Tải bản đầy đủ (.pdf) (228 trang)

Đảng bộ thành phố cần thơ lãnh đạo và thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo (1996 2006)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 228 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------o0o-------------

NGUYỄN THỊ TÚ TRINH

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ CẦN THƠ LÃNH ĐẠO
VÀ THỰC HIỆN CƠNG TÁC XĨA ĐĨI GIẢM
NGHÈO ( 1996 – 2006 )

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------o0o-------------

NGUYỄN THỊ TÚ TRINH

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ CẦN THƠ LÃNH ĐẠO
VÀ THỰC HIỆN CƠNG TÁC XĨA ĐĨI GIẢM
NGHÈO ( 1996 – 2006 )

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ : 60 – 22 – 56
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HỮU NGUYÊN


Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, do TS.
Nguyễn Hữu Nguyên trực tiếp hướng dẫn. Các số liệu nêu trong luận văn là
trung thực, nếu có gì sai trái tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Tú Trinh


NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

- CTXĐGN:

Công tác xoá đói giảm nghèo

- BCĐ.XĐGN:

Ban Chỉ đạo xoá đói giảm nghèo

- BCĐ:

Ban chỉ đạo

- BLĐTB&XH:

Bộ Lao động Thương binh và Xã hội


- SLĐTB&XH:

Sở Lao động Thương binh và Xã hội

- UBND :

Ủy Ban Nhân Dân

- UBMTTQVN:

Ủy Ban Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam

- Đoàn TNCSHCM:

Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh

- Sở GD - ĐT:

Sở Giáo dục – Đào Tạo

- ĐBSCL:

Đồng bằng sông Cửu Long


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ

SỰ QUÁN TRIỆT CỦA ĐẢNG BỘ CẦN THƠ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XOÁ
ĐÓI GIẢM NGHÈO THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 1996 .........................................10
1.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ – XÃ HỘI VÀ NHỮNG NGUYÊN
NHÂN DẪN ĐẾN ĐÓI NGHÈO TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ..................10
1.1.1. Vị trí địa lý .............................................................................................10
1.1.2. Đặc điểm kinh tế – xã hội: ...................................................................12
1.1.3. Nguyên nhân đói nghèo tại thành phố Cần Thơ ...............................21
1.2. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ TÌNH
HÌNH THỰC HIỆN CTXĐGN CỦA ĐẢNG BỘ CẦN THƠ THỜI KỲ
TRƯỚC NĂM 1996 .............................................................................................28
1.2.1. Cơ sở lý luận về đói nghèo và những tiêu chí xác định.....................28
1.2.2. Những quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước và sự quán triệt của
Đảng bộ Cần Thơ đối với CTXĐGN .............................................................40
CHƯƠNG 2 : ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ CẦN THƠ LÃNH ĐẠO VÀ THỰC
HIỆN CÔNG TÁC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO ( 1996 – 2006 ) .........................78
2.1. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CTXĐGN CỦA ĐẢNG BỘ CẦN THƠ GIAI
ĐOẠN 1996 – 2000 ..............................................................................................79
2.1.1. Đặc điểm tình hình và những chủ trương cụ thể của Đảng và Nhà
nước, của Đảng bộ Cần Thơ đối với CTXĐGN giai đoạn 1996 - 2000 ......79


2.1.2. Những biện pháp của Đảng bộ Cần Thơ triển khai thực hiện
CTXĐGN từ 1996 - 2000.................................................................................87
2.1.3. Kết quả thực hiện CTXĐGN ( 1996 – 2000) ....................................102
2.1.4. Nhận xét kết quả thực hiện CTXĐGN trong 5 năm ( 1996 – 2000)..113
2.2. ĐẢNG BỘ CẦN THƠ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CTXĐGN GIAI
ĐOẠN 2001 - 2006 .............................................................................................116
2.2.1. Đặc điểm tình hình và những chủ trương của Đảng và Nhà nước,
của Đảng bộ thành phố Cần Thơ liên quan đến CTXĐGN .....................116
2.2.2. Những biện pháp Đảng bộ Cần Thơ triển khai thực hiện đối với

CTXĐGN giai đoạn 2001 – 2006..................................................................127
2.2.3. Kết quả thực hiện CTXĐGN giai đoạn 2001 – 2006.......................136
2.3. NHẬN XÉT QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CTXĐGN CỦA ĐẢNG BỘ
CẦN THƠ GIAI ĐOẠN 10 NĂM (1996 – 2006)............................................151
2.3.1. Những thành tựu đạt được trong CTXĐGN ....................................151
2.3.2. Những mặt hạn chế .............................................................................157
2.4. MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÚT RA TRONG QUÁ TRÌNH THỰC
HIỆN CTXĐGN TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ...........................................169
KẾT LUẬN ............................................................................................................180
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................184
PHỤ LỤC ...............................................................................................................196


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo là vấn đề có liên quan mật thiết đến nhiều lónh vực trong xã hội
từ sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đến việc giữ vững ổn định chính trị xã hội,
đói nghèo cũng liên quan tới việc giữ gìn và phát huy những giá trị tinh thần của
dân tộc. Thoát khỏi đói nghèo không chỉ là ước muốn, là hoài bảo của chính
người nghèo, vùng nghèo mà đó còn là trách nhiệm của cả cộng đồng cũng như
sự quan tâm, chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Chính phủ mỗi nước.
Ở Việt Nam, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi đói nghèo là một thứ “giặc” cần phải
tiêu diệt. Người nói: “ Nhiệm vụ của Chính phủ từ Trung ương đến địa phương là
làm cho người nghèo đủ ăn, người đủ ăn thì khá lên và người giàu thì giàu thêm”.
Thực hiện chủ trương trên của Người, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta
đã có nhiều cố gắng, nổ lực chăm lo cho đời sống của bộ phận những người đói
nghèo, nhiều chương trình, dự án liên quan đến công tác xóa đói giảm nghèo (
CTXĐGN) đã được triển khai thực hiện trong cả nước nhằm mục đích cải thiện,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bộ phận người đói nghèo theo hướng tốt

hơn, tạo thuận lợi cho họ hoà nhập với cuộc sống cộng đồng.
Cùng với cả nước nói chung, trong những năm qua, ở Cần Thơ CTXĐGN
cũng được các cấp, các ngành và các tổ chức đoàn thể hết sức quan tâm, đã có
nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Tỉnh Ủy và sau này là Thành Ủy, UBND,
Hội Đồng Nhân Dân, Mặt trận và các tổ chức xã hội đề cập đến cùng nhiều đề
án, dự án, chương trình liên quan đến CTXĐGN được triển khai thực hiện trên
toàn thành phố như: Đề án giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo ( 2001 –

1


2005); Đề án hỗ trợ đất sản xuất – đất ở – nhà ở – nước sinh hoạt cho hộ đồng
bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn ( Đề án 134); Dự án khuyến nông;
dự án xây dựng giao thông nông thôn; hỗ trợ điện, nước sinh hoạt cho người
nghèo; hỗ trợ dạy nghề và giải quyết việc làm, dự án hỗ trợ tín dụng ưu đãi cùng
nhiều dự án xây dựng bệnh viện, trường học nhằm nâng cao dân trí, chăm sóc sức
khoẻ cho người dân trong đó có bộ phận những người đói nghèo… Tất cả đều nói
lên tinh thần, trách nhiệm quan tâm, giúp đỡ của Đảng bộ thành phố Cần Thơ
trong việc chăm lo đời sống của bộ phận những người đói nghèo. Nhìn chung, qua
báo cáo kết quả thực hiện CTXĐGN của SLĐTB&XH, nếu tính chung trong
vòng 10 năm (1996 – 2006), số hộ đói ở Cần Thơ cơ bản đã giải quyết dứt điểm,
chỉ còn lại số hộ nghèo và những người cần trợ cấp xã hội, nhưng số lượng đã
giảm đáng kể, trung bình mỗi năm tỉ lệ hộ nghèo ở Cần Thơ giảm từ 1% - 2%. Có
thể thấy những cố gắng mà Đảng bộ và nhân dân thành phố Cần Thơ đã làm
được đối với CTXĐGN trong nhiều năm qua góp phần to lớn vào cuộc chiến chống
đói nghèo của địa phương cũng như cho cả vùng và cả nước.
Tuy nhiên, có một điều phải thừa nhận là CTXĐGN ở Cần Thơ trong 10
năm (1996 – 2006) mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhưng trên thực tế vẫn còn tồn tại
nhiều mặt hạn chế và nhìn chung kết quả thường không mang tính ổn định, lâu
dài. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan. Cụ

thể như có những gia đình trước đây mặc dù đã thoát nghèo nhưng sau một thời
gian làm ăn thua lỗ, hoặc do mùa màn thất bát, thiên tai, dịch bệnh, giá cả thị
trường biến động thất thường, trình độ dân trí thấp, gia đình đông con, do chính
sách xoá đói giảm nghèo chưa thoả đáng, hay do sự lãnh đạo của chính quyền địa
phương trong CTXĐGN còn nhiều bất cập…đã làm cho những gia đình này phải
rơi vào cảnh tái nghèo thậm chí còn nghèo hơn trước, cũng có trường hợp những

2


gia đình đã thoát nghèo nhưng sau đó do quy định mới của Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội nâng chuẩn nghèo cả nước lên thì những gia đình đang thoát
nghèo theo tiêu chí cũ lại rơi vào diện nghèo… Theo thống kê của SLĐTB&XH
thành phố Cần Thơ, tính đến cuối năm 2006, toàn thành phố có 23.243 hộ nghèo
(số liệu được tính theo tiêu chí mới của BLĐTB&XH đưa ra trong năm 2005),
chiếm tỷ lệ 9,46% hộ nghèo của toàn vùng. Có thể thấy tỉ lệ này vẫn còn chiếm
khá cao và hiện nó đang là một trở lực, thách thức lớn đối với CTXĐGN của địa
phương. Mặt khác, từ kết quả này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến chiến lược
phát triển kinh tế – xã hội khi mà Cần Thơ đang phấn đấu “Trở thành một trong
những địa phương ở Tây Nam Bộ đi đầu trong sự nghiệp CNH - HĐH, trở thành
thành phố đô thị loại I trước năm 2010 và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp
trước năm 2020, là một cực phát triển, đóng vai trò động lực thúc đẩy sự phát
triển của vùng” như Nghị quyết số 45/NQ – TW ngày 17/02/2005 của Bộ Chính
trị đã xác định.
Xuất phát từ những vấn đề vừa nêu trên, với mong muốn đóng góp một
phần công sức của mình trong việc tìm ra nguyên nhân, thành tựu và hạn chế,
cũng như rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử có ý nghóa về mặt khoa học và
thực tiễn trong quá trình triển khai thực hiện CTXĐGN của Đảng bộ Cần Thơ để
trong thời gian tới đạt được những kết quả tốt hơn. Với lý do đó, tôi đã mạnh dạn
chọn đề tài “ Đảng bộ thành phố Cần Thơ lãnh đạo và thực hiện công tác xoá

đói giảm nghèo ( 1996 – 2006)” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu chung về vấn đề xoá đói giảm nghèo trước đó đã nhận được sự
quan tâm rất lớn của các cấp uỷ Đảng. Sự quan tâm đó được thể hiện trong các
văn kiện, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Đảng bộ tỉnh

3


Cần Thơ trước đó và sau này là thành phố Cần Thơ cũng như trong các Nghị
quyết của các ban ngành đoàn thể và các tổ chức chính trị xã hội tại Cần Thơ.
Ngoài ra, đề tài này còn nhận được sự quan tâm sâu sắc của các tổ chức xã
hội trong và ngoài nước cùng các tác giả, các nhà nghiên cứu, các học giả lớn ở
nước ta. Tuy nhiên, do đây là lónh vực vẫn còn nhiều mới mẻ nên phạm vi nghiên
cứu vẫn chưa nhiều và nhìn chung các ý kiến chưa có sự thống nhất. Có thể đề
cập đến một vài công trình nghiên cứu tiêu biểu:
– Ở nước ngoài có công trình của Cơ quan Phát triển quốc tế Úc
( AusAID) nghiên cứu về “Hiện trạng đói nghèo tại vùng Đồng bằng sông Cửu
Long”, trong đó tổ chức này đã đầu tư cho các trường Đại học tại thành phố Hồ
Chí Minh, Đại học Cần Thơ và Đại học An Giang, mỗi trường phụ trách nghiên
cứu một vấn đề liên quan đến đói nghèo và đã đưa ra khá toàn diện bức tranh
chung về hiện trạng, nguyên nhân, kết quả và những kiến nghị, giải pháp giảm
nghèo tại khu vực ĐBSCL.
– Ngân hàng Thế giới (WB) cũng đưa ra “ Báo cáo về tình hình phát triển
thế giới tấn công đói nghèo” do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm
2000 tại Hà Nội, tác phẩm đề cập đến kết quả thực hiện CTXĐGN của nhiều
nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đồng thời nêu lên mối liên hệ giữa đói
nghèo với các lónh vực khác như: tăng trưởng kinh tế, thể chế chính trị, văn hoá,
y tế, giáo dục…
– Trong nước phải kể đến công trình của Bộ Lao động Thương binh và

Xã hội với “ Tài liệu tập huấn cán bộ giảm nghèo cấp xã, thôn, bản” do nhà xuất
bản Lao động – Xã hội xuất bản năm 2006 tại Hà Nội. Trong đó đề cập đến
những vấn đề về: Định hướng giảm nghèo của nước ta từ năm 2006 – 2010, quy
trình khảo sát xác định hộ nghèo và vai trò của cán bộ làm công tác giảm ngheøo

4


cấp xã, nhiệm vụ và hoạt động của ban giảm nghèo cấp xã. Bên cạnh còn đề cập
đến vấn đề giới trong xoá đói giảm nghèo.
– Về phía tác giả có:
Nguyễn Thị Hằng với tác phẩm: “Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nông thôn
nước ta hiện nay” do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 1997. Đây là
tác phẩm đã trình bày khá rõ nét về cơ sở lý luận của vấn đề đói nghèo, tiêu chí
để xác định hộ đói nghèo, đặc biệt, tác giả đã nêu lên được bức tranh chung về
thực trạng và nguyên nhân dẫn đến đói nghèo ở nước ta trong khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường. Trên cơ sở đó tác giả đề ra một số phương hướng, biện
pháp chủ yếu nhằm xoá đói giảm nghèo cho người dân ở nông thôn.
Cùng nghiên cứu về CTXĐGN còn phải kể đến tác phẩm: “ Thực trạng đói
nghèo và một số giải pháp xoá đói giảm nghèo đối với các dân tộc thiểu số tại chỗ
Tây Nguyên” do tác giả Bùi Minh Đạo chủ biên cùng với tác giả Bùi Thị Bích
Lan, tác phẩm được xuất bản năm 2005 tại Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà
Nội. Trong tác phẩm này, tác giả chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong một
không gian hẹp hơn, đó là chỉ tìm hiểu về thực trạng và nguyên nhân dẫn đến đói
nghèo của những người dân tộc thiểu số sống ở Tây Nguyên, trong đó tác giả
cũng đề xuất một số quan điểm và giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác xoá
đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại chổ Tây Nguyên.
Về phía công trình nghiên cứu khoa học phải kể đến luận án tiến só của
Nguyễn Hoàng Sơn với đề tài: “ Qúa trình thực hiện chính sách xoá đói giảm
nghèo của Đảng và Nhà nước trong cộng đồng người Khmer tại Đồng bằng sông

Cửu Long 1992 – 2002”. Trong luận án, tác giả đã trình bày khá rõ nét về đặc
điểm kinh tế xã hội của đồng bào Khmer tại ĐBSCL, hiện trạng đói nghèo trong

5


cộng đồng người Khmer. Qua đó, tác giả cũng đề xuất một số giải pháp, kiến
nghị nhằm nâng cao đời sống cho cộng đồng nơi đây.
Bên cạnh các công trình tiêu biểu nêu trên, trên các báo, tạp chí cũng đăng
nhiều bài viết của nhiều tác giả như: bài của TS.Nguyễn Minh Hoà nói về: “ Xoá
đói giảm nghèo dưới cái nhìn văn hoá truyền thống” đăng trên tạp chí thông tin lý
luận số 12 – 2000, trong đó tác giả chỉ ra sự khác nhau căn bản giữa Việt Nam
và các nước phát triển phương Tây trong việc đề ra các chính sách xã hội để thu
hẹp khoảng cách giàu nghèo. Theo tác giả, ở Việt Nam chủ trương xoá đói giảm
nghèo bằng phương thức dựa vào nội lực từ chính cộng đồng, từ chính người dân
và các tổ chức xã hội tự nguyện, trong khi đó các nước phát triển phương Tây lại
chủ trương giảm nghèo dựa trên nguồn lực của chính phủ.
Bài của tác giả Nguyễn Phương Nam có tiêu đề: “ Toàn cầu hoá và vấn đề
xoá đói giảm nghèo, phát triển bền vững trong những năm đầu thế kỷ XXI” được
đăng trên tạp chí khoa học xã hội số 2 (66) – 2004, trong đó tác giả chủ yếu đi
sâu lý giải sự tác động của toàn cầu hoá đối với vấn đề xoá đói giảm nghèo theo
hai hướng tích cực và tiêu cực. Hay bài của tác giả Nguyễn Đức Triều thì đề cập
đến vai trò của tổ chức Hội Nông dân trong CTXĐGN ở nước ta . Cụ thể tên của
bài viết là “ Hội nông dân Việt Nam trong công tác xoá đói, giảm nghèo” đăng
trên tạp chí Cộng sản số 24 ra tháng 8 – 2002.
Ngoài ra, còn có các tác giả với những bài viết khác cũng đề cập tới vấn
đề xoá đói giảm nghèo như: bài của tác giả Đặng Ngọc Quang “ Nâng cao năng
lực cộng đồng: một tiếp cận trong lónh vực giảm nghèo” đăng trên tạp chí Khoa
học xã hội số 8 (96) – 2006; bài của Nguyễn Hải Hữu “ Hướng tới giảm nghèo
toàn diện, bền vững, công bằng và hội nhập” được đăng trên tạp chí Cộng sản số 9

ra tháng 5 – 2006; Tạp chí Cộng sản số 20 ra tháng 10 – 2006 thì đăng bài của

6


tác giả Hà Thị Khiết với tên gọi “ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với hoạt động
xoá đói, giảm nghèo cho phụ nữ”; tác giả Hoàng Cảnh thì đề cập đến “ Công tác
dạy nghề, tạo việc làm và giảm nghèo ở Đồng bằng sông Cửu Long – thực trạng
và giải pháp” được đăng trên tạp chí Lao động và xã hội ra số 316 ( từ 1 –
15/8/2007)…
Nhìn chung, các bài viết nêu trên đề cập đến khá nhiều vấn đề về xoá đói
giảm nghèo nói chung và CTXĐGN nói riêng tại một số vùng trong cả nước,
trong đó nêu bậc thực trạng, nguyên nhân cũng như một số giải pháp để nâng cao
hiệu quả hoạt động của CTXĐGN. Tuy nhiên, đi sâu tìm hiểu cụ thể về
CTXĐGN trên địa bàn tỉnh Cần Thơ trước đây và thành phố Cần Thơ hiện nay
thì vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào phân tích, lý giải một cách cặn kẽ
về thực trạng, nguyên nhân, những thành tựu và hạn chế cũng như rút ra những
bài học kinh nghiệm trong CTXĐGN tại Cần Thơ. Mặc dù vậy nhưng những công
trình nghiên cứu, những bài viết nêu trên sẽ là nguồn tài liệu vô cùng quý báu, là
cơ sở để tác giả luận văn tiếp thu, kế thừa và phát triển.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của đề tài là nhằm đánh giá đúng thực trạng CTXĐGN ở Cần
Thơ trong giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2006 . Từ mục đích đó, đề tài có những
nhiệm vụ cụ thể như sau:
– Làm rõ những đặc điểm kinh tế – xã hội tác động đến đời sống sinh
hoạt của bộ phận những người đói nghèo tại Cần Thơ, nguyên nhân dẫn đến đói
nghèo và vị trí của CTXĐGN trong chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung,
của Cần Thơ nói riêng.
– Làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ Cần Thơ đối với CTXĐGN thông qua
những chủ trương, biện pháp thực hiện.


7


– Đánh giá kết quả thực hiện CTXĐGN ở Cần Thơ trong giai đoạn 10
năm 1996 – 2006.
– Rút kết những bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo, thực hiện
CTXĐGN của Đảng bộ Cần Thơ để trong thời gian tới đạt được kết quả tốt hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
– Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm: khách thể là Đảng bộ Cần
Thơ từ Thành uỷ đến chi bộ phường, xã, ấp. Đối tượng là sự lãnh đạo của Đảng
bộ Cần Thơ thông qua sự quán triệt chỉ đạo cấp trên và chủ trương, chính sách cụ
thể, trên cơ sở đó tiến hành triển khai thực hiện CTXĐGN đến cơ sở bằng nhiều
biện pháp như: điều tra, kiểm tra, đôn đốc, tổng kết và rút kinh nghiệm.
– Phạm vi nghiên cứu: về không gian là trên địa bàn thành phố Cần Thơ
bao gồm nội và ngoại thành, các quận, huyện, xã, ấp… – nơi có những hộ đói
nghèo sinh sống. Thời gian chỉ giới hạn trong 10 năm từ năm 1996 đến năm 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghóa
duy vật biện chứng và chủ nghóa duy vật lịch sử. Để giải quyết tốt mục đích và
nhiệm vụ của luận văn, tác giả còn sử dụng các phương pháp: phương pháp lịch
sử, phương pháp lôgíc, phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp, liên hệ thực tế,
cùng phối hợp với một số phương pháp khác.
6. Ý nghóa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã cung cấp khá đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về những tư
liệu, số liệu liên quan đến quá trình lãnh đạo, thực hiện CTXĐGN của Đảng bộ
Cần Thơ trong giai đoạn 10 năm từ 1996 đến năm 2006.
Ngoài ra, luận văn cũng đã làm rõ nguyên nhân dẫn đến đói nghèo ở Cần
Thơ và những chủ trương, biện pháp mà Đảng bộ Cần Thơ đã triển khai thực hiện


8


để nhằm giải quyết thực trạng đói nghèo trên địa bàn thành phố. Qua đó, luận
văn cũng nêu lên được những thành tựu và mặt hạn chế trong khi thực hiện
CTXĐGN của Đảng bộ Cần Thơ trong 10 năm 1996 – 2006, đồng thời rút ra một
số bài học kinh nghiệm để làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách
xoá đói giảm nghèo của Đảng bộ Cần Thơ nói riêng và Đảng và Nhà nước ta nói
chung trong thời gian tới đạt được những kết quả tốt hơn.
Những kết quả, kết luận trong luận văn có thể được sử dụng làm nguồn tư
liệu trong việc nghiên cứu và giảng dạy, làm cơ sở để dự báo, định hướng về
chiến lược xoá đói giảm nghèo tại nhiều địa phương trong cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài danh mục tài liệu tham khảo, bảng biểu, phụ lục, danh mục chữ viết
tắt, mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu gồm 2 chương, 6 tiết.

9


CHƯƠNG 1

NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG, NHÀ
NƯỚC VÀ SỰ QUÁN TRIỆT CỦA ĐẢNG BỘ CẦN
THƠ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 1996
1.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ – XÃ HỘI VÀ NHỮNG
NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐÓI NGHÈO TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ
1.1.1. Vị trí địa lý
Cần Thơ là thành phố nằm ở trung tâm ĐBSCL có diện tích tự nhiên
1.390km2, bên bờ Tây sông Hậu, cách biển đông 75km, cách thủ đô Hà Nội

1.877km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 169km. Phía bắc giáp tỉnh An Giang
và Đồng Tháp, phía nam giáp tỉnh Hậu Giang, phía tây giáp tỉnh Kiên Giang,
phía đông giáp tỉnh Vónh Long và Đồng Tháp.
Đơn vị hành chính: Cần Thơ có 8 đơn vị hành chính, bao gồm 4 quận: Ninh
Kiều, Bình Thuỷ, Ô Môn, Cái Răng và 4 huyện: Phong Điền, Cờ Đỏ, Thốt Nốt,
Vónh Thạnh trong đó Ninh Kiều là quận trung tâm của thành phố, Cần Thơ trở
thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương từ tháng 1 năm 2004 và là trung
tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ, văn hoá, khoa học – kỹ thuật của
vùng ĐBSCL.
Nằm ở khu vực bồi tụ phù sa nhiều năm của sông Mê Kông, có địa hình
rất đặc trưng cho dạng địa hình đồng bằng. Nơi đây có hệ thống sông ngòi, kênh
rạch chằng chịt trong đó sông Hậu là con sông lớn nhất với tổng chiều dài chảy
qua thành phố là 65km, tổng lượng nước đổ ra biển khoảng 200 tỷ m3/năm. Sông
Cái Lớn dài 20km, chiều rộng cửa sông 600 – 700m, độ sâu 10 – 12m nên có khả

10


năng tiêu, thoát nước rất tốt. Sông Cần Thơ dài 16km, đổ ra sông Hậu tại bến
Ninh Kiều, có nước ngọt quanh năm, vừa có tác dụng tưới nước trong mùa cạn,
vừa có tác dụng tiêu úng trong mùa lũ và có ý nghóa lớn về giao thông. Bên cạnh
đó, Cần Thơ còn có hệ thống kênh rạch nhỏ dày đặc, cho nước ngọt quanh năm
tạo điều kiện cho nhà nông làm thuỷ lợi và cải tạo đất.
Cần Thơ có khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ trung bình trong năm là 270C, lượng mưa trung bình 1.500 –
1.800mm/năm, tổng số giờ nắng trong năm từ 2.300 – 2.500 giờ, độ ẩm trung
bình đạt 83%.
Tài nguyên đất và khoáng sản: có nguồn tài nguyên đất đai màu mỡ, nhất
là khu vực phù sa ngọt được bồi đắp thường xuyên, thích hợp cho canh tác lúa,

cây hoa màu, cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả đặc sản
nhiệt đới, tạo điều kiện để Cần Thơ phát triển nông nghiệp theo hướng toàn diện.
Do nơi đây là vùng đồng bằng nên tài nguyên khoáng sản ở Cần Thơ không
nhiều, chủ yếu là sét ( gạch, ngói), sét dẻo, than bùn và cát sông, trữ lượng than
bùn chiếm khoảng 30 – 150 nghìn tấn, những tài nguyên khoáng sản này được
dùng vào sản xuất các ngành tiểu thủ công nghiệp và xây dựng.
Như vậy, với vị trí ở trung tâm ĐBSCL, Cần Thơ có những đặc trưng cơ
bản về điều kiện tự nhiên của cả vùng, tạo điều kiện để phát triển ngành nông
nghiệp trong đó chủ yếu là cây lúa, cây ăn trái cùng nhiều loại cây trồng ngắn
ngày khác có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, cần phải có những biện pháp đầu tư
vốn và khoa học kỹ thuật, khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường để từ
đó góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân nơi đây.

11


1.1.2. Đặc điểm kinh tế – xã hội:
1.1.2.1.Về kinh tế
Trong giai đoạn 2001 – 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) của Cần
Thơ bình quân đạt 13,5%/năm, trong đó nền kinh tế có sự chuyển dịch theo
hướng giảm tỷ trọng khu vực 1, còn khu vực 2, 3 tăng dần. Cụ thể trong năm
2005, cơ cấu kinh tế Cần Thơ là thương mại, dịch vụ chiếm 44,08%, công nghiệp,
xây dựng chiếm 38,16% và nông nghiệp 17,76%. Có thể khái quát đặc điểm
kinh tế của Cần Thơ qua một số ngành chủ yếu sau:
a. Đối với các ngành thuộc khu vực 1 (Nông, lâm nghiệp – thuỷ sản):
Nông nghiệp: Do có vị trí thuận lợi, nước ngọt quanh năm đã tạo điều kiện
cho sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh mẽ. Cần Thơ có diện tích đất nông
nghiệp 115.703,03ha chiếm 82,59% diện tích đất của thành phố, trong đó diện
tích lúa là 92.820,18ha, đất trồng cây hàng năm 94.736,67ha, đất trồng cây lâu
năm 19.643,16ha, số còn lại dùng vào những mục đích khác. Gía trị sản xuất

nông nghiệp của Cần Thơ năm 2004 là 2.850,4 tỷ đồng trong đó giá trị của trồng
trọt thường chiếm trên 87%, phần còn lại là của chăn nuôi và dịch vụ nông
nghiệp. Trong trồng trọt sản phẩm chủ yếu là cây lúa kết hợp với các loại cây ăn
quả, cây hoa màu và cây lâu năm. Trong những năm trở lại đây do ảnh hưởng của
thời tiết thay đổi thất thường làm phát sinh nhiều dịch bệnh nên ít nhiều đã làm
cho năng suất cây trồng giảm về số lượng và chất lượng, mặt khác, giá cả nông
sản có sự dao động, lên xuống thất thường làm ảnh hưởng đến thu nhập của người
dân, đặc biệt là đối với những hộ nghèo khiến cho cuộc sống của họ càng thêm
khó khăn. Ngoài trồng trọt, ngành chăn nuôi cũng được chú trọng, mỗi năm giá trị
sản xuất ngành này chiếm khoảng 7% trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp.
Chủ yếu là chăn nuôi trâu, bò, heo và các loại gia cầm dùng để lấy thòt. Tuy

12


nhiên, do ảnh hưởng của dịch cúm nên số lượng gia súc, gia cầm ở Cần Thơ cũng
giảm đáng kể.
Lâm nghiệp: Lâm nghiệp ở Cần Thơ kém phát triển do không có rừng tự
nhiên, lượng gỗ dùng làm nhà ở và vật dụng trong nhà còn ít và thiếu, hàng năm
phải nhập từ các vùng khác. Thành phố chỉ trồng được cây phân tán và đã trồng
được 985ha năm 2000, đến năm 2004 diện tích này giảm xuống còn 741ha do
quy hoạch đô thị, chủ yếu trồng tràm, bạch đàn.
Thuỷ sản: Nằm ở vị trí là đồng bằng nên Cần Thơ không có biển, nguồn
lợi thuỷ sản chủ yếu trông chờ vào mùa nước lũ hàng năm. Từ sau năm 2000 đến
nay, do có sự khuyến khích, đầu tư của Nhà nước nên nhiều hộ dân đã mạnh dạn
áp dụng nhiều chương trình nuôi thuỷ sản bằng nhiều hình thức như: nuôi cá ba sa
bằng bè, đăng quầng, nuôi bằng lồng, hay nuôi cá thác lác cườm… Tuy nhiên,
hiệu quả kinh tế mang lại vẫn chưa cao do người dân chưa có nhiều kinh nghiệm
cũng như kỹ thuật trong việc nuôi trồng thuỷ sản.
b. Đối với các ngành thuộc khu vực 2 (Công nghiệp – xây dựng):

Công nghiệp: Từ năm 1986 đến nay, ngành công nghiệp Cần Thơ đã có
bước phát triển đáng kể. Số lượng xí nghiệp, nhà máy được sắp xếp lại với quy
mô, số lượng ngày càng nhiều, doanh nghiệp nhà nước có giảm so với trước, nhất
là từ năm 2000 đến nay một số doanh nghiệp nhà nước được chuyển sang công ty
cổ phần. Ngoài ra cùng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế đã làm cho
sản xuất công nghiệp phát triển đa dạng về quy mô sản xuất, trình độ công nghệ,
chủng loại, chất lượng sản phẩm, từng bước đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất
khẩu. Do số lượng cơ sở sản xuất công nghiệp ngày càng tăng nên thu hút nhiều
lao động, từ đó giải quyết công ăn, việc làm cho người dân. Năm 2004, toàn
thành phố có 5.357 cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, trong đó

13


doanh nghiệp nhà nước 21 cơ sở với 13.329 lao động, kinh tế tập thể 10 cơ sở với
746 lao động, kinh tế tư nhân 250 cơ sở với 3.439 lao động, kinh tế cá thể 4.972
cơ sở với 20.193 lao động, kinh tế hỗn hợp 93 cơ sở với 8.104 lao động, liên
doanh 4 cơ sở với 596 lao động và 100% vốn nước ngoài 7 cơ sở với 2.334 lao
động. Nhìn chung, các cơ sở công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đều tập trung
vào các ngành: công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, may mặc, giày da,
hoá chất, công nghiệp cơ khí và công nghiệp vật liệu xây dựng như: thép, xi
măng…do có sự gia tăng của các cơ sở sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp nên giá trị sản xuất công nghiệp ở Cần Thơ cũng tăng đều qua các năm.
Cụ thể năm 1995 giá trị sản xuất công nghiệp (bao gồm tỉnh Hậu Giang và thành
phố Cần Thơ hiện nay) là 1.529 tỉ đồng, năm 2000 là 4.610 tỉ đồng và năm 2004
giá trị sản xuất công nghiệp của riêng thành phố Cần Thơ là 8.612 tỉ đồng. Hiện
nay các cơ sở công nghiệp tập trung chủ yếu tại các khu công nghiệp Trà Nóc,
Hưng Phú, Thốt Nốt, Cái Sơn – Hàng Bàng.
Trong xây dựng phát triển: Giai đoạn 1986 – 2004, vốn đầu tư phát triển
cơ sở hạ tầng được huy động từ nhiều nguồn vốn của toàn xã hội với cơ cấu đầu

tư ngày càng hợp lý, chủ yếu là xây dựng đường xá, cầu, trường học, bệnh
viện…Năm 2004, thành phố có 521,4km đường nhựa gấp 5,3 lần so với năm 1986.
Do nhu cầu phát triển nông thôn nên hệ thống đường xi măng và đường đất ở đây
cũng tăng lên đáng kể. Với phương chăm “ Nhà nước cùng nhân dân xây dựng
giao thông”, đến nay sau khi tách tỉnh năm 2004, gần 80% các xã, phường đều có
đường ô tô đến trung tâm xã, giao thông nông thôn đã cơ bản ấp liền ấp, ấp liền
xã. Tuy nhiên, bên cạnh vẫn còn một số xã thuộc vùng sâu, vùng xa vẫn còn
đường đất, số lượng cầu khỉ, cầu ván còn nhiều.

14


c. Đối với các ngành thuộc khu vực 3 ( thương mại – dịch vu)ï:
+ Về nội thương: Đây là ngành có số doanh nghiệp chiếm số lượng nhiều
thứ hai sau công nghiệp chế biến với nhiều thành phần kinh tế tham gia kinh
doanh. Số lượng hộ kinh doanh thương nghiệp và dịch vụ tăng nhanh từ 19.004
đơn vị năm 1996 tăng lên 32.965 đơn vị năm 2004, tổng mức bán lẻ hàng hoá
ngày càng tăng phản ánh mức sống của dân cư đã được cải thiện, thu nhập của
đại bộ phận dân cư có sự phát triển.
Tính đến cuối năm 2004, trên địa bàn Cần Thơ có 90 chợ các loại bao
gồm: 67 chợ đã quy hoạch, 23 chợ chưa quy hoạch, thành thị có 30 chợ, nông
thôn có 60 chợ trong đó có hai chợ nổi: Cái Răng, Phong Điền. Ngoài ra tại thành
phố còn có 1 trung tâm thương mại, 4 siêu thị, từ đó phục vụ nhu cầu mua sắm
của người dân.
+ Về ngoại thương: Trong giai đoạn 1986 – 2004 hoạt động ngoại thương
ở Cần Thơ phát triển khá mạnh, đã xuất khẩu, nhập khẩu đến hầu hết các nước
trên thế giới trong đó chủ yếu xuất khẩu hàng nông thuỷ sản và chế biến như:
tôm, cá ba sa, gạo, các mặt hàng may mặc…riêng nhập khẩu các tư liệu, máy móc
phục vụ cho sản xuất.
Du lịch: Cần Thơ với lợi thế là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, là đô

thị lớn của vùng ĐBSCL, là đầu mối giao thông nối liền với các tỉnh trong khu
vực nên du lịch ở Cần Thơ cũng phát triển khá mạnh. Trong những năm qua, nơi
đây đã đầu tư, xây dựng các điểm du lịch vườn mang đậm sắc thái Nam Bộ nhằm
thu hút khách tham quan trong và ngoài nước, hiện nay Cần Thơ có các điểm du
lịch nổi tiếng như: bến Ninh Kiều, chợ nổi Cái Răng, làng du lịch Mỹ Khánh,
Cồn u, Cồn Sơn, vườn cò Bằng Lăng, các di tích lịch sử, văn hoá như: đình Bình

15


Thuỷ, chùa Khánh Quang, chùa Nam Nhã, mộ nhà thơ Phan Văn Trị, bảo tàng
Cần Thơ…mỗi năm Cần Thơ cũng thu được rất nhiều lợi nhuận từ ngành này.
1.1.2.2. Về văn hoá – xã hội
Dân số – lao động: Năm 2004, dân số Cần Thơ là 1.127.765 người, trong
đó khu vực nông thôn là 565.686 người chiếm 50,16%, khu vực thành thị là
562.079 người chiếm 49,84%. Ở Cần Thơ trong những năm trở lại đây, do nhu
cầu cuộc sống, việc làm và học hành nên dân số đô thị tăng nhanh, nếu như năm
1995 dân số nông thôn chiếm 70,52% trong tổng số dân số thì đến năm 2004 tỷ lệ
này giảm còn 50,16%. Mật độ dân số ở Cần Thơ đạt 811 người/km2. Thành phố
tập trung nhiều dân tộc sinh sống, trong đó người Kinh chiếm số lượng lớn nhất:
1.092.372 người chiếm 96,86%, người Hoa chiếm 15.717 người chiếm 1,39%,
Khơmer 19.075 người chiếm 1,69%, các dân tộc khác 601 người chiếm 0,05%,
phần lớn dân cư sống tập trung ở khu vực thành thị và ven sông rạch, ven lộ.
Lực lượng lao động: số người trong độ tuổi lao động năm 2004 là 699.835
người trong đó lao động tham gia ngành kinh tế quốc dân: 487.375 người. Trong
cơ cấu này có 52,50% là lao động nông nghiệp và 47,8% là lao động phi nông
nghiệp. Lao động trong độ tuổi còn đi học là 49.203 người vào năm 2004 trong đó
chủ yếu là học sinh, sinh viên đang học tại các trường trung học phổ thông, trung
học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học. Đối với lao động dự trữ, nếu trừ đi số học
sinh trong độ tuổi lao động, nội trợ, mất sức lao động và số người không có nhu

cầu việc làm thì lực lượng thất nghiệp ở Cần Thơ còn khá nhiều: 40.205 người
chiếm 5,75% tổng số lao động xã hội. Do đó, việc sử dụng hợp lý và có hiệu quả
nguồn lao động dồi dào của thành phố Cần Thơ là một công tác kinh tế – chính
trị quan trọng hàng đầu của thành phố hiện nay, nó gắn liền với việc giải quyết
nhiều vấn đề xã hội khác như: đói nghèo, tệ nạn xã hội, giáo dục… Bên cạnh đó,

16


chất lượng lao động ở Cần Thơ vẫn còn thấp, thể hiện tỷ lệ biết đọc, biết viết chỉ
chiếm 89,60% trong đó tiểu học là 49,62%, trung học cơ sở 27,56%, trung học
phổ thông: 9,94%, cao đẳng: 0,40%, đại học: 0,91%, trên đại học: 0,03%.
Công tác khoa học, giáo dục – đào tạo: Năm 2004, Cần Thơ đã đạt chuẩn
phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Toàn thành phố có 21 trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp và dạy nghề; 1400 điểm trường học (trực thuộc 511
trường) với tổng số 7.484 phòng trong đó 6.385 phòng học kiên cố. Trong 511
trường có: Nhà trẻ, mẫu giáo, mầm non: 83 trường; phổ thông các cấp: 428 trường
trong đó có 1 trường nội trú; 8 trung tâm dạy nghề thường xuyên và 4 trung tâm
kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp, dạy nghề. Cần Thơ có trường Đại học Cần Thơ
– nơi tập trung tiềm lực khoa học – kỹ thuật, công nghệ của vùng ĐBSCL, có
viện lúa ĐBSCL và các trung tâm công nghệ phần mềm. Vì thế, nơi đây đã trở
thành nơi quy tụ đội ngũ cán bộ khoa học khá đông, có trình độ và kinh nghiệm,
đã nghiên cứu nhiều công trình áp dụng có hiệu quả tiến bộ khoa học - kỹ thuật
trong và ngoài nước vào sản xuất. Tuy nhiên, ngoài những thành tựu đạt được,
trong lónh vực giáo dục – đào tạo vẫn còn nhiều hạn chế, đó là lực lượng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vẫn còn thấp so với yêu cầu, nhất là đối với những cán bộ khoa
học đầu ngành, chuyên gia giỏi. Mặt khác, công tác sử dụng, bố trí cán bộ chưa
hợp lý, chủ yếu tập trung tại các cơ quan cấp thành phố, còn tại các cơ sở huyện,
phường, xã, vẫn còn thiếu nhiều cán bộ và trình độ thấp.
Về y tế: Cần Thơ tập trung khá nhiều bệnh viện và các cơ sở y tế từ tuyến

quận, huyện đến xã, phường với chất lượng phục vụ, khám chữa bệnh đã đi vào
nề nếp và ngày càng được nâng cao. Năm 2004 cả thành phố có 7 bệnh viện và
nhiều trung tâm y tế. Ngoài ra, còn có 872 cơ sở y tế tư nhân tập trung chủ yếu tại
các trung tâm quận, huyện. Về đội ngũ y, bác só, tính đến năm 2005, ngành y tế

17


Cần Thơ có 2.625 bác só trong đó y đức và tay nghề của đội ngũ y, bác só có nhiều
tiến bộ, hiện có 1 tiến só, 9 thạc só, 160 bác só chuyên khoa cấp 1, 4 bác só chuyên
khoa cấp 2, 520 bác só, 13 cử nhân điều dưỡng, 604 y só và 1.834 cán bộ y tá
khác. Chỉ số bác só phục vụ bình quân 1 bác só / 2.268 dân. Cần Thơ cũng rất
quan tâm đến công tác chăm sóc, bảo vệ bà mẹ, trẻ em, nhờ vận động nhân dân
thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại nên đến
năm 2005, tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ 3 thấp, duy trì mức giảm sinh còn 0,1‰, tỷ
lệ tử vong trẻ sơ sinh giảm từ 8,4/10.000 năm 2000 xuống còn 6/10.000 năm
2005. Các chương trình y tế quốc gia, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân
được triển khai thực hiện đạt kết quả cao, công tác tiêm ngừa và cho trẻ uống
vắc-xin phòng ngừa các bệnh bại liệt, bệnh viêm não Nhật Bản, siêu vi gan B…
đã được thực hiện tốt.
Mặc dù vậy, nhìn chung hệ thống cơ sở y tế ở Cần Thơ phân bố không
đồng đều, các cơ sở y tế hiện đại tập trung chủ yếu tại trung tâm thành phố, còn
đối với tuyến huyện, xã vùng sâu, vùng xa hệ thống bệnh viện cũng như đội ngũ
y bác só , thiết bị y tế còn thiếu nhiều, chất lượng phục vụ chưa chu đáo, do đó
mỗi khi có trường hợp bệnh nặng thì phải chuyển bệnh nhân lên các bệnh viện tại
thành phố nên tốn nhiều thời gian và công sức của người dân. Mặc khác, do ý
thức của người dân vẫn chưa được nâng cao, công tác tuyên truyền còn hạn chế
nên vẫn còn nhiều gia đình ở nông thôn sinh nhiều con do họ còn quan niệm trời
sinh trời nuôi, từ đó làm cho đời sống của người dân lâm vào cảnh đói nghèo.
Trong lónh vực văn hoá: Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, phát thanh,

truyền hình…ngày càng chất lượng và phổ biến đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của
người dân. Tuy nhiên, do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên nhu cầu hưởng thụ
văn hoá tinh thần của người nghèo còn hạn chế.

18


Hệ thống điện, nước: Hệ thống điện, nước của thành phố có khả năng đáp
ứng nhu cầu của các nhà đầu tư cũng như nhu cầu sinh hoạt hằng ngày của người
dân với các nhà máy nhiệt điện Trà Nóc, Ô Môn có công suất từ 200 – 1200MW.
Mặc dù vậy nhưng thực tế vẫn còn không ít hộ dân vẫn chưa có nước sạch sinh
hoạt, chủ yếu dùng nước sông, ao, hồ… tình trạng này thường thấy ở nông thôn.
Kết cấu hạ tầng:
Giao thông: Cần Thơ là nơi quy tụ nhiều đầu mối giao thông quan trọng
trong đó:
+ Đường bộ: Quốc lộ 1A chạy qua thành phố Cần Thơ dài 40km là tuyến
giao thông huyết mạch nối Cần Thơ với thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh, thành
phố trong vùng và cả nước; quốc lộ 91 dài 30 km nối cảng Cần Thơ, sân bay Trà
Nóc, khu công nghiệp Trà Nóc với quốc lộ 1A.
+ Đường thuỷ: Thành phố có hai cảng lớn là cảng Cần Thơ và cảng Cái
Cui. Trong đó cảng Cần Thơ là cảng quốc tế, có thể đón tàu trọng tải 10 nghìn
tấn, cảng Cái Cui hiện đang được xây dựng để đón tàu trọng tải 20 nghìn tấn với
công suất giao nhận khoảng 4,2 triệu tấn hàng hoá/năm. Ngoài ra, hệ thống kênh
rạch chằng chịt đã tạo điều kiện thuận lợi cho các phương tiện vận tải thuỷ hoạt
động.
+ Đường hàng không: Cần Thơ có sân bay Trà Nóc đang được nâng cấp,
mở rộng để mở đường bay tới các tỉnh, thành phố trong cả nước. Trong tương lai,
sân bay Trà Nóc sẽ mở rộng đường bay đến các nước trong khu vực Đông Nam
Á.
Do giao thông thuận lợi nên việc đi lại của người dân nơi đây cũng dễ

dàng, thuận tiện hơn, từ Cần Thơ có thể đi liền với các tỉnh khác trong khu vực và
cả nước cũng như nước ngoài. Ngoài ra, mạng lưới thông tin liên lạc tại Cần Thơ

19


×