Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Vẫn đề đô thị trong tiểu thuyết việt nam sau 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.62 KB, 87 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

THÁI THỊ HỒNG VINH

VẤN ĐỀ ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT
NAM SAU 1986

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS ĐINH TRÍ DŨNG


2

Vinh - 2010
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................7
4. Phạm vi tư liệu khảo sát .............................................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 7
6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................7


CHƯƠNG 1 ....................................................................................................8
CUỘC SỐNG ĐÔ THỊ - VẤN ĐỀ ĐƯỢC QUAN TÂM ĐẶC BIỆT TRONG TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986 .........................................8
1. Khái niệm đô thị .........................................................................................8
2. Bối cảnh lịch sử và sự thay đổi tư duy, cảm hứng trong văn học ............11
1.2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội ....................................................................11
1.2.2. Sự chuyển đổi tư duy, cảm hứng trong văn học ................................13
1.3. Cuộc sống đô thị - đề tài được nhiều nhà văn quan tâm .......................23
1.3.1. Nguyên nhân của sự quan tâm chú ý đến vấn đề đơ thị .....................23
1.3.2. Cái nhìn chung về vấn đề - đề tài đô thị trong tiểu thuyết .................26
CHƯƠNG 2 .................................................................................................29
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA CUỘC SỐNG ĐÔ THỊ ĐƯỢC ĐẶT RA TRONG TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986 .....................................................29
2.1. Đô thị - nơi thể hiện sự văn minh của cuộc sống hiện đại ....................29


3

2.1.1. Ánh sáng của nền văn minh, hiện đại .................................................29
2.1.2. Đô thị với ước vọng đổi thay cuộc đời ...............................................35
2.2. Đô thị nơi thể hiện mặt trái của xã hội hiện đại ....................................42
2.2.2. Đô thị - môi trường con người dễ tha hố ..........................................50
2.2.2.1. Con người mất nhân tính, chạy theo vật chất ..................................50
2.2.2.2. Con người vô cảm, thờ ơ, lạc lõng ..................................................58
CHƯƠNG 3 ..................................................................................................62
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ HÌNH THỨC THỂ HIỆN VẤN ĐỀ ĐÔ THỊ TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986 ......................................62
3.1. Không gian thành thị .............................................................................62
3.1.1. Không gian xã hội thành thị ...............................................................62
3.1.2. Khơng gian gia đình thành thị ............................................................68

3.2. Thế giới nhân vật ...................................................................................71
3.2.1. Nhân vật dân nghèo thành thị .............................................................72
3.2.2. Nhân vật tri thức, công chức ..............................................................74
3.2.3. Nhân vật có chức, có quyền ...............................................................78
3.3. Ngơn từ .................................................................................................80
3.3.1. Lớp từ đô thị .......................................................................................81
3.3.2. Lớp từ tiếng lóng, tiếng đệm (nước ngồi) ........................................83
KẾT LUẬN ..................................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................90


4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong lịch sử phát triển của văn học nhân loại, ở mỗi thời đại nhà văn
thường xuyên xem xét lại những vấn đề xuất phát từ u cầu của thời đại mình, lí
giải chúng theo quy luật phát triển của cuộc sống. Do đó, hầu như những cái là ổn
định đối với thời đại trước thì đối với thời đại này lại có những vấn đề để mà bàn
luận hay chí ít cũng được nhìn nhận lại một cách sâu sắc tồn diện và đúng đắn hơn.
Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới cũng khơng nằm ngồi quy luật ấy. Đặc biệt là từ
sau đại hội VI của Đảng (1986), đất nước ta chính thức bước sang một giai đoạn mới
trên tất cả lĩnh vực. Chưa bao giờ con người và đời sống hiện thực được phản ánh đa
chiều như thế trong văn học. Đề tài chiến tranh và cách mạng dần dần nhường chỗ
cho đề tài đạo đức, thế sự và đời tư. Văn học thời kỳ này đã phát huy được khả năng
tiếp cận và phản ánh được hiện thực của con người trong giai đoạn mới một cách
nhanh nhạy và sắc bén.
1.2. Văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết có một vị trí vơ cùng quan trọng trong nền
văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Khơng thể hình dung được diện mạo của nền văn
học thời kì này nếu “lãng quên” tiểu thuyết. Cùng với các thể loại khác, tiểu thuyết

đã có những cách tân và thu được nhiều thành tựu đáng kể về nội dung lẫn hình thức
biểu hiện. Tiểu thuyết, với những ưu thế riêng, là thể loại văn xuôi nghệ thuật đáp
ứng nhanh và đa dạng những yêu cầu mới mẻ, phong phú của đời sống xã hội Việt
Nam sau đổi mới. Trong đó, một vấn đề nổi cộm của hiện thực xã hội lúc này chính
là vấn đề đơ thị. Là nơi đón nhận trực tiếp và mạnh mẽ cơn lốc của nền kinh tế thị


5

trường, đô thị đã trở thành bức tranh sinh động thể hiện những mảng màu pha tạp
của cuộc sống sau đổi mới. Như vậy, nghiên cứu vấn đề cuộc sống đô thị trong tiểu
thuyết sau đổi mới sẽ giúp chúng ta nhìn nhận được rõ hơn đặc điểm của tiểu thuyết
nói riêng và diện mạo của văn xi nói chung trong thời kỳ này.
1.3. Hiện nay, chương trình Ngữ văn trong nhà trường có sự góp mặt của nhiều
tác giả và tác phẩm văn học Việt Nam sau 1986. Việc nghiên cứu vấn đề đô thị
trong tiểu thuyết Việt Nam sau đổi mới sẽ đem đến những cái nhìn sâu hơn về vấn
đề cuộc sống, con người và một số vấn đề về hình thức nghệ thuật của văn xi sau
đổi mới. Từ đó, chúng tơi hi vọng góp phần vào việc tìm hiểu và giảng dạy tốt hơn
văn học, đặc biệt là tiểu thuyết giai đoạn sau 1986 trong nhà trường.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết Việt Nam sau đổi mới là hết
sức rộng rãi. Vấn đề cuộc sống đô thị là đề tài mới, xoay quanh cuộc sống con người
và những vấn đề nhức nhối của xã hội, gây được sự chú ý đối với độc giả và giới
nghiên cứu. Những tài liệu chúng tôi tập hợp được dưới đây chỉ là một phần nhỏ
trong số lượng lớn các công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, chúng tơi đã lựa chọn
những tài liệu cần thiết, có liên quan ít nhiều đến vấn đề của luận văn. Có thể kể tên
một số cơng trình, bài viết sau:
- Văn xi gần đây và quan niệm con người, Bùi Việt Thắng, Tạp chí văn học
số 6 – 1991.
- Dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam sau 1986, Phùng Gia Thế,

vannghechunhat.net
- Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và thi pháp hậu hiện đại, Phùng Gia Thế,
evan.com
- Cảm hứng phê phán trong truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến 2000, Luận văn
Thạc sĩ Ngữ văn, Trương Thị Chính.
- Một số đặc điểm của văn xuôi Việt Nam sau 1985 (Qua những truyện ngắn và
tiểu thuyết tiêu biểu), Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Lê Thị Hằng.


6

Trong các cơng trình trên, chúng tơi thấy có một số luận điểm đáng chú ý, ít
nhiều liên quan đến vấn đề đô thị như sau:
Phùng Gia Thế trong Dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam sau 1986
đã đưa ra cách nhìn mới về “hậu hiện đại”, trong đó nổi bật nhất là “cảm quan hậu
hiện đại”. Thời đại lịch sử - xã hội cụ thể hiển nhiên sẽ làm nảy sinh trong nó những
kiểu tâm trạng xã hội tương ứng. Vậy, thế nào là “cảm quan hậu hiện đại”? Có thể
nói vắn tắt, đó là một kiểu cảm nhận đời sống đặc thù thể hiện trạng thái tinh thần
của thời đại: nhận thấy sự đổ vỡ của đại tự sự, của những trật tự đời sống, tính áp đặt
của cái chính thống, của các phát ngơn lớn, sự đảo lộn trong các thang bảng giá trị
đời sống, sự mất niềm tin, bơ vơ, lạc loài, vong thân, tâm trạng hồ nghi tồn tại và
tình trạng bất an của con người... Đấy là tinh thần chung nhất. Còn sự thể hiện
chúng trong văn chương lại khá đa dạng, phức tạp. Có thể lấy một số ví dụ trong văn
xuôi ở nước ta gần đây. Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương ám ảnh bởi sự khủng
hoảng niềm tin của con người, của nhà văn vào con người và cuộc đời, sự đổ vỡ của
những trật tự đời sống xã hội và gia đình, sự ngắc ngoải ngưng đọng của đời sống,
sự đánh mất bản ngã, phương hướng, sự băng hoại đạo đức, sự đau đớn bơ vơ, tình
trạng bất an của con người. Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà thể hiện cái nhìn về một đời
sống hỗn loạn, đổ vỡ. Văn chương Tạ Duy Anh là nỗi khắc khoải đi tìm bản ngã,
tìm một giá trị thật sự nhân bản trên cái đời sống đổ nát, điêu tàn, là sự loay hoay lý

giải, hoá giải những nỗi đoạ đầy con người từ tiền kiếp. Nhìn đời sống như những
mảnh vỡ, tiểu thuyết Hồ Anh Thái thể hiện tinh tế những nỗi hoang mang về con
người...
Bùi Việt Thắng, trong bài viết Văn xuôi gần đây và quan niệm con người, cho
rằng văn xuôi Việt Nam gần đây đã áp sát tới cuộc sống và con người, bước đầu
đem đến cho bạn đọc một cảm nhận trung thành về thực tại. Thiết chế xã hội thiếu
nền móng pháp luật, thiếu kinh nghiệm quản lý kinh tế, điều hành xã hội tất yếu sinh
ra những kẽ hở lớn cho bọn “sâu mọt” sản sinh. Chính hồn cảnh “lắm vi trùng” ấy
đã làm cho con người bị nhiễm một thứ bệnh “mất nhân tính”, lối sống thực dụng,
chạy theo đồng tiền: một Vạn vô cảm trong Bến không chồng, một Cẩm My – cô


7

người mẫu với những cám dỗ đời thường trong Khải huyền muộn, một Tám Dôn – “
quan cách mạng” điển hình. trong Sóng lừng của Triệu Xn. Có thể nói con người
đang bị tha hoá với tốc độ đáng sợ.
Tác giả Phùng Gia Thế trong Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà và thi pháp hậu
hiện đại đã viết: Sự độc đáo của Cơ hội của Chúa thể hiện trước hết ở cái nhìn đời
sống của nhà văn. Trong Cơ hội của Chúa, ta khơng tìm thấy đâu là lý tưởng, bản
ngã, đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Thế cuộc hỗn loạn, trớ trêu. Các thang
bảng giá trị đời sống tan tành đổ vỡ. Cả những niềm tin tôn giáo cũng trở nên đáng
ngờ vực, mong manh. Qua lối “umua đen” của nhà văn, đâu đâu cũng thấy “những
khái quát xanh rờn” về thời buổi, đại loại: “thị trường cịn trinh ngun nhưng đã tự
làm suy yếu bằng thói buôn bán thủ dâm”; “các company nhiều như nấm sau mưa,
nơi liên doanh của quan chức cơ hội với bọn bn lậu liều lĩnh”; “chín mươi ba
phần trăm các cơng ti tư doanh chọn sự lừa đảo làm kim chỉ nam của hoạt động
nghiệp vụ”; cơ quan công chức là “một thứ vườn trẻ để gửi con ông cháu cha”, nơi
cán bộ nhà nước “trở nên sung túc vì biết ăn cắp”; “muốn cơng ty đứng vững chỉ có
hai cách trốn thuế và buôn lậu”...Sự “nhố nhố nhăng nhăng” của thời buổi ấy quả là

cơ hội lớn cho những trí thức tha hố tồn diện và “khốn nạn có gien” như Lâm,
Trần Bình, Sáng. Trớ trêu thay, những kẻ bất chấp thủ đoạn, chỉ biết chạy theo danh
lợi hay sẵn sàng biến người khác thành nạn nhân của danh lợi - những quan chức, trí
thức, doanh nhân, lại là gương mặt của tương lai. Trong Cơ hội của Chúa, nhân vật
đa phần là những kẻ ham hố. Chỉ có điều, người “mạnh mẽ quyết đoán nhưng chưa
đủ độc ác” (như Tâm) thì “rất khó giàu”. Loại người muốn kinh doanh “chân chính
bằng đúng trí thơng minh và bản lĩnh” (như Tâm, Thắng), chỉ có thể là mẫu người
của xã hội tương lai.
Có thể nói, dưới một kiểu cảm quan đời sống đặc thù, tiểu thuyết Nguyễn Việt
Hà đã thể hiện khá sinh động những trạng thái tinh thần tiêu biểu và câu chuyện tâm
thức đặc thù của con người thời đại: xem đời sống như một sự hỗn loạn, như những
mảnh vỡ, tâm thế hồ nghi tồn tại, đánh mất lý tưởng, loay hoay vô hướng, cõi nhân
sinh thiếu vắng tính người, nhà văn bất lực, khơng đi tìm chân lý, trật tự cho đời


8

sống nữa, mà “chơi” cùng nó, chung sống an nhiên cùng nó... Đây cũng là những
đặc điểm nổi bật của cảm quan hậu hiện đại trong văn chương, như các nhà nghiên
cứu gần đây khái quát.
Lê Thị Hằng trong luận văn thạc sĩ Ngữ văn Một số đặc điểm của văn xuôi
Việt Nam sau 1985 (Qua những truyện ngắn và tiểu thuyết tiêu biểu ) viết: “Văn
học sau 1985 nói chung và văn xi sau đổi mới nói riêng phái gánh trên vai
mình một trọng trách hết sức nặng nề. Đó là việc tìm ra những vấn đề trở thành
nhu cầu bức bách của cuộc sống, của con người để giải quyết. Trong quá trình đi
tìm hướng đi đúng đắn cho mình, văn học phải khơng ngừng đổi mới. Muốn như
vậy các nhà văn phải nhìn nhận lại mình, phải biết phê phán những vấn đề chưa
làm được của văn học của giai đoạn trước đó, tìm cách khắc phục những hạn chế
để phù hợp với quá trình đổi mới văn học, mang đến văn học luồng sinh khí mới”
[21, 36].

Khi nhìn lại chặng đường đã qua của văn xi, Tôn Phương Lan khái quát:
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải vốn gắn bó lâu năm với đề tài chiến tranh, nay đi
vào tâm lí xã hội cũng trăn trở trước bao số phận con người trong đời thường sau
chiến tranh. Ma Văn Kháng báo hiệu những bi kịch gia đình và xã hội trước nguy cơ
sụp đổ của những giá trị đạo đức truyền thống trong sự tác động của mặt trái nền
kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường bắt đầu hình thành.
Cuộc sống đơ thị được thể hiện qua văn xuôi rất đa dạng về kiểu nhân vật,
phong phú về nội dung, mang màu sắc của đời sống đang diễn ra xung quanh chúng
ta hàng ngày. Qua tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn, thấy rõ chủ đề chính của tác
phẩm là mối quan hệ gia đình truyền thống trước những biến động của xã hội thời
chuyển đổi, cho đến cuối cùng của câu chuyện, dường như lời giải xác đáng vẫn
chưa được đưa ra và những trăn trở vẫn cịn đó. Thế nhưng, thơng điệp được đưa ra,
có lẽ là thơng điệp đúng nhất và tồn diện nhất trong mọi hồn cảnh, chính là lịng
bao dung và tình yêu thương sẽ cứu rỗi tất cả mọi thứ lỗi lầm, mọi toan tính nhỏ
nhen, mọi ích kỷ cá nhân, mọi dày vò về vật chất và tinh thần. Sự xáo trộn dữ dội
như một quy luật tất yếu của xã hội trong thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang


9

cơ chế thị trường đã làm ảnh hưởng đến mọi gia đình Việt Nam. Một yêu cầu được
đặt ra là phải có sự đổi mới gia đình truyền thống cho phù hợp với xã hội mới để con
người dễ dàng thích nghi với cuộc sống mới và hồ nhập với mơi trường xung
quanh mình. Với tác phẩm Cõi người rung chuông tận thế, lại một vấn đề của con
người - nhân loại được đề cập: Thiện - Ác. Tác giả chọn cách đứng trên cỗ xe của
cái ác: gần gũi, tịng phạm, hố thân của cái ác... nên đã chỉ ra rõ nguyên nhân sâu
xa hình thành cái ác. Sự cảnh báo nghiêm khắc là cần thiết, bởi nếu cỗ xe chở điều
ác còn mù quáng lăn bánh, còn gây ra thù hận chồng chất, thì cuộc sống, nhân loại
sẽ rơi vào thảm cảnh. Rung một tiếng chuông cảnh báo, người ta giật mình vì sự
nng chiều của phụ huynh, sự quản lý sai lệch của khơng ít "lị đào tạo con người",

sự ngừng trệ của tư duy... phải chăng là mảnh đất cho lối sống bng thả, ích kỷ,
thực dụng; thả nổi cho lối sống thác loạn, vô hồn, khơng hồi bão lý tưởng. Trong
khi vẫn cịn đó những vết thương, di hại của chiến tranh, có chỗ cịn sưng tấy nhức
nhối mà chưa được khắc phục chữa trị.
Luận văn này không đi từ “mảnh đất trống” mà tham khảo ý kiến của những
người đi trước, giúp chúng tôi có định hướng cho luận văn, từ đó tiếp thu và tiếp
tục khám phá những mảng màu khác nhau trong bức tranh chung về vấn đề đô thị
trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề đô thị và con người đô thị trong tiểu thuyết
Việt Nam sau 1986.
4. Phạm vi tư liệu khảo sát
Luận văn của chúng tơi giới hạn tìm hiểu về vấn đề cuộc sống đô thị trong
tiểu thuyết của những cây bút tiêu biểu như: Chu Lai, Trung Trung Đỉnh, Ma Văn
Kháng, Nguyễn Việt Hà, Đức Ban, Đỗ Vĩnh Bảo,… Đối với sáng tác của những nhà
văn này chúng tôi cũng chỉ chọn những tiểu thuyết thể hiện rõ vấn đề cuộc sống đô
thị.
5. Phương pháp nghiên cứu


10

Khi tiến hành đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu cơ bản
sau: Phương pháp so sánh – đối chiếu, phương pháp phân loại – thống kê, phương
pháp phân tích – tổng hợp.
6. Cấu trúc luận văn
Ngồi phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Cuộc sống đô thị - vấn đề được quan tâm đặc biệt trong tiểu thuyết
Việt Nam sau 1986
Chương 2: Những vấn đề của cuộc sống đô thị được đặt ra trong tiểu thuyết

Việt Nam sau 1986
Chương 3: Một số đặc điểm về hình thức thể hiện cuộc sống đô thị trong tiểu
thuyết Việt Nam sau 1986


11

CHƯƠNG 1
CUỘC SỐNG ĐÔ THỊ - VẤN ĐỀ ĐƯỢC QUAN TÂM ĐẶC BIỆT TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1986
1.1. Khái niệm đơ thị
Đơ thị hố là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên con đường phát triển.
Những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, ở những mức độ khác nhau và với
những sắc thái khác nhau, làn sóng đơ thị hố tiếp tục lan rộng như là một q trình
kinh tế, xã hội tồn thế giới - quá trình mở rộng thành phố, tập trung dân cư, thay
đổi các mối quan hệ xã hội; quá trình đẩy mạnh và đa dạng hố những chức năng
phi nơng nghiệp, mở rộng giao dịch, phát triển lối sống và văn hố đơ thị.
Q trình đơ thị hố ở Việt Nam tuy diễn ra khá sớm, ngay từ thời trung đại
với sự hình thành một số đơ thị phong kiến, song do nhiều ngun nhân, q trình
đó diễn ra chậm chạp, mức độ phát triển dân cư thành thị thấp. Thập kỷ cuối thế kỷ
XX mở ra bước phát triển mới của đô thị ở Việt Nam. Đặc biệt, sau khi Quốc hội
Việt Nam ban hành Luật Doanh nghiệp (năm 2000), Luật Đất đai (năm 2003), Luật
Đầu tư (năm 2005); Chính phủ ban hành Nghị định về Qui chế khu công nghiệp,
khu chế xuất (năm 1997)… nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài tăng vọt, gắn theo đó là sự hình thành trên diện rộng, số lượng lớn,
tốc độ nhanh các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới và sự cải thiện đáng
kể kết cấu hạ tầng ở cả thành thị và nơng thơn. Làn sóng đơ thị hố đã lan toả, lơi
cuốn, như thổi luồng sinh khí mới và tác động trực tiếp đến nông thôn, đời sống con
người Việt Nam.
Một đô thị hay khu đô thị là một khu vực có mật độ gia tăng các cơng trình

kiến trúc do con người xây dựng so với các khu vực xung quanh nó. Các đơ thị có
thể là thành phố, thị xã, trung tâm dân cư đông đúc nhưng thuật từ này thông thường
không mở rộng đến các khu định cư nông thôn như làng, xã, ấp. Các đô thị được
thành lập và phát triển thêm qua quá trình đơ thị hóa. Đo đạt tầm rộng của một đơ
thị sẽ giúp ích cho việc phân tích mật độ dân số, sự mở rộng đô thị, và biết được các


12

số liệu về dân số nông thôn và thành thị. Không như một đô thị, một vùng đô thị
không chỉ bao gồm đơ thị mà cịn bao gồm các thành phố vệ tinh cộng vùng đất
nông thôn nằm xung quanh có liên hệ về kinh tế xã hội với thành phố đô thị cốt lỏi,
tiêu biểu là mối quan hệ từ công ăn việc làm đến việc di chuyển hàng ngày ra vào
mà trong đó thành phố đơ thị cốt lỏi là thị trường lao động chính. Thấy rõ các đô thị
thường kết hợp và phát triển như trung tâm hoạt động kinh tế, dân số trong một vùng
đô thị lớn hơn.
Định nghĩa về đơ thị thì khác nhau tại các quốc gia khác nhau. Thông thường
mật độ dân số tối thiểu cần thiết để được gọi là một đô thị phải là 400 người trên
một cây số vuông hay 1000 người trên một dặm vuông Anh. Các quốc gia châu Âu
định nghĩa đô thị dựa trên cơ bản việc sử dụng đất thuộc đơ thị, khơng cho phép có
một khoảng trống tiêu biểu nào lớn hơn 200 mét. Dùng khơng ảnh chụp từ vệ tinh
thay vì dùng thống kê từng khu phố để quyết định ranh giới của đô thị. Tại các quốc
gia kém phát triển, ngoài việc sử dụng đất và mật độ dân số nhất định nào đó, một
điều kiện nữa là phần đơng dân số, thường là 75% trở lên, khơng có hành nghề nơng
nghiệp hay đánh cá. Để thấy rõ hơn khái niệm đô thị ở các quốc gia khác, khảo sát
một số nước với khái niệm đô thị ta sẽ thấy rõ hơn khái niệm đô thị ở Việt Nam.
Tại Úc, các đô thị thường được ám chỉ là các "trung tâm thành thị" và được
định nghĩa như là những khu dân cư chen chúc có từ 1000 người trở lên và mật độ
dân cư phải tối thiểu là 200 người trên một cây số vng. Tại Canada, một đơ thị là
một vùng có trên 400 người trên một cây số vuông và tổng số dân phải trên 1.000

người. Nếu có hai đơ thị hoặc nhiều hơn trong phạm vi 2 km của nhau, các đô thị
này được nhập thành một đô thị duy nhất. Các ranh giới của một đô thị không bị ảnh
hưởng bởi ranh giới của các khu tự quản (thành phố) hoặc thậm chí là ranh giới tỉnh
bang. Tại Trung Quốc, một đô thị là một khu thành thị, thành phố và thị trấn có mật
độ dân số hơn 1.500 người trên một cây số vuông. Đối với các khu thành thị có mật
độ dân số ít hơn 1.500 người trên một cây số vng thì chỉ dân số sống trong các
đường phố, nơi có dân cư đơng đúc, các làng lân cận nhau được tính là dân số thành
thị. Tại Pháp, một đô thị là một khu vực bao gồm một vùng phát triển do xây cất


13

(gọi là một "đơn vị thành thị" - gần giống như cách định nghĩa của đô thị Bắc Mỹ và
các vùng vành đai ngoại ô). Tại Nhật Bản, các đô thị được định nghĩa như là các
vùng cận kề nhau gồm các khu dân cư đông đúc. Điều kiện cần thiết là đơ thị phải
có mật độ dân số trên 4.000 người trên một cây số vuông.
Ở Việt Nam, theo nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 5 tháng 10 năm 2001
của Chính phủ Việt Nam về việc phân loại đơ thị và cấp quản lý đô thị. Đô thị là khu
dân cư tập trung có những đặc điểm sau: Về cấp quản lí, đơ thị là thành phố, thị xã,
thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập; Về trình độ
phát triển, đơ thị phải đạt được những tiêu chuẩn sau: Là trung tâm tổng hợp hoặc
trung tâm chun ngành, có vai trị thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả
nước hoặc một vùng lãnh thổ như: vùng liên tỉnh, vùng tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương hoặc vùng trong tỉnh, trong thành phố trực thuộc Trung ương; vùng
huyện hoặc tiểu vùng trong huyện. Đối với khu vực nội thành phố, nội thị xã, thị
trấn tỉ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động; cơ sở hạ
tầng phục vụ các hoạt động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy
chuẩn thiết kế quy hoạch xây dựng quy định cho từng loại đơ thị, quy mơ dân số ít
nhất là 4000 người và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km².
Theo cách nghĩ đô thị như trên, Việt Nam phân vùng đô thị như sau: Đô thị

loại đặc biệt (2 thành phố): Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Đơ thị loại 1 (10 thành
phố): Hải Phòng; Đà Nẵng; Cần Thơ; Huế; Vinh; Đà Lạt; Nha Trang; Quy Nhơn;
Buôn Mê Thuột; Thái Nguyên. Đô thị loại 2 (12 thành phố): Biên Hịa; Nam Định;
Hạ Long; Vũng Tàu; Việt Trì; Hải Dương; Thanh Hóa; Mỹ Tho; Long Xuyên;
Pleiku; Phan Thiết; Cà Mau. Đô thị loại 3 (38 thành phố, thị xã): Các thành phố còn
lại, các thị xã: Thủ Dầu Một; Châu Đốc; Bà Rịa; Bạc Liêu; Sa Đéc;Cửa Lò; Cam
Ranh; Vĩnh Long; Cao Lãnh; Sóc Trăng. Đơ thị loại 4: Các thị xã còn lại và một vài
thị trấn lớn. Đô thị loại 5: Các thị trấn.
1.2. Bối cảnh lịch sử và sự thay đổi tư duy, cảm hứng trong văn học
1.2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội


14

Bước ra từ hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, chống Pháp và chống Mĩ, đất
nước ta hoàn toàn thống nhất, Bắc – Nam sum họp một nhà. Trong chiến tranh,
trọng trách của mỗi người là ý thức giữ gìn và bảo vệ non sơng đất nước, hồn thành
sứ mệnh mà lịch sử giao phó, thì sau năm 1975 cuộc sống hồ bình đã trở lại, bài ca
khải hồn ấy đã mở ra một kỷ nguyên mới, vận hội mới, nhiều tiềm lực mới được
phát hiện trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cả nước lúc bây giờ lại phải
đương đầu với những cam go thử thách mới, không kém phần khốc liệt: vừa bảo vệ
Tổ quốc, vừa xây dựng đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Năm 1986 là một mốc son của cả đất nước. Đại hội VI của Đảng đã mở ra
một thời kỳ mới cho lịch sử dân tộc. Đây là Đại hội của thời kỳ mở cửa, thời kỳ đổi
mới cho lich sử dân tộc. Thế nhưng, sau đổi mới, nền kinh tế thị trường bộc lộ
những mặt hạn chế, mặt trái của nó: hiện tượng băng hoại về mặt đạo đức ngày càng
nhiều, con người trượt dài trên con đường tha hố, biến chất vì cám dỗ vật chất,
khơng ít gia đình đứng trước nguy cơ tan vỡ hạnh phúc, những chuẩn mực đạo đức
tốt đẹp của cha ông cũng đang dần bị phá vỡ, quan hệ giữa người với người trở nên
khơ cứng, căn bệnh “tiền tệ hố” ngày càng lan nhiễm mạnh vào từng ngõ ngách gia

đình, chen lẫn vào cuộc sống của cả cộng đồng. Tất cả những biến động lớn về lịch
sử xã hội đã kéo theo những sự xáo trộn trong đời sống văn hoá của dân tộc.
Không thể phủ nhận sau chiến tranh tất cả đang dần dần hồi sinh, mang lại hơi
thở mới cho từng cá nhân, cho toàn dân tộc. Con người đón nhận cuộc sống mới và
được sống là chính mình, nhưng cũng chính điều đó đã làm cho cuộc sống mới trở
nên phức tạp và bề bộn hơn. Nhu cầu của cuộc sống liên tục thay đổi nhằm đáp ứng
yêu cầu và những tiêu chuẩn ngày càng cao của xã hội. Con người lúc bấy giờ
không phải như con người thời trước, khơng hồn tồn giữ nét trong sáng, thánh
thiện, vì mục đích cao cả, ln đặt chân lí làm đầu, mà con người hiện đại nhiều
mưu mơ, toan tính, vụ lợi và đa nghi hơn rất nhiều. Cơ chế thị trường phát triển,
cuốn theo cơn lốc cạnh tranh về mọi mặt của đời sống, mối quan hệ giữa người với
người ngày càng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, mang màu sắc toan tính hơn là những


15

giá trị tình cảm. Cuộc sống bon chen, vì đồng tiền manh áo đẩy con người ta vào
những bi kịch, nhiều khi khơng tìm được lối thốt cho riêng mình.
Năm 1986 là dấu mốc quan trọng trong đời sống xã hội nói chung và đời sống
văn học nghệ thuật nói riêng. Đây là thời điểm ghi nhận sự đổi mới tư duy trên các
lĩnh vực, trong đó có văn học nghệ thuật. Khơng khí cởi mở, dân chủ của đời sống
văn học tác động mạnh mẽ đến chủ thể sáng tạo, quan niệm mới về nhà văn, đến sự
thay đổi trong cái nhìn nghệ thuật về hiện thực và con người, đến sự thay đổi thi
pháp thể loại của các thế hệ nhà văn. Ở thời kỳ này, nhu cầu nhận diện đúng khuôn
mặt của đời sống được quan tâm và trở nên bức thiết. Giai đoạn sau 1986 có những
đổi mới đem đến sự thay đổi trong nhận thức và sáng tác của văn nghệ sĩ. Nghị
quyết 05 của Bộ chính trị về cơng tác văn hố văn nghệ (1987) đã mở ra một cách
nhìn mới về vị trí và chức năng của văn nghệ. Nghị quyết nhấn mạnh: “Văn học
nước ta phải đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm”. Các nhà văn cũng tự xác
định “không thể viết như trước nữa”. Nguyễn Nghĩa Trọng khẳng định “xu hướng

phê phán vạch trần những cái xấu, cái ác, cái hèn hạ, bất lương thiện ra trong nhiều
tác phẩm”. Lúc này sự nói thẳng nói thật về mọi vấn đề của cuộc sống được khuyến
khích, chấp nhận mọi phương pháp thể hiện đời sống nhưng phải đứng trên lập
trường và lợi ích của tồn dân. Chủ trương đổi mới đã thổi luồng sinh khí mới, khơi
dậy những tìm tịi, sáng tạo trong giới trí thức, văn nghệ sĩ, tạo điều kiện cho văn
học nói chung và tiểu thuyết nói riêng phát triển mang những tố chất mới so với thời
kì trước.
1.2.2. Sự chuyển đổi tư duy, cảm hứng trong văn học
Chiến thắng năm 1975 là một dấu mốc lớn trong lịch sử dân tộc. Tuy không
thật trùng khớp với những mốc lịch sử, nhưng mỗi bước chuyển lớn của lịch sử đều
tạo nên những chuyển động, tạo nên những dấu ấn trong đời sống văn học. Do đó,
có thể thấy, từ sau 1975 đến trước 1986, văn học đã có những chuyển đổi mang ý
nghĩa của một sự chuẩn bị , một giai đoạn “bản lề” để đi tới cơng cuộc đổi mới tồn
diện, sâu sắc đồng bộ. Tuy nhiên, để có được tư duy văn học mới là cả một hành


16

trình với nhiều “vấp váp và trả giá” (Nguyên Ngọc) với những đóng góp âm thầm
nhưng mạnh mẽ của nhiều thế hệ nhà văn.
Cho đến khi khơng khí đổi mới thực sự tràn vào đời sống xã hội và đời sống
văn học, tiểu thuyết mới có điều kiện cân bằng trạng thái tâm lý cho con người.
Dòng tiểu thuyết “hướng nội” - tập trung khám phá những bí ẩn, những gì tinh tế
nhất trong tâm hồn con người đã xuất hiện. Nhà văn Nguyên Ngọc ghi nhận: “Văn
học chăm chú quan tâm hơn đến con người với tư cách là một thế giới cá nhân
phong phú, phức tạp, đa dạng, đa chiều, đa tầng trong nhiều mối quan hệ cũng hết
sức phức tạp và đa dạng với toàn xã hội và với chính mình…”. Ngọn nguồn của sự
thay đổi ấy chính là sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật và quan niệm về tiểu thuyết
của các nhà văn. Nhà văn Lê Lựu khẳng định: “Bản chất con người phải được nghệ
thuật khám phá và miêu tả”. Ông thẳng thắn nhận ra: “Những tác phẩm trước đó của

tơi chưa chú ý nghiên cứu sâu tính cách, tâm lý và quy luật phát triển của con người
- nhân vật. Tôi tự bảo không thể viết như cũ được”. Năm 1988, nhà văn Mạc Phi đã
nhận định: “Con người trong tiểu thuyết ta ngày hôm nay và sắp tới sống tất bật, ồn
ào trong chiều rộng của thế giới bao quanh… đồng thời cũng rất sâu sắc, rất đằm,
trong chiều dày của tâm trạng”. Vì vậy, nhà văn rất quan tâm đến hình thức “tiểu
thuyết tâm trạng”, “tiểu thuyết tự thú” và cho đây là “một hướng khai phá mang
nhiều hứa hẹn”. Nguyễn Minh Châu - nhà văn luôn trăn trở, âu lo và chan chứa niềm
tin về con người - đã thể hiện rõ quan niệm về đổi mới tiểu thuyết: “Chúng ta tiếp
thu các hình thức tiểu thuyết chính là để trở về xem xét con người Việt Nam một
cách sáng tỏ và để đào xới vào nó sâu hơn”. Năm 1985, khi nghĩ về tiểu thuyết và
thực tại hôm nay, tác giả Nguyễn Minh Tấn cũng đã khẳng định: “Tiểu thuyết có
sức mạnh của một vũ khí tầm xa, sức nổ mạnh. Nó có khả năng bao quát một mảng
hiện thực rộng lớn, tạo nên một bức tranh toàn cảnh của một giai đoạn, một thời kỳ
lịch sử. Nó có thể đặt ra những phương án có tầm cỡ chiến lược, trải dài trong nhiều
chiến dịch. Nó có sức đi vào một khía cạnh sâu sắc của cuộc sống con người. Nó có
sức khám phá những nguồn mạch biện chứng của tâm hồn, soi sáng được cái Thịên
và cái Ác, cái Cao cả và cái Thấp hèn…”. Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm


17

về sự “đẳng hướng” ấy trong thi pháp tiểu thuyết ở góc nhìn tinh tế và sâu sắc hơn.
Ơng cho rằng, viết về người bình thường, viết về cuộc đời thường là vấn đề mà
những người viết tiểu thuyết không thể không quan tâm. Nhưng theo ông, “suy ra
cho cùng, đó vẫn là cái ý hướng đào sâu vào hiện thực ở cái tầng đáy của đời sống”.
Quan niệm này được các nhà văn giai đoạn sau 1986 vận dụng khá “triệt để” trong
sáng tác. Không loại bỏ xu hướng “hướng ngoại” và quan tâm hơn đến xu hướng
“hướng nội”, tiểu thuyết giai đoạn sau 1986 đã “xông vào” mọi ngõ ngách của đời
sống xã hội, đối thoại với đời sống, đối thoại với cuộc đời để nắm bắt được “cái hơm
nay bề bộn, ngổn ngang bóng tối và ánh sáng” (Nguyễn Khải), đồng thời “lặn sâu”

vào tâm hồn con người để lắng nghe tất cả những âm vang của tiếng lịng bí ẩn trong
con người (có tiếng u thương, có lời hờn giận, có cả những quanh co, tính tốn
ngấm ngầm…). Có thể nói, chưa bao giờ những vấn đề thuộc về đời sống xã hội mà
văn học quan tâm hiện lên chân thực, sống động mà xót xa nhức nhối như thế trong
tiểu thuyết. Bởi các nhà văn đã khai thác đến các “tầng vỉa” của hiện thực đời sống
qua số phận con người, có khi qua những mảnh vỡ từ bi kịch làm người của con
người. Vì vậy, ta gặp trong tiểu thuyết hôm nay cái chật hẹp của “cõi nhân gian”
rộng lớn và cái mênh mông, thăm thẳm sâu của cõi lòng bé nhỏ, qua số phận của
những con người (Nhân vật Hoàng, Tâm, Thuỷ, Nhã, Bình trong tiểu thuyết Cơ hội
của chúa; bà Son với những “tơng chi họ hàng” của dịng Trịnh Bá và Vũ Đình
trong Mảnh đất lắm người nhiều ma; đến nhân vật ông Bằng, Lý, Cần trong Mùa lá
rụng trong vườn; Hay nhân vật Nam, Thảo, Bình, Hùng trong Phố; Đào Kim Tân,
Đào Kim Tấn, Diệu Huyền, Cam, Sơ trong Cõi tiền…). Mỗi số phận, mỗi cuộc đời
trong cuộc sống thường nhật này đều toát lên những vẻ hào quang hay bóng tối,
sung sướng hạnh phúc hay đau khổ tột cùng cũng là một mảnh đời trong những
mảnh đời rơi rớt ở cuộc sống đô thị đầy rẫy cám dỗ này.
* Sự chuyển đổi tư duy nghệ thuật.
Cái mới phải kể đến đầu tiên là nhìn từ bình diện tư duy nghệ thuật. Hiện thực
cuộc sống thay đổi đòi hỏi các nhà văn phải có cách tiếp cận hiện thực phù hợp. Từ
1975 mà đặc biệt là từ 1986, văn học nước ta từng bước chuyển sang giai đoạn đổi


18

mới, vận động theo hướng dân chủ hóa, mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc. Nhìn
chung, văn học phát triển đa dạng hơn về đề tài, phong phú và mới mẻ hơn về thủ
pháp nghệ thuật, đa dạng trong chủ đề, cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật
với nhiều tìm tịi và thể nghiệm mới. Cái mới đáng chú ý của văn học giai đoạn này
là tính chất hướng nội, đi vào hành trình khám phá nội tâm khai thác sâu sắc số phận
cá nhân và thân phận của con người. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực như

vừa nói cũng đã nảy sinh những khuynh hướng tiêu cực, những biểu hiện quá đà,
thiếu lành mạnh. Văn học có xu hướng nói nhiều tới mặt trái của xã hội, quan tâm
đến đời sống cá nhân của mỗi con người. Hiện thực bấy giờ không chỉ là hiện thực
cách mạng, các biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà còn là hiện thực của đời
sống hàng ngày với các quan hệ thế sự vốn đã đa đoan đa sự, phức tạp chằng chịt,
đan dệt tạo nên những mạch ngầm của đời sống. Hiện thực đó còn nổi rõ lên những
vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách, cả hạnh phúc lẫn bi kịch...Bức tranh hiện thực
đời sống trong tính tồn vẹn của nó đã mở ra những không gian vô tận cho văn học
thoả sức chiếm lĩnh, khám phá và khai vỡ từ những mạch nguồn cảm hứng.
Bên cạnh tư duy mới về cách nhìn nhận hiện thực đời sống, tư duy về chủ thể
nhà văn cũng có sự biến đổi. Vai trị chủ thể nhà văn được nhấn mạnh và được dành
nhiều sự ưu ái, quan tâm. Nhà văn tự tin và mạnh dạn đưa ngịi bút của mình đi tìm
sự sáng tạo, tìm tịi khi viết về các đề tài nóng bỏng, thời sự, đi sâu vào các vấn đề
phức tạp của đời sống, mạnh dạn đưa ra những kiến giải của mình trước những tình
huống, sự kiện và tìm tịi phần bí ẩn trong tính cách con người. Dường như mọi
vùng đất đều được khai phá, khơng cịn thấy vùng đất cấm kị với văn học, những đề
tài trước đây nhà văn một thời phải né tránh như cái xấu hay cái tiêu cực thì nay lại
như có sức hút mạnh mẽ ngòi bút của họ.
Từ 1986 đến nay, sự xuất hiện của những cây bút cũ như Nguyễn Khải,
Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu,...bên cạnh những cây bút mới có tên
tuổi như Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Bảo Ninh,...đã khẳng định
vị thế của văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Để thành cơng các nhà văn đã
nổ lực rất nhiều trong đổi mới tư duy, quan niệm, cách viết của mình. Giai đoạn sau


19

1986, văn xi nói chung cũng như tiểu thuyết nói riêng có đời sống sơi động và gặt
gái được nhiều thành tựu cũng bởi xét từ phía người đọc có cách tiếp cận và có một
tư duy mới khi tiếp nhận. Thời kỳ này tiểu thuyết dường như đang lên ngôi, đang gặt

hái một vụ mùa bội thu. Không chỉ nhiều về số lượng, tiểu thuyết với ưu thế thể loại
của mình đã sục vào mọi ngõ ngách của đời sống, đào xới mọi vỉa tầng của hiện
thực, phơi bày không né tránh mọi bi kịch của nhân sinh. Không còn những tác
phẩm mang cảm hứng sử thi, cảm hứng lãng mạn như trước 1975, bây giờ họ sẵn
sàng đón nhận những cách tân, đổi mới trong cách viết. Thị hiếu của người đọc cũng
rất đa dạng, họ đòi hỏi cao sự sáng tạo và tinh tế trong công việc tạo ra những món
ăn tinh thần cho họ.
* Sự chuyển đổi cảm hứng trong văn học.
Trong giai đoạn văn học 1945 – 1975, cảm hứng chủ đạo là cảm hứng sử thi.
Âm điệu vang lên trong những tác phẩm viết về công cuộc chiến đấu và sản xuất là
âm hưởng ngợi ca hào hùng. Sau năm 1975, văn học trở về với cuộc sống đời tư, đời
thường với muôn mặt phức tạp tốt xấu, thiện ác đan xen trộn lẫn. Cảm hứng trong
văn học lúc này không phải là sự ngợi ca một chiều đầy nhiệt tình hào sảng như
trước nữa mà lắng lại những suy tư, phân tích cuộc sống và con người một cách toàn
diện, trọn vẹn: phê phán, chiêm nghiệm, trào lộng, bi kịch,...Và cũng chính cuộc
sống đời thường với bao khía cạnh phức tạp như vậy đã tạo nên một phức hợp
những tạp âm va đập vào người viết, thúc đẩy cảm hứng sáng tạo của nhà văn phát
triển phong phú, đa dạng hơn.
Với cách tân, đi tìm nguồn sáng tạo mới, những tu duy mới nhanh chóng thấm
sâu vào đời sống văn học, khơi nguồn cho một dòng chảy mới, đầy sức sống. Cảm
hứng sử thi, cảm hứng ngợi ca khơng cịn thích hợp trong hiện thực phức tạp của đời
sống kinh tế thị trường. Cuộc sống hiện đại đối mặt với vô số vấn đề mới phát sinh
ngày càng trở nên phức tạp. Tất cả cái ngổn ngang của đời sống thường nhật đi vào
người viết, như thôi thúc họ khám phá. Họ nhanh chóng chiếm lĩnh văn đàn bằng tư
duy mới, cảm hứng mới trong sáng tạo nghệ thuật. Mỗi tác phẩm của họ là mỗi
khn mặt của mn hình đời sống, mang hơi thở của thời kì đổi mới. Nhìn chung


20


tiểu thuyết giai đoạn sau 1986 đã gia tăng thêm một số cảm hứng sáng tạo như cảm
hứng chiêm nghiệm quá khứ, cảm hứng phê phán, cảm hứng thân phận con người cá
nhân.
Cảm hứng chiêm nghiệm quá khứ là cảm hứng sáng tạo mới thể hiện trong
nhiều tác phẩm. Cuộc sống hiện tại phảng phất ít nhiều dư âm chiến tranh một thời
vừa hào hùng, vừa đau đớn. Chiến tranh là một hồn cảnh đặc biệt mà ở đó mỗi số
phận con người được đặt trong hoàn cảnh thử thách khốc liệt nhất. Những trang viết
tái hiện lại những mảng màu của quá khứ, người đọc thời kỳ này không dễ dàng
chấp nhận kiểu tác phẩm chỉ tái hiện lại lịch sử hào hùng của hai cuộc kháng chiến,
họ cần những yếu tố mang tính thời đại hơn. Mặc dù cuộc kháng chiến chống Mỹ
kết thúc đã một phần tư thế kỉ nhưng dư âm của nó vẫn cịn vang vọng mãi. Một số
tác phẩm tiếp tục viết về đề tài chiến tranh, lí giải sự chiến thắng và quá trình đấu
tranh gian khổ, đau thương và mất mát của nhân dân ta. Những trang viết giàu cảm
xúc, mặc dầu rất hay và sâu sắc nhưng cũng không mang lại được nhiều sự chú ý. Ở
thời kì này, trong tâm lí phổ biến của tồn xã hội thấy xuất hiện nhu cầu truy tìm
nguyên nhân của sự yếu kém, xuống cấp. Trong văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết đã
xuất hiện những tác phẩm phản ánh hiện thực theo chiều hướng này. Thời kì trước
1986, văn xi chịu ảnh hưởng của sự khủng hoảng xã hội, sự bế tắc về đường lối,
kinh tế chậm phát triển. Sự xuất hiện của nạn tham ô của một số cá nhân ngày càng
phổ biến. Đây là thời kì bao cấp kéo dài, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Sau mười năm chiến thắng, những dư âm một thời vẫn còn vang vọng, nhiều
tiểu thuyết đã bắt đầu chú ý xây dựng những tình huống đầy xung đột, gay cấn, đặt
nhân vật vào những hoàn cảnh éo le, phơi bày những số phận phức tạp của người
lính trong chiến tranh và sau chiến tranh. Dưới cái nhìn thẳng thắn, tiểu thuyết sau
1986 tập trung vào những khoảnh khắc thường nhật của đời sống, xoáy sâu vào thế
giới nội tâm của nhân vật, vào những cảnh ngộ, hồn cảnh khác nhau và tìm thấy
những xung đột bên trong mỗi con người. Từ những người nông dân chân chất,
bước chân đến với cuộc sống mới của thành thị - cuộc sống mới nhiều đổi thay, với
những mới mẻ nhưng cũng đầy bon chen, vụ lợi. Cuộc sống dường như cuốn con




×