kỳ này, các doanh nghiệp đa phần là doanh nghiệp nhà nước, hoạt động
và thực hiện đều theo những chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao cho. Để phục vụ cho việc
thực hiện hồn thành các chỉ tiêu đó Nhà nước ban hành những văn bản pháp luật nhằm
điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện pháp luật.
Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 04/TTg
4/1/1960 nhằm quy định một kiểu hợp đồng mới, hợp đồng được ký kết trên cơ sở kế
hoạch của Nhà nước và nhằm thực hiện kế hoạch của Nhà nước đồng thời thực hiện các
nguyên tắc của chế độ hạch toán kinh tế.
Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 54/CP của Hội

đồng chính phủ ngày 10/3/1975 đánh dấu một bước phát triển mới, có thể nói đây là bản
điều lệ chính thức đầu tiên về chế độ hợp đồng kinh tế của nước ta và nó có hiệu lực thi
hành đến năm 1989. Để thực hiện nghị định này nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn
bản thực hiện hợp đồng kinh tế như: Quyết định số 113/TTg ngày 11/9/1965 và Chỉ thị
17/TTg ngày 20/1/1967 của Thủ tướng chính phủ.
Khi nền kinh tế bao cấp bắt đầu trở nên lạc hậu, các doanh nghiệp làm theo chỉ tiêu
Nhà nước trở nên lỗi thời khơng cịn phù hợp với thời kỳ mới. Trước thực tế này, tháng
12/1989, Đại hội thứ VI của Đảng đã quyết định đổi mới tồn diện, trong đó đổi mới nền
kinh tế là trọng tâm, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Đại hội đã quyết định chuyển nền kinh tế hóa tập trung và bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Hội đồng nhà nước lần lượt
thông qua các văn bản pháp lý mới là Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989, Nghị
định số 17/HĐBT ngày 16/1/1990, Quyết định số 18/HĐBT ngày 16/1/1990 và nhiều văn
bản khác hướng dẫn khác. Sau đó, Quốc hội thơng qua BLDS ngày 28/10/1995, LTM
ngày 10/5/1997.
Tuy nhiên, thực tế các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại áp dụng
pháp lệnh hợp đồng kinh tế vẫn là căn cứ chính. Do đó, dẫn đến tình trạng các quy định
chồng chéo, khơng thống nhất gây nhiều khó khăn trong q trình áp dụng nội dung của
các văn bản. Để giải quyết vấn đề này, đồng thời để đáp ứng nhu cầu hội nhập WTO,
BLDS 2005 và LTM 2005 ra đời với những quy định thống nhất đã đánh dấu bước phát
triển mới của hợp đồng. BLDS 2005 là nguồn luật chung để điều chỉnh hợp đồng nêu
10


nguyên tắc áp dụng chung về chủ thể, giao dịch dân sự, nghĩa vụ dân sự áp dụng các
quan hệ hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh doanh thương mại… Trên cơ sở những quy
định áp dụng chung thì có luật áp dụng riêng với từng lĩnh vực thương mại, lao động.
LTM được dùng trong các quan hệ hợp đồng hoạt động thương mại. Với
HĐMBHH, LTM đóng vai trị là luật riêng áp dụng, BLDS là luật chung áp dụng. Trình
tự áp dụng luật được tuân theo quy định chung, áp dụng luật riêng trước, nếu khơng có

những quy định có liên quan thì sẽ áp dụng đến luật chung tức là luật dân sự.
Nhưng sau hơn 10 năm áp dụng BLDS 2005 vẫn không thể đảm bảo được các yếu
tố trong nền kinh tế hiện nay. Để nhằm đáp ứng những yêu cầu mới Quốc hội đã ban
hành BLDS 2015 có hiệu lực thi hành 01/01/2017. Những quy định mới về hợp đồng
trong Bộ luật này phù hợp với thực tiễn áp dụng, mở rộng phạm vi điều chỉnh như hợp
đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp đồng đầu tư, hợp đồng kinh doanh bảo hiểm…
Là cơ sở giải quyết tranh chấp, tránh mâu thuẫn giữa các luật và ưu tiên áp dụng luật
chuyên ngành.
Hiện nay, các văn bản điều chỉnh về HĐMBHH chủ yếu là LTM 2005 và BLDS
2015. Ngồi ra cịn có Văn bản hợp nhất số 19/VBHN-BCT quy định về hàng hóa phải là
hàng hóa khơng thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh
và kinh doanh có điều kiện.
1.2.2. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
Chủ thể của các hoạt động thương mại nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa
nói riêng có thể giao kết giữa các thương nhân hoặc ít nhất một bên thương nhân cùng
hướng đến mục đích sinh lời.
Chủ thể là thương nhân, Điều 6 LTM quy định, thương nhân bao gồm tổ chức kinh
tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh. Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các
ngành nghề mà đã đăng ký trong giấy phép đăng ký kinh doanh đồng thời là những
ngành nghề không bị pháp luật cấm. Quyền hoạt động thương mại hợp pháp của thương
nhân được Nhà nước bảo hộ.
- Đối với cá nhân, để được thừa nhận là chủ thể của HĐMBHH, cá nhân phải đảm
bảo có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Đây cũng là một
trong các điều kiện của hợp đồng theo quy định tại Điều 120 BLDS 2015.
- Đối với tổ chức, việc xác định năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân
sự phụ thuộc vào việc tổ chức đó có được công nhận là pháp nhân hay không? Theo Điều
74 BLDS 2015 quy định, một tổ chức được công nhận là pháp nhân có đủ các điều kiện,
được thành lập theo quy định pháp luật; có cơ cấu tổ chức; có tài sản độc lập với cá
nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; nhân danh mình

tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Ngoài ra, việc xác định năng lực pháp luật
dân sự của một tổ chức liên quan đến nhiều văn bản pháp luật như bộ luật dân sự, luật
doanh nghiệp, luật ngân hàng nhà nước.

11


Năng lực pháp lý và năng lực hành vi của tổ chức phát sinh khi tổ chức đó được
thành lập và chấm dứt khi tổ chức đó bị giải thể, bị phá sản hoặc bị đình chỉ hoạt động.
Năng lực này sẽ được cụ thể hóa trong điều lệ hoạt động, phù hợp với quy định của pháp
luật.
Tuy nhiên, trong q trình mua bán hàng hóa các bên chủ thể khơng nhất thiết đều
là các thương nhân. Có thể là cá nhân, tổ chức, cơ quan có tư cách pháp nhân hoặc khơng
có tư cách pháp nhân, cũng có thể là hộ gia đình, tổ hợp tác mà khơng hoạt động thương
mại độc lập thường xuyên như một nghề. HĐMBHH có thể diễn ra trên lãnh thổ Việt
Nam hoặc ngồi lãnh thổ, vì vậy, chủ thể có thể là thương nhân nước ngoài.
1.2.3. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
a. Nguyên tắc giao kết
HĐMBHH là một loại văn bản có tính chất pháp lý được hình thành trên cơ sở thỏa
thuận bình đẳng, tự nguyện giữa các chủ thể, nhằm xác lập, thực hiện và chấm dứt một
quan hệ trao đổi hàng hóa. LTM 2005 quy định cụ thể tại Mục 2 của Luật này. Khi giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa, các chủ thể phải tuân theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động
thương mại. Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật
trong hoạt động thương mại. Quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân ngang nhau,
không phân biệt bất cứ thành phần kinh tế nào, địa vị xã hội, tiềm lực kinh tế hay nguồn
vốn.
Thứ hai, nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại. Các
bên có quyền tự do thỏa thuận khơng trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ
tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động

thương mại. Nhà nước tơn trọng và bảo hộ các quyền đó.
Thứ ba, nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập
giữa các bên. Trong hoạt động thương mại được thiết lập giữa các bên, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác, các bên được coi là mặc nhiên áp dụng thói quen trong hoạt động
thương mại đã được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã biết hoặc phải biết nhưng
không được trái với quy định của pháp luật.
Thứ tư, nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại. Trường hợp pháp
luật khơng có quy định, các bên khơng có thỏa thuận và khơng có thói quen đã được thiết
lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với những
nguyên tắc quy định trong Luật này và trong Bộ Luật dân sự.
Thứ năm, nguyên tắc bảo về lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Thương nhân
thực hiện hoạt động thương mại có nghĩa vụ thơng tin đầy đủ, trung thực cho người tiêu
dùng về hàng hóa và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính
xác của các thơng tin đó. Thương nhân thực hiện hoạt động thương mại phải chịu trách
nhiệm về chất lượng, tính hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh.
Thứ sáu, nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt
động thương mại. Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều
12


kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp
lý tương đương văn bản.
b. Đề nghị giao kết hợp đồng
Đề nghị giao kết hợp đồng là sự bày tỏ ý chí của một người về việc mong muốn
giao kết hợp đồng với một người khác trên một đối tượng và trong nhưng điều kiện đã
được người đề nghị xác định rõ. Đề nghị được gửi đến một người đối tác xác định cụ thể.
Hình thức đề nghị giao kết hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành thì khơng có quy định riêng. Vì vậy, việc đề nghị tuân thủ các quy định chung về
hình thức giao dịch, có thể được thực hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể. Trong trường hợp hợp đồng phải được giao kết theo một hình thức nhất định, thì

giao kết cũng có thể được ghi nhận dưới hình thức khác.
Tính chất của đề nghị giao kết hợp đồng là đề nghị giao kết hợp đồng sẽ trở thành
hợp đồng một khi người được đề nghị chấp nhận giao kết theo các điều kiện được đưa ra
trong đề nghị đó. Vì vậy, cần chú ý thực hiện đề nghị giao kết hợp đồng như sau:
Khi đề nghị giao kết hợp đồng phải chắc chắn, thể hiện ý chí dứt khoát của người đề
nghị. Hợp đồng sẽ phải được người đề nghị giao kết nếu lời đề nghị được chấp nhận.
Khơng có tính chất này, đề nghị giao kết hợp đồng chỉ là một lời mời thương lượng.
Đề nghị giao kết hợp đồng phải rõ ràng và đầy đủ, phải ghi nhận tất cả các nội dung
chủ yếu của hợp đồng để hợp đồng có thể được giao kết chỉ trên cơ sở tuyên bố chấp
nhận giao kết của người được đề nghị.
Hiệu lực của đề nghị giao kết trong thời gian chưa có sự chấp nhận đề nghị thì hợp
đồng chưa được giao kết. Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng là thời điểm pháp luật ghi
nhận sự hình thành quyền và nghĩa vụ của bên đề nghị và bên được đề nghị. Do đó, kể từ
thời điểm này bên đề nghị chịu sự ràng buộc pháp lý, chịu trách nhiệm về toàn bộ nội
dung của lời đề nghị, không được giao kết với người thứ ba… Theo quy định tại Điều
388 BLDS 2015, thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực được xác định trên các
cơ sở sau:
- Do bên đề nghị ấn định, đưa ra lời đề nghị, đồng thời pháp luật cho phép bên đề
nghị ấn định thời điểm có hiệu lực của lời đề nghị. Trường hợp này, hiệu lực của lời đề
nghị phụ thuộc vào ý chí của bên được đề nghị;
- Nếu bên đề nghị không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi
bên được đề nghị nhận được đề nghị đó, nếu luật khơng liên quan khơng có quy định
khác (luật liên quan ở đây có thể là Luật thương mại).
Ngồi ra, với sự phát triển phương tiện thơng tin và công nghệ kỹ thuật cao, đề nghị
giao kết hợp đồng có thể thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau, như:
- Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân, được
chuyển đến trụ sở nếu bên được đề nghị là pháp nhân;
- Đề nghị được đưa vào hệ thống thơng tin chính thức của bên được đề nghị;
- Khi bên được đề nghị, được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức
khác, như: thư điện tử, fax…

13


Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, trường hợp khơng ấn định thời
điểm có hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng thì đề nghị này có hiệu lực kể từ thời
điểm bên kia nhận được đề nghị.
BLDS 2015 Điều 392 quy định trường hợp người được đề nghị chấp nhận giao kết
hợp đồng, nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị, thì coi như người này đã đưa ra
đề nghị mới, có nghĩa rằng đề nghị được đưa ra trước khơng cịn hiệu lực.
c. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên
đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị.
Sự im lặng không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên. Khi hết thời hạn
trả lời mà các bên thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một
thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó theo
Khoản 2 Điều 400 BLDS 2015.
Hệ quả của việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cũng như việc đề nghị, không
ràng buộc người bày tỏ ý chí, chừng nào ý chí được bày tỏ chưa được thơng tin cho người
đối tác thì người chấp nhận đề nghị có quyền rút lại lời chấp nhận trong trường hợp
người đề nghị chưa nhận được lời chấp nhận. Nhưng khác với đề nghị, chấp nhận đề nghị
là một khi đã được người đề nghị tiếp nhận, sẽ không thể được rút lại hay thay đổi theo ý
chí đơn phương của người chấp nhận đề nghị, trừ trường hợp chấp nhận đề nghị được gửi
trễ hạn và trở thành một đề nghị mới (Điều 397 Khoản 1).
Sự chấp nhận đề nghị, được thông tin cho người đề nghị trong thời hạn trả lời có tác
dụng thiết lập sự ưng thuận của các bên về xác lập hợp đồng.
d. Thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng
- Thời điểm giao kết hợp đồng theo BLDS cũ chỉ nêu về trường hợp im lặng là giao
kết nếu trong hợp đồng các bên có thỏa thuận, khơng có quy định về thời hạn trả lời chấp
nhận giao kết hợp đồng. Theo Khoản 2 và Khoản 4 Điều 400 BLDS 2015 được sửa đổi,

quy định rõ hơn: “Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận
giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối
cùng của thời hạn đó”. Tại Khoản 4 Điều 400 BLDS 2015 cũng quy định cụ thể hơn so
với BLDS 2005: “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng
ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản”.
Mặt khác, theo khoản 3, 4 BLDS 2015: “Thời điểm giao kết bằng lời nói là thời
điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng” và “Trường hợp hợp đồng giao
kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng
được xác định theo khoản 3 Điều này”.
- Địa điểm giao kết hợp đồng được xác định theo Điều 399 BLDS 2015, là do sự
thỏa thuận của các bên, nếu khơng có thỏa thuận thì địa điểm giao kết là nơi cư trú của cá
nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng.

14


1.2.4. Hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo Điều 119 BLDS 2015 và Điều 24 LTM 2005, đều quy định hình thức
HĐMBHH được thể hiện bằng lời nói, văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
Trong một số trường hợp, HĐMBHH phải được thể hiện bằng văn bản có cơng chứng,
chứng thực.
Riêng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản hoặc hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Các hình thức có giá trị pháp lý tương đương
văn bản bao gồm: Điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (là thông tin được tạo ra, gửi
đi, nhận và lữu giữ bằng phương tiện điện tử) và các hình thức khác theo quy định của
pháp luật.
Giao kết hợp đồng bằng lời nói, đây là hình thức thể hiện hợp đồng có độ chính xác
thấp nhất. Các bên chỉ dùng lời nói để xác lập các thỏa thuận mà khơng có một bằng
chứng cụ thể nào có thể xác nhận được các thỏa thuận của họ. Trường hợp các bên sử
dụng hình thức hợp đồng bằng lời nói thường chủ yếu dựa trên uy tín và độ tin tưởng lẫn

nhau, các hợp đồng có giá trị nhỏ và các hợp đồng được chấm dứt ngay sau khi giao kết
và các thỏa thuận của hợp đồng được thực hiện xong, hai bên khơng cịn trách nhiệm với
nhau nữa.
Giao kết hợp đồng bằng văn bản là hình thức giao kết phổ biến nhất. Đây là hình
thức thể hiện hợp đồng mang tính pháp lý và chính xác cao. Các bên tham gia hợp đồng
cùng nhau ký kết xác lập một hợp đồng bằng văn bản, ghi đầy đủ các nội dung đã thỏa
thuận. Trong hợp đồng phải có đủ chữ kí của tất cả các bên, mỗi bên tham gia hợp đồng
sẽ được giữ một bản. Trường hợp thường được áp dụng hình thức hợp đồng này thường
các hợp đồng có giá trị lớn, quyền và nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng có thể diễn
ra trong một khoảng thời gian dài sau khi các bên tham gia giao kết hợp đồng và để đảm
bảo chắc chắn các bên sẽ thực hiện theo những gì đã được thỏa thuận trong hợp đồng.
Trong một số trường hợp hợp đồng giao kết bằng văn bản phải có cơng chứng,
chứng thực của Nhà nước thường là những hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra
tranh chấp, những tài sản mà nhà nước quản lý và kiểm soát và một số trường hợp mà các
bên tham gia hợp đồng muốn có sự chứng thực của nhà nước.
Ngồi những hình thức nêu trên, cịn có hình thức giao kết khác như một hành vi cụ
thể, khi chủ thể thực hiện một hành vi hay một vài hành vi thì coi như hợp đồng đã được
thỏa thuận và thực hiện.
BLDS 2015 đã bỏ quy định về việc hợp thức hóa hình thức giao dịch bao gồm hợp
đồng hay hành vi pháp lý đơn phương. Thay vào đó là một số quy định nhằm mục đích
cứu vãn giao dịch có nguy cơ vơ hiệu do khơng tuân thủ quy định hình thức. Quy định
mới của BLDS 2015 chính thức coi u cầu hợp đồng phải có một số nội dung bắt buộc
là một điều kiện về mặt hình thức. Trong đó được quy định tại Khoản 2 Điều 129 Bộ luật
này nên rõ “giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt
buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần
ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, tòa án ra quyết
15


định cơng nhận hiệu lực của giao dịch đó và trong trường hợp này, các bên không phải

thực hiện việc công chứng, chứng thực”.
1.2.5. Nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa gồm những điều khoản mà các bên tham
gia giao kết hợp đồng thỏa thuận xác lập nên sau khi đã tự do bàn bạc, thương lượng. Các
bên khi thỏa thuận về nội dung của hợp đồng phải đảm bảo là những nội dung hợp pháp
với các điều khoản rõ ràng cụ thể có tính hiện thực cao.
Nội dung của hợp đồng có thể chia thành ba loại điều khoản với những ý nghĩa khác
nhau: điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ và điều khoản tùy nghi.
Điều khoản chủ yếu là điều khoản nêu lên những quyền và nghĩa vụ chủ yếu của
các bên, làm cơ sở cho việc thực hiện, nếu thiếu nó thì quan hệ hợp đồng chưa được coi
là đã được xác lập.
Điều khoản thường lệ là điều khoản đã được quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật. Dù các điều khoản này không được ghi vào hợp đồng nhưng các bên mặc
nhiên thừa nhận và phải thực hiện đúng như pháp luật quy định.
Điều khoản tùy nghi là những điều khoản được đưa vào hợp đồng theo sự thỏa
thuận của các bên, căn cứ vào khả năng, nhu cầu của các bên để xác định thêm một số
điều khoản khác. Trong khuôn khổ của pháp luật, các bên có quyền lựa chọn và thỏa
thuận về những hành vi cụ thể. Điều đó làm cho nội dung của hợp đồng được rõ ràng, cụ
thể, tạo điều kiện cho việc thực hiện hợp đồng nhanh chóng, tránh sự hiểu lầm trong quan
hệ hợp đồng.
Theo Điều 402 BLDS 2015 HĐMBHH cần đảm bảo đầy đủ nội dung cơ bản như
sau:
- Tên hàng;
- Số lượng, chất lượng;
- Giá cả, phương thức thanh toán;
- Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
- Quyền, nghĩa vụ của các bên;
- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
- Phạt vi phạm hợp đồng;
- Các nội dung khác.

Trong hợp đồng còn có thể có phụ lục hợp đồng quy định tại Điều 403 BLDS 2015.
Ngồi ra, HĐMBHH cịn phải có thêm những điều khoản để đảm bảo quyền lợi cho các
bên khơng có chung một hệ thống pháp luật đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế như điều khoản về chọn Luật áp dụng hay cơ quan và nơi giải quyết tranh chấp.
1.2.6. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa và giải quyết tranh
chấp
a. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng nên nó có những đặc điểm chung sau:
16


- Được áp dụng chỉ khi có vi phạm pháp luật và chỉ đối với chủ thể có hành vi đó;
- Là biện pháp cưỡng chế của nhà nước đối với hành vi vi phạm và do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng;
- Bao giờ cũng là hệ quả bất lợi cho nên có hành vi vi phạm pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa cịn có đặc điểm riêng
sau:
- Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐMBHH luôn liên quan đến tài sản.
- Vì lợi ích của mình mà các bên tự nguyện quyết định tham gia vào quan hệ hợp
đồng cho nên việc vi phạm nghĩa vụ của một bên sẽ tác động trực tiếp đến lợi ích vật chất
của bên kia. Vì vậy bên vi phạm phải bù đắp những lợi ích vật chất cho bên bị vi phạm. 8
Chế tài trong trường hợp vi phạm hợp đồng
Khi vi phạm hợp đồng trong hoạt động mua bán hàng hóa, bên vi phạm phải chịu
trách nhiệm trước bên bị vi phạm thơng qua các hình thức trách nhiệm gọi là chế tài.
Theo pháp luật thương mại Việt Nam, các chế tài thương mại được hiểu là những biện
pháp pháp lý mang tính tài sản do bên bị vi phạm lựa chọn để áp dụng đối với bên vi
phạm nhằm mục đích ngăn ngừa, trừng trị và giáo dục. Các chế tài thương mại được áp
dụng để khôi phục về mặt vật chất cho bên bị vi phạm hoặc để ngăn ngừa thiệt hại hay có
ý nghĩa trừng phạt về mặt vật chất đối với bên vi phạm hợp đồng. Do đó, các chế tài này

được các bên áp dụng cho các vi phạm xuất hiện từ lúc ký kết, thực hiện và chấm dứt hợp
đồng.
Việc lựa chọn hình thức trách nhiệm là khi có vi phạm hợp đồng, do bên bị vi phạm
ấn định hoặc do các bên đã thỏa thuận sẵn trong hợp đồng. Các chế tài thương mại này
được bên bị vi phạm trực tiếp áp dụng đối với bên vi phạm hoặc thông qua cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
BLDS 2015 quy định các chế tài phạt vi phạm hợp đồng: Phạt vi phạm (Điều 418);
Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng (Điều 419); Hủy bỏ hợp đồng (Điều 423) và
Đơn phương chấm dứt hợp đồng (Điều 428).
Tùy thuộc vào các vi phạm và các quy định khác nhau trong hợp đồng mà các chế
tài khác nhau được áp dụng. LTM 2005 quy định cụ thể tại Mục 1 Chương IV về các chế
tài áp dụng cho việc vi phạm hợp đồng trong mua bán hàng hóa và quy định cụ thể tại
Điều 292: Buộc thực hiện đúng hợp đồng; Phạt vi phạm; Buộc bồi thường thiệt hại; Tạm
ngừng thực hiện hợp đồng; Đình chỉ thực hiện hợp đồng; Hủy bỏ hợp đồng và Các biện
pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập
quán thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, ở mỗi chế tài giữa BLDS 2015 và LTM 2005 lại có sự khác nhau:

8

/>
17


Đối với chế tài phạt vi phạm
Đều là sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng, bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp
một khoản tiền cho bên bị vi phạm hoặc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một
khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng. Nhưng LTM lại có quy định trường hợp được
miễn trừ trách nhiệm theo Điều 294.

Mức phạt vi phạm là do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp liên quan có quy định
khác căn cứ theo BLDS 2015, còn theo Điều 301 LTM 2005 cũng do các bên thỏa thuận
nhưng không được vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường
hợp quy định tại Điều 266 Luật này.
Đối với chế tài bồi thường thiệt hại
Về khái niệm thì đều là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi
phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
Theo BLDS, giá trị bồi thường thiệt hại là lợi ích mà lẽ ra bên bị vi phạm được
hưởng do hợp đồng mang lại và chi phí phát sinh so khơng hồn thành nghĩa vụ hợp
đồng. Cịn LTM thì bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu
do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu
khơng có hành vi vi phạm.
Mối quan hệ giữa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại
Theo BLDS 2015 thì các bên có thể thỏa thuận việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải
chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm
và vừa phải bồi thường thiệt hại. Nghĩa là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại không mặc nhiên
thực hiện nếu khơng có thỏa thuận.
LTM 2005 quy định các bên khơng có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm
chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.
Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên vi phạm có quyền áp dụng cả chế
tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp luật có quy định khác. Như
vậy, LTM 2005 quy định nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mặc nhiên thực hiện dù khơng có
thỏa thuận, chỉ trừ trường hợp Luật có quy định khác.
Đối với chế tài hủy bỏ hợp đồng
Theo BLDS 2015, hủy bỏ hợp đồng trong các trường hợp sau sẽ không phải bồi
thường thiệt hại: Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa
thuận; Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng; Trường hợp khác do luật quy
định. Nghĩa là vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng các nghĩa vụ của một
bên đến mức làm cho bên kia khơng đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Việc
hủy bỏ phải thông báo ngay cho bên kia biết, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì

phải bồi thường.
Theo LTM 2005, hủy bỏ hợp đồng được thực hiện trong các trường hợp: Xảy ra
hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng và một bên vi
phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Như vậy, LTM 2005, phát sinh nghĩa vụ bổi thường
thiệt hại khi có thiệt hại xảy ra do vi phạm hợp đồng.
18


b. Giải quyết tranh chấp
Theo Điều 317 LTM 2005 quy định về hình thức giải quyết tranh chấp về hợp đồng
bao gồm thương lượng giữa các bên, hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc
cá nhân được các bên thảo thuận chọn làm trung gian hòa giải và giải quyết tại Trọng tài
hoặc Tòa án. BLDS 2015 cũng quy định hình thức giải quyết tranh chấp về hợp đồng
tương tự như LTM nhưng trừ phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
Thương lượng là phương thức giải quyết đầu tiên trong quá trình giải quyết tranh
chấp, thể hiện ở việc các bên trong tranh chấp chủ động gặp gỡ, bàn bạc, thỏa thuận về
quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mỗi bên. Pháp luật không quy định bắt buộc các bên
tiến hành thương lượng do đó sự gặp gỡ giữa các bên, quyền lợi cũng như nghĩa vụ, kết
quả thương lượng khơng có sự điều chỉnh của pháp luật. Tất cả phụ thuộc và thiện chí tự
giải quyết của các bên.
Trường hợp đạt được thỏa thuận trong thương lương, nhưng có một trong các bên
khơng tn thủ thì các bên cũng khơng thể u cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực
hiện cưỡng chế. Đây là phương thức được các chủ thể ưu tiên chọn lựa ngay khi xảy ra
tranh chấp, vì phương thức này không chịu sự điều chỉnh của pháp luật, không bị gị bó
bởi các quy định, cũng như khơng tốn kém tiền bạc.
Hòa giải là việc các bên tiến hành thương lượng giải quyết tranh chấp với sự hỗ trợ
của bên thứ ba là hòa giải viên. Phương thức hòa giải cũng là một phương thức giải quyết
tranh chấp không chịu sự điều chỉnh của pháp luật, được thực hiện hồn tồn dựa trên
thiện chí của các bên. Các bên được thỏa thuận lựa chọn ra một bên trung gian, độc lập,
có kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng giải quyết tranh chấp để đưa ra lời khuyên về

quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên, ý kiến của hịa giải viên chỉ mang tính chất
tham khảo. Kết quả của phiên hòa giải là sự thỏa thuận của các bên, khơng phải của hịa
giải viên.
Đây cũng là phương thức các bên ưu tiên lựa chọn vì thủ tục nhanh gọn, chi phí
thấp, các bên có quyền định đoạt, không làm ảnh hưởng đến mối quan hệ hợp tác giữa
các bên, uy tín, bí mật kinh doanh được giữ kín.
Trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp khơng thể thiếu trong q trình
phát triển của quan hệ kinh tế và được các chủ thể ưa chuộng. Phương thức này do chính
các bên trong tranh chấp thỏa thuận lựa chọn, nhưng sẽ được tiến hành theo quy trình
pháp luật quy định. Phương thức trọng tài sẽ có một hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên
với tư cách là một bên trung gian, độc lập nhằm giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp
bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.
Đây là nguyên tắc có sự linh hoạt, tạo quyền chủ động cho các bên, nhanh chóng,
tiết kiệm thời gian, rút ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí mật. Phán quyết của
trọng tài có tính chung thẩm, ưu thế vượt trội so với hình thức giải quyết tranh chấp bằng
thương lượng, hòa giải. Sau khi trọng tài đưa ra phán quyết thì các bên khơng có quyền
kháng cáo bất kỳ một tổ chức hay tòa án nào. Đồng thời phán quyết của trọng tài có tính
19


×