THỰC HIỆN CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC
THỰC HIỆN CÔNG TÁC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NÔỊ.
2.1.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ THỰC
TRẠNG ĐÓI NGHÈO.
2.1.1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI.
2.1.1.1. ĐẶC ĐIỂM, VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI.
Hà Nội nằm ở trung tâm đồng bằn sông Hồng, trong phạm vi từ 20
.
53’đến
21
.
23’ vĩ đô bắc và từ 105
.
44’ đến 106
.
02’ kinh độ đông. Hà Nội tiếp giáp với 5
Tỉnh: Thái Nguyên ở phía Bắc; Bắc Ninh, Hưng Yên ở phía Đông; Vĩnh Phúc ở
phía Tây; Hà Tây và Hà Nam ở phía Nam. Hà Nội có diện tích tự nhiên là 927,39
Km
2
và dân số là 2.560.00 người; chiếm 0,28% về diện tích tự nhiên và 3,14% về
dân số cả nước.
Hà Nội có vị trí địa lý rất quan trọng và ưu thế đặc biệt đối với địa phương
khác. Nghị quyết 15/NQ-TW, ngày 15 tháng 12 năm 2000 đã xác định : “ Hà Nội
là trung tâm đầu não chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá,
khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước”. Hà Nội đi các Thành
phố, Thị xã của Bắc Bộ cũng như cả nước rất dễ dàng bằng cả đường bộ, đường
sắt, đường thuỷ và hàng không.
Hà Nội là nơi tập trung các cơ quan Ngoại giao đoàn, các Đại sứ quán, các
tổ chức quốc tế. Hà Nội còn nơi tập trung các cơ quan đầu não, đông đủ các cán bộ
có kinh nghiệm sẽ là điều kiện tốt về trí tuệ giúp Hà Nội trong việc hoạch định
chính sách phát triển kinh tế.
Hà Nội mang sắc thái đặc trưng của khí hậu vùng với đặc điểm khí hậu nhiệt
đới gió mùa. Từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa hạ, khí hậu ẩm ướt, mưa nhiều. Từ
tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa đông lạnh (thời kỳ đầu thường khô nhưng
đến nửa cuối mùa đông lại thường ẩm ướt). Giữa hai mùa là thời kỳ chuyển tiếp
tạo cho Hà Nội bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Nên nhiệt độ khá đồng đều và khá
cao. Nhiệt độ trung bình năm đạt tới 23
.
- 24
.
. Hai tháng nóng nhất là tháng 6 đến
tháng 7, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất xảy ra vào tháng 7 với nhiệt độ xấp xỉ
29
.
. Nhiệt độ trung bình vào mùa đông là 17
.
. Tháng lạnh nhất là tháng 1, ở thời
gian này nhiệt độ tối thiếu trung bình thường 13
.
nhiệt độ tối thấp quan sát được
xuống tới 2,7
.
. Biên độ nhiệt độ trong năm khoảng 12
.
- 13
.
. Biên độ cao dao động
nhiệt độ ngày đêm khoảng 6
.
- 7
.
. Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm của
Thành phố Hà Nội là 82% và cùng ít thay đổi theo tháng, thường chỉ dao động
trong khoảng 78% - 87%. Lượng mưa của Hà Nội phân bố khá đồng đều và trung
bình hàng năm khoảng 1600 - 1800 mn.
2.1.1.2. ĐẶC ĐIỂM VỀ KINH TẾ XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ HÀ
NỘI.
Chiến tranh kèo dài, kinh tế suy thoái trong những năm 70 và 80, quy mô
dân số qua các năm đều tăng nhanh (năm 1990 có: 2.051.900 người, năm 1993 có:
2.219.700 người, năm 1998 có: 2.556.500 người) đã gây nên những tác đông tiêu
cực đến chất lượng, số lượng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nhà đất và di sản kiến trúc
phong phú của Thành phố.Yêu cầu cho tài chính phúc vụ cho chiến tranh đã hạn
chế nguồn tài nguyên cần thiết để tiếp tục bảo dưỡng duy trì các dịch vụ đô thị và
xây dựng hệ thống hạ tầng mới. Sự không ổn định về kinh tế đã làm cho suy thoái
thêm hế thống hạ tầng cơ sở, hệ thống giao thông và điều kiện về nhà ở.
Theo số liệu điều tra năm 1989, diện tích nhà ở Hà Nội khoảng 4 km
2
/
người, khoảng 7% số hộ gia đình có diện tịch nhà ở dưới 2%/ người. Hơn nửa
khoảng 70% nhà ở của Hà Nội tồi tàn, 10% rách nát không phù hợp để sống. Sự
bùng nổ của thị trường nhà đất không có quy hoạch đã làm cho hộ dân tập trung
đông ở các vùng đất nông nghiệp có ý nghĩa kinh tế quan trọng, lẫn chiếm hàng
lang các trục đường giao thông chính làm cho người nghèo không có điều kiện cải
thiện đời sống của họ. Theo số lượng thống kê cho thấy số lượng người thất nghiệp
của Thành phố thấp nhất khoảng 100.000 người, trong khi kết quả khảo sát cho
thấy có khoảng 30% số hộ mức sống được cải thiện từ năm 1993 và 13% số hộ còn
nghèo hơn trước đây, có 2.13% hộ nghèo. Khoảng 30%-40% trẻ em dưới năm tuổi
có mức ăn không phù hợp và thiếu cân đối.
* Cơ cấu kinh tế có chuyển biến quan trọng: Ngành sản xuất công nghiệp
ngày càng có tỷ trọng cao trong cấu thành giá trị tổng sản phẩm trong nước. Từ
năm 1990-1998, tỷ trọng công nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế Thủ đô (Tính theo
GDP) tăng từ 29,0% năm 1990 lên 34,9% năm 1996 và 36,2% năm 1998 tỷ trọng
gia trị tổng sản phẩm trong của ngành nông - lâm nghiệp và tổng thuỷ sản giảm từ
9,0% năm 1990 xuống còn 5,1% năm 1996 và 4,3% năm 1998.
* Trình độ, năng lực quản lý kinh doanh: Đã được nâng lên rõ rệt. Tăng
bước thích ứng với kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhiều loại sản
phẩm hàng hoá dịch vụ đã được cải tiến về chất lượng, mẫu mã và phương thức
phúc vụ nhờ đó đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước, một loại đã xuất khẩu
với số lượng ngày càng lớn.
* Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh: Khu vực có vốn đầu tư nước ngoại
tăng tỷ trọng từ 3,2% trong tổng giá trị GDP năm 1993 lên 11,1% năm 1998. Thị
trường xuất nhập khẩu được mở rộng. Tổng kim ngạch xuất địa phương tăng từ
81,7 triệu USD năm 1990 lên 161 triệu USD năm 1995 và 306 triệu USD năm
1998.
Vốn đầu tư từ nước ngoại vào Hà Nội tăng rất nhanh. Tính đến tháng 12
năm 1998 đã có tổng 342 dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoại với tổng số vốn
đăng ký là 8838 triệu USD; vốn đã thực hiện được đạt 3837 triệu USD, bằng 35%
vốn đăng ký. Bình quân hàng năm từ 1990-1998 tốc độ tăng vốn đầu tư nước ngoại
vào Hà Nội là 52,2%/ năm. Thời kỳ đầu, vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào lĩnh
vực thương mại, du lịch, dịch vụ, nhưng 3 năm gần đây đáng chú ý đầu tư vào lĩnh
vực sản xuất công nghiệp và xây dựng cơ cấu hạ tầng.
* Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng đô thị đạt kết quả cao: Thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XI và chương thình “ Quy
hoạch xây dựng đô thị” của Thành uỷ, bộ mặt Thủ đô trong những năm qua có
nhiều thay đổi. Đã tiến hành điều chỉnh quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội. Thủ
đô năm 2010 và năm 2020 trình Chính phủ duyệt. Hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết
một số dân cư, khu, cụm công nghiệp, cải tạo một bước phố cổ, phố cũ; quy hoạch
xung quanh Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, Trúc Bách, khu trung tâm Ba Đình... Một số
quy hoạch đã được công bố, công khai và giao cho chính quyềh Nhà nước các cấp
quản lý.
- Về giao thông:Được mở rộng ra ngoại ô: Hệ thống đường nội thành được
cải tạo đáng kể. Đang tích cực khai triển xây dựng hệ thống đường vánh đai, các
đường trực hướng tâm; xây dựng và duy trì đèn chiếu sáng cho trên 2.000 km
đường phố.
Đã sắp xếp lại tổ chức vận tải hành khách, duy trì hệ thống xe buýt, mở rộng
và nâng cấp hệ thống bến bãi. Phương tiện vận tải hành khách, phát triển mới xe
TAXI đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân.
- Về hệ thống tin liên lạc: Được hiện đại hoá nhanh theo hướng điện tử và
số mạng viễn thông.
- Về hệ thống cấp thoát nước,và lưới điện: Được cải tạo và nâng cấp một
bước; các công trình văn hoá và phúc lợi công cộng được mở rộng và có chất
lượng phúc vụ cao hơn. Trật tự, vệ sinh đô thị, công tác quản lý và bảo vệ môi
trường có chuyển biến rõ rệt.
* Văn hoá xã hội Thủ đô có chuyển biến tốt.
- Về công tác giáo dục và đào tạo; Đã đa dạng hóa các loại hình trường lớp,
tiến hành phổ cấp giáo dục cấp I và đang phổ cấp giáo dục cấp II. Nội dung giáo
dục được cải tiến, chất lượng được giữ vững, có một số mặt được nâng cao, đã
hoàn hành việc tách cấp I và II; cơ sở vật của các trường được nâng cấp khá.
- Về mạng lưới khám chữa bệnh: Trong toàn Thành phố bước đã được sắp
xếp lại. Y tế cơ sở được quan tâm, đảm bảo việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho
người dân. Các chương trình y tế quốc gia chỉ đạo thực hiện tốt, đặc biệt là chương
trình tiêm chủng mở rộng, 98%-99% số trẻ em trong độ tuổi tiêm đủ 6 loại vắc xin,
Công tác kế hoạch hoá gia đình được triển khai tích cực. Tỷ lệ sinh hàng năm giảm
đáng kể 6,7% (năm 1998).
- Về hoạt động văn hoá ,văn nghệ: Phát triển phong phú , đa dạng, phong
trào văn hoá quần chúng được khơi dậy mạng lưới thông tin đại chúng được mở
rộng. Trình độ và phạm vi hưởng thụ văn hóa trong nhân dân tăng lên rõ rệt, các
chính sách xã hội được tổ chức thực hiện khá tốt dưới hình thức như: Xây dựng
nhà tình nghĩa, bảo trợ bà mẹ anh hùng, liệt sỹ cô đơn, nuôi dưỡng thương binh
nặng tại gia đình, xây dựng trung tâm bảo trợ xã hội.
* Sản xuất công nghiệp:
Tính đến cuối năm 1998 Hà Nội có 271 doanh nghiệp quốc doanh, trong đó
có 167 doanh nghiệp quốc doanh Trung ương; 1400 doanh nghiệp công nghiệp
ngoại quốc doanh trong đó: 171 HTX, 40 Doanh nghiệp tư nhân, 240 hỗn hợp và
13558 hộ kinh doanh cá thể. Hà Nội là nơi tập trung công nghiệp cao nhất ở Bắc
Bộ và đứng thứ hai của cả nước. Tỷ lệ GDP công nghiệp trong cơ cấu kinh tế Hà
Nội chiếm 36,2% và đang có chiếu hướng gia tăng.
Trong cơ cấu ngành công nghiệp Thủ đô hình thành 4 nhóm ngành then chốt
là: Cơ khí (20%-23%); Dệt - da - may (22%-25%); Lương thực- thực phẩm (16%-
18%); Đồ điện - điện tử (5%-8%); Đáng chú ý là sản phẩm của công nghiệp Thủ
đô chất lượng ngày càng cao, có trên 40 sản phẩm được tiêu dùng rộng rãi trên cả
nước. Công nghiệp Hà Nội đóng góp khoảng 40% tổng thu Ngân sách và 70% kim
ngạch xuất nhập khẩu của Thành phố.
* Dịch vụ: Lĩnh vực thương mại - dịch vụ - du lịch của Hà Nội phát triển
nhanh chóng trong nền kinh tế thị trường. Bình quân năm 1995 tốc độ tăng trưởng
của lĩnh vực dịch vụ đạt 13,4%/ năm và bình quân năm 1998 đạt 11,7%, tỷ lệ GDP
của ngành dịch vụ chiếm từ 59%-60% trong cấu thành GDP của kinh tế Thủ đô.
- Hoạt động du lịch phát triển mạnh cả khu vực kinh tế quốc doanh và
ngoài quốc doanh. Năm 1998 trên địa bàn Thành phố có 280 khách sản nhỏ lớn
trong đó có: 91 khách sản quốc doanh, 13 khách sản liên doanh và 176 khách sản
ngoại quốc doanh và đã có 20 khách sản được xếp hàng từ 1 đến 5 sao.
- Thương mại được nâng mở rộng và nâng cao chất lượng. Tổng mức bán
lẻ hàng hoá và dịch vụ trên thị trường xã hội, tăng bình quân năm 1998 là 28,3%.
Hà Nội là nơi phát triển luồng phúc vụ phần lớn nhu cầu hàng hoá dịch vụ cho các
tỉnh Bắc Bộ. Tổng kim ngạch tăng 370 triệu USD năm 1998.
- Các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng: Nhìn chung đã vượt qua giai
đoạn lúng túng, từng bước mở rộng và cơ bản đáp ứng được nhu cầu về sản xuất và
đời sống. Các ngân hàng Trung ương và ngân hàng địa phương đã đi vào nề nếp có
khá nhiều ngân hàng nước ngoài có chi nhánh tại Hà Nội . Đến năm 1997 trên địa
bàn Thành phố có74 tổ chức tín dụng và chi nhánh tổ chức tín dụng, 23 chi nhánh
ngân hàng và các tổ chức ngân hàng thương mại quốc doanh, 15 ngân hàng và chi
nhánh ngân hàng thương mại cổ phần, 1 quỹ tín dụng Trung ương, và 9 quỹ tín
dụng ở cơ sở, 1 ngân hàng phúc vụ người nghèo và 9 chi nhánh... Mạng lưới dịch
vụ ngân hàng tài chính, ngân hàng đã thực sự trở thành nhân tố quan trọng phúc vụ
phát triển kinh tế - xã hội.
* Nông nghiệp: Nhờ tác động của chính sách mới, 5 năm qua nông - lâm
nghiệp và nông thôn ngoài thành có chuyển biến sâu sắc. Cơ cấu nông - lâm
nghiệp và nông thôn ngoài thành chuyển dịch theo hướng : Phát triển mạnh kinh tế
ngoại quốc doanh, nâng dần tỷ trọng ngành chăn nuôi và các loại nông sản thực
phẩm có chất lượng cao như: Thịt lợn nạc, trứng, sữa, hoa, cây cảnh, thuỷ đặc
sản...Hà Nội đang dẫn đầu cả nước về phát triển rau sạch. Năm 1998 tỷ lệ diện tích
trồng rau sạch ở Thành phố đạt 12% tổng diện tích trồng rau. Tốc độ tăng giá trị
sản xuất nông nghiệp qua các thời kỳ.
2.1.2. THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI .
Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là chương
trình quốc gia “ Xoá đói giảm nghèo” . Trong những năm qua cùng với sự đẩy
mạnh tăng trưởng kinh tế của Thủ đô, Thành uỷ và Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà
Nội đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành, hội đoàn thể triển khai tích cực đồng
bộ các giải pháp và đã đạt được kết quả toàn diện về các chương trình chính sách
xã hội trên Thành phố.
Việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN giai đoạn 1999-2000,
ngày 15 tháng 01 năm 1999 Hội đồng Nhân dân Thành phố Khoa XI kỳ hợp 12 đã
ra Nghị quyết số 15/1999- NQ/HĐ về nhiệm vụ kinh tế xã hội - an ninh quốc
phòng. Để thực hiện tốt Nghị quyết của Hội động Nhân dân Thành phố và kế
hoạch của Uỷ ban Nhân dân Thành phố đến quận, huyện, xã đều có kế hoạch tổ
chức thực hiện công tác XĐGN, triển khai sâu rộng cuộc vận động trong toàn
Đảng, toàn dân giúp nhau XĐGN.
Trong giai đoạn từ năm 1999-2000 Sở Lao động Thương binh - Xã hội Hà
Nội đã tập trung chỉ đạo các quận huyện, xã, phường điều tra rà soát, xác lập danh
sách hộ nghèo (theo chuẩn quy định thống nhất của cả nước). Kết quả điều tra đã
phản ánh được thực trạng tình hình đói nghèo trên địa bàn Thành phố và nguyên
nhân dẫn đến đói nghèo của Thành phố. Trên cuộc cơ sở điều tra đói nghèo sẽ giúp
cho việc đánh giá, phân tích những biến động của đói nghèo trên địa bàn Thành
phố từ đó giúp cho địa bàn chính quyền địa phương đề ra những giải pháp thích
hợp để đẩy nhanh công tác xoá đói giảm nghèo.
Tại thời điểm tháng 1/1999, toàn bộ Thành phố Hà Nội có 11.338 hộ nghèo
vớí 41.653 nhân khẩu (chiếm 1,9% tổng số hộ toàn Thành phố), trong đó có 2525
hộ tàn tật ốm đau quanh năm, 108 hộ chính sách. Theo báo cáo của quận, huyện
hết tháng 10/2000 Thành phố Hà Nội giảm hộ nghèo được 3849 hộ nghèo, 24 hộ
nghèo thuộc diện chính sách. Thể hiện ở bảng như sau:
Mặc dù số hộ nghèo của Thành phố không lớn so với tỷ lệ hộ đói nghèo của
cả nước song chương trình xóa đói giảm nghèo lại tập trung vào những nội dung
sau:
- Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng: Đây là giải pháp quan trọng nhằm tạo điều
kiện cho hộ nghèo sớm có khả năng vươn lên thoát nghèo của Thành phố. Trong
những năm qua, Thành phố đã tập trung vào một số lĩnh vực cơ sở hạ tầng ngoài
thành như sau: Hệ thông thuỷ lợi, các đường giao thông liên huyện, liên xã, điện
thoại nông thôn, chương trình nước sạch nông thôn, dự án trồng rừng (theo chương
trình 5 triệu ha rừng của Chính phủ).
Ngoài ra, còn có các dự án khác như là dự đường giao thông liên xã thuộc
huyện Sóc Sơn và hỗ trợ ổn định việc di dân theo dự án do Chi cục điều động Lao
động dân cư Thành phố triển khai.
- Cho vay vốn để hộ nghèo phát triển sản xuất: Thêm canh lứa, hoa mầu,
chăn nuôi bò, lợn, gia cầm, nuôi cá lồng... và phát triển ngành nghề, dịch vụ vì các
hộ nghèo đói đa số là do thiếu vốn sản xuất, chính vì vậy Thành phố đã có chương
trình huy động vốn và tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo vay, ngoài nguồn
vốn của Chính phủ, các tổ chức trong nước Thành phố còn huy động từ các tổ chức
quốc tế.
- Hướng dẫn cách làm ăn, phổ biến kiến thức, kỹ thuật cho người nghèo:
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nghèo đói, bởi các hộ nghèo đói
không biết cách làm ăn. để giúp các nhóm người này có được kiến thức, biết cách
làm ăn thì không chỉ hỗ trợ về vốn mà phải hướng dẫn về cách làm ăn, giúp họ tiếp
cận thị trường, khoa học kỹ thuật và công nghệ mới.
- Hỗ trợ người nghèo về giáo dục, y tế:
+ Về giáo dục: Miễn giảm học phí cho các học sinh, sinh viên nghèo, tiền
đóng góp xây dựng, hỗ trợ sách vở, đồ dùng học tập đối với học sinh nghèo.
+ Về y tế: Miễn giảm viện phí đối với hộ nghèo đói. Phương pháp tổ chức
thực hiện xoá đói giảm nghèo của Thành phố Hà Nội.
- Hỗ trợ vốn với lãi suất ưu đãi: để người nghèo phát triển sản xuất đồng
thời hướng dẫn cách sử dụng vốn có hiệu quả từ các nguồn như:
+ Quỹ hỗ trợ nông dân và người nghèo.
+ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm.
+ Quỹ ngân hàng người nghèo.
+ Quỹ của các hội đoàn thể như quỹ tiết kiệm vì phụ nữ nghèo, quỹ
hội cựu chiến bình.
- Có biện pháp tạo việc làm tại chỗ: ưu tiên cho các hộ nghèo không có khả
năng vay vốn có việc làm để nâng cao đời sống.
- Các quận, huyện lập danh sách: Đề nghị Thành phố cấp thể bảo hiểm y tế
cho toàn bộ người nghèo và đối tượng cứu trợ xã hội, trẻ tàn tật do chất độc hoá
học đang hưởng chính sách trợ cấp hàng tháng tại cộng đồng và tổ chức trao thẻ
cho đối tượng.
- Đối với học sinh nghèo.
+ Xác nhận thuộc hộ nghèo.
+ Đề nghị nhà trường miễn giảm học phí, tiền đóng góp xây dựng.
+ Hộ trợ vở, đồ dùng học tập.
- Đối với huyện ngoại thành: Căn cứ vào điều kiện chăn nuôi của địa
phương, lập danh sách hộ nghèo có khả năng chăn nuôi bò sinh sản để trình Thành
phố giao vốn theo hình thức “ Ngân hàng bò” (theo quy chế vay của Thành phố).
- Rà soát, trợ cấp thường xuyên và vận động đỡ đầu cho đối tượng tàn tật ốm
đau quanh năm, gia đình không có khả năng thoát nghèo, trong đó đặc biệt quan
tâm những hộ có trẻ em tàn tật.
Nhìn một cách tổng thể bức tranh nghèo đói ở Thành phố Hà Nội, ta thấy
hiện nay, tỷ lệ nghèo đói ở Thành phố Hà Nội vẫn còn cao và tiềm ẩn nhiều vấn đề
mâu thuẫn bên trong cần giải quyết như phân hoá giàu nghèo, các vấn đề xã hội.
Muốn xây dựng Thành phố Hà Nội mạnh, công bằng văn minh thì trong thời gian
tới chính quyền các cấp Thành phố cần có chính sách hết sức cụ thể để xoá đói
giảm nghèo.
2.1.3. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐÓI NGHÈO CỦA THÀNH PHỐ
HÀ NỘI .
Thành phố Hà Nội coi “ cái đói, cái nghèo” là một vấn đề cấp bách cần phải
giải
quyết. Đó không chỉ là vấn đề xã hội, nhân đạo mà còn là một trong những mục
tiêu hàng đầu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Vì vậy việc
tìm ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng của một bộ phận dân cư của
Thủ đô bị nghèo khổ, để từ đó có những giải pháp tài chính sách đúng đắn, thích
hợp đối với người nghèo là thực sự quan trọng và cần thiết. Bao gồm những
nguyên nhân như sau:
2.1.3.1. NGUYÊN NHÂN DO THIẾU KINH NGHIỆM SẢN XUẤT
KINH DOANH VÀ THIẾU CẢ KẾ HOẠCH CHI TIÊU TRONG GIA
ĐÌNH..
Ở Thủ đô Hà Nội hiện nay có khoảng 32%/ tổng số hộ nghèo là do nguyên
nhân này. Có thể nói trong việc sản xuất kinh doanh, kinh nghiệm đóng vai trò
quan trọng, nó càng thể hiện rõ sự quan trọng đó nếu một người có đủ điều kiện
sản xuất như có vốn, có đất sản xuất... Nhưng không có kinh nghiệm làm ăn,
không có kiến thức sản xuất thì sẽ dễ chọn sai lĩnh vực, cách thức sản xuất kinh
doanh, không tính được đầu ra cho sản phẩm hoặc rơi vào tình trạng làm ăn luẩn
quẩn, không có lãi mà vẫn đầu tư vào sản xuất... Như thế dễ dàng dẫn đến phá sản
và nghèo khổ luôn luôn đe doạ họ.
2.1.3.2. NGUYÊN NHÂN DO THIẾU SỨC LAO ĐỘNG, ĐÔNG
NGƯỜI ĂN THEO.
Có thể nói sức lao động là yếu tố đầu tiên để quyết định đến thu nhập của
con người. Kể cả lao động chân tay và lao động trí óc. Trong một gia đình nếu sức