Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghiên cứu thực trạng sử dụng dung dịch truyền tĩnh mạch tại khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Đại học Y Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.64 KB, 8 trang )

CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SỬ DỤNG DUNG DỊCH
TRUYỀN TĨNH MẠCH TẠI KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU
BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HẢI PHỊNG
Trịnh Thị Lý*, Phùng Văn Dun*
TĨM TẮT

29

Đánh giá thực trạng sử dụng dung dịch
truyền tĩnh mạch tại Khoa Hồi sức cấp cứu bệnh
viện Đại học Y Hải Phịng, chúng tơi đã phân
tích hồi cứu 120 bệnh án của 120 bệnh nhân, kết
quả như sau: Gần 3/4 số bệnh nhân là người cao
tuổi và người già. Bệnh nhân tái nhập viện là
5,83%. Bệnh nhân chuyển viện là 10,83%. Rất
ít bệnh nhân được can thiệp kỹ thuật hồi sức cấp
cứu. Tỷ lệ bệnh nhân được truyền dịch là
87,5%. Dung dịch được sử dụng phổ biến nhất
là NaCl 0,9% với tỷ lệ 84,76% bệnh nhân được
truyền. 2/3 số bệnh nhân được truyền dịch liên
quan đến việc sử dụng thuốc. Gần 1/3 số bệnh
nhân được truyền dịch với mục đích dự phịng
sốc giảm thể tích. Ngày nằm viện trung bình là
6,96 ngày, ngày truyền dịch trung bình là 6,14
ngày. 11,43% bệnh nhân được truyền dịch
không cần thiết. Dung dịch ringer lactat được sử
dụng khá khiêm tốn. Một số trường hợp truyền
dung dịch glucose chưa đúng chỉ định. Một số
bệnh nhân có chế độ ăn giảm muối nhưng vẫn


được truyền dung dịch mặn (để pha thuốc). Một
số dung dịch ưu trương và thuốc vận mạch chưa
được truyền qua tĩnh mạch trung tâm.
Từ khóa: dung dịch truyền tĩnh mạch, khoa
hồi sức cấp cứu

*Trường Đại học Y Dược Hải Phịng
Chịu trách nhiệm chính: Trịnh Thị Lý
Email:
Ngày nhận bài: 20.3.2021
Ngày phản biện khoa học: 20.4.2021
Ngày duyệt bài: 20.5.2021

192

SUMMARY
RESEARCH OF THE CURRENT
SITUATION OF USING SOLUTION
FOR INTRAVENOUS INFUSION AT
EMERGENCY MEDICINE
DEPARTMENT OF HAIPHONG
MEDICAL UNIVERSITY HOSPITAL
Assessing the current situation of using
solution for intravenous infusion at Emergency
Medicine Department of Hai Phong Medical
University Hospital, we have had the
retrospective analysis of 120 medical records of
120 patients with the following results: Nearly
three quarters of the patients were elderly;
Patients re-hospitalized were 5.83%. Hospital

transfer patients were 10.83%. Very few
patients received emergency resuscitation
techniques. The proportion of patients receiving
infusion was 87.5%. The most commonly used
solution was NaCl 0.9% in the proportion of
84.76% of patients receiving the infusion. Two
third of patients received the infusion involved
the drug use. Almost one third of patients
received infusion to prevent hypovolemic
shock. The average day of hospitalization was
6.96 days, the average day of infusion was 6.14
days. 11.43% of patients received unnecessary
infusion. Ringer lactate solution is rarely used.
Some cases of infusion of glucose solution were
not indicated. Some patients are on a low-salt
diet but still receive saline solution (to make
medicine). Some hypertonic and vasopressors
solution have not been administered through
central vein.


TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 503 - THÁNG 6 - SỐ ĐẶC BIỆT - 2021

Key words: solution for intravenous
infusion, Emergency Medicine Department

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Truyền dịch là một liệu pháp điều trị mà
hầu hết các khoa lâm sàng đều thực hiện,
đặc biệt là các khoa hồi sức cấp cứu, nơi mà

các dung dịch được sử dụng phổ biến nhất
cho những tình huống cấp cứu, bệnh nặng
và nguy kịch.
Khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Đại
học Y Hải Phòng là đơn vị tiếp nhận những
bệnh nhân mắc các bệnh cấp cứu, bệnh
nặng hoặc bệnh diễn biến phức tạp. Đa số
bệnh nhân nằm viện tại khoa này được
truyền dịch và truyền dịch dài ngày. Để góp
phần sử dụng các dung dịch truyền tĩnh
mạch một cách an toàn và hiệu quả, chúng
tôi nghiên cứu đề tài này với 2 mục tiêu sau
đây:
1. Mô tả thực trạng truyền dịch tại khoa
Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Đại học Y Hải
Phòng từ tháng 01/2020 đến tháng 4/2020.
2. Nhận xét việc sử dụng các dung dịch
truyền tĩnh mạch tại khoa Hồi sức cấp cứu
Bệnh viện Đại học Y Hải Phòng từ tháng
01/2020 đến tháng 4/2020.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân nằm viện tại khoa Hồi
sức cấp cứu bệnh viện Đại học Y Hải Phòng
từ tháng 1/2020 đến tháng 4/2020 bao gồm

120 bệnh nhân với tổng số 120 bệnh án nội
trú.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Hồi cứu, mơ tả cắt ngang. Thu thập và

phân tích dữ liệu theo bệnh án của các bệnh
nhân nằm viện tại khoa Hồi sức cấp cứu từ
tháng 1/2020 đến 4/2020.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3.1. Đặc điểm chung của nhóm bệnh
nhân nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm tuổi, giới
Tổng số 120 bệnh nhân, trong đó 65 nam
(chiếm 54,16%) và 55 nữ (chiếm 45,84%)
Bệnh nhân có tuổi cao nhất là 102 tuổi,
thấp nhất là 15 tuổi. Gần 3/4 số bệnh nhân
nằm viện tại khoa Hồi sức cấp cứu là người
cao tuổi và người già.
3.1.2. Ngày nằm viện trung bình
Bệnh nhân có số ngày nằm viện ít nhất là
1 ngày. Bệnh nhân có số ngày nằm viện
nhiều nhất là 18 ngày. Số ngày nằm viện
trung bình của 1 đợt điều trị chung cho tất
cả bệnh nhân là 7,08 ngày. Ngày nằm viện
trung bình của bệnh nhân được truyền dịch
là 6,96. Ngày nằm viện trung bình của bệnh
nhân khơng được truyền dịch là 7,78. Ngày
nằm viện trung bình của khoa Hồi sức cấp
cứu tương đồng với một số bệnh viện trên
địa bàn thành phố, nhưng ngắn hơn so với
khoa Hồi sức cấp cứu bệnh viện Kiến An và
bệnh viện Việt Tiệp (trên 10 ngày), có lẽ do
bệnh lý của khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện
Đại học Y Hải Phịng ít phức tạp hơn và tỷ
lệ chuyển viện lại cao hơn.


3.1.3. Bệnh chính phải vào nhập viện
Bảng 1. Bệnh chính phải vào nhập viện
Tên bệnh
Viêm phổi
Xuất huyết tiêu hóa (5 có sốc giảm thể tích)

Số BN
16
11

Tỷ lệ %
13,33
9,17

193


CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG

Tai biến mạch não
12
10,00
COPD đợt cấp
9
7,50
Bệnh mạch vành (1 NMCT có sốc)
6
5,00
Nhiễm khuẩn tiết niệu

6
5,00
Rối loạn nhịp
4
3,33
Ngộ độc thuốc
3
2,50
Tăng áp lực thẩm thấu (2 có sốc)
4
3,33
Viêm tụy cấp
6
5,00
Hạ đường máu
3
2,50
Biến chứng suy thận mạn
4
3,33
Hen phế quản
2
1,67
Hội chứng tiền đình
2
1,67
Phù phổi cấp
2
1,67
Phản vệ độ I

3
2,50
Rối loạn tiền đình
2
1,67
Viêm túi mật hoại tử (1 có sốc)
1
0,83
Nhiễm khuẩn huyết (1 có sốc)
2
1,67
Xơ gan mất bù
2
1,67
Bệnh khác
20
16,67
Nhận xét và bàn luận: Bệnh nhân nhập viện vào khoa Hồi sức cấp cứu chủ yếu thuộc về
bệnh học nội khoa, ít gặp bệnh ngoại khoa, sản khoa và nhi khoa. Điều này cũng phù hợp
với mơ hình bệnh tật tại khoa hồi sức cấp cứu của nhiều bệnh viện trong thành phố (Bệnh
viện Kiến An, Bệnh viện Thủy Nguyên, Bệnh viện An Lão…).
3.1.4. Các bệnh hiện mắc
Bảng 2. Các bệnh hiện mắc
Các bệnh hiện mắc
Số BN
Tỷ lệ %
Mắc 1 bệnh chính
11
9,17
Mắc đa bệnh

112
93,33
Có tăng huyết áp
50
41,67
Có đái tháo đường
33
27,50
Có cả tăng huyết áp và đái tháo đường
16
13,33
Các bệnh khác
60
50,00
Nhận xét và bàn luận: Hầu hết bệnh nhân nhập viện tại khoa Hồi sức cấp cứu đều mắc
đa bệnh (93,33%), chỉ có 9,71% bệnh nhân mắc 1 bệnh. Bệnh đồng mắc nhiều nhất là tăng
huyết áp (gần một nửa số bệnh nhân có tăng huyết áp) và đái tháo đường (trên 1/4 số bệnh
nhân có đái tháo đường).

194


TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 503 - THÁNG 6 - SỐ ĐẶC BIỆT - 2021

3.1.5. Tình trạng bệnh nhân cần can thiệp khẩn cấp
Bảng 3. Tình trạng bệnh nhân cần can thiệp khẩn cấp
Tình trạng bệnh nhân
Số BN
Tỷ lệ %
Sốc mất máu (do XHTH)

5
4,17
Sốc giảm thể tích (do TALTT)
2
1,67
Sốc tim (do NMCT)
1
0,83
Sốc nhiễm khuẩn
2
1,67
Cơn tăng huyết áp kịch phát
8
6,67
Đột quỵ cấp (loại nhồi máu não)
12
10,00
Mất máu cần truyền máu
9
7,50
Tăng áp lực thẩm thấu do đái tháo đường
5
4,17
Hạ đường máu
4
3,33
Thiếu máu nặng do suy thận mạn
1
0,83
Tổng số

49
40,83
Nhận xét và bàn luận: Trong số 120
3.2.1. Tỷ lệ bệnh nhân được truyền
bệnh nhân có 49 bệnh nhân cần can thiệp
dịch. Tỷ lệ bệnh nhân được truyền dịch tại
khẩn cấp, chiếm tỷ lệ 40,83%. Đây là những
khoa Hồi sức cấp cứu là khá cao, chiếm tỷ
bệnh nhân cần được xử trí nhanh chóng
lệ 87,5%; có 6 bệnh nhân khơng cần truyền
hoặc cần được can thiệp ngay lập tức (can
dịch (5,0%) và 9 bệnh nhân có chống chỉ
thiệp chẩn đốn và can thiệp điều trị). Số
định truyền dịch (7,50%). Tỷ lệ này cũng
bệnh nhân cịn lại thuộc các nhóm bệnh cần
tương đồng với các khoa hồi sức của các
chăm sóc tích cực.
bệnh viện khác (hầu hết bệnh nhân tại khoa
3.2. Thực trạng sử dụng các dung dịch
hồi sức cấp cứu bệnh viện Kiến An có
truyền tĩnh mạch
truyền dịch).
3.2.2. Các chỉ định truyền dịch
Bảng 4. Chỉ định truyền dịch
Chỉ định truyền dịch
Nâng huyết áp trong sốc giảm thể tích
Dự phịng sốc giảm thể tích
Ni dưỡng đường tĩnh mạch
Pha thuốc trong dịch truyền
Điều chỉnh rối loạn nước điện giải

Điều chỉnh áp lực thẩm thấu
Giải độc, lợi tiểu ở bệnh nhân bị ngộ độc
Khơng có bất kỳ lý do gì

Số BN
9/105
33/105
16/105
71/105
1/105
3/105
3/105
12/105

Tỷ lệ %
8,57
31,43
15,24
67,62
0,95
2,86
2,86
11,43

195


CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG

Nhận xét: 2/3 số bệnh nhân được truyền

dịch liên quan đến việc sử dụng thuốc pha
trong dịch truyền. Gần 1/3 số bệnh nhân
được truyền dịch với mục đích dự phịng
sốc giảm thể tích. 15,24% bệnh nhân được
truyền dịch để nuôi dưỡng. 8,57% bệnh
nhân được truyền dịch cấp cứu với lượng
dịch lớn để hồi phục thể tích tuần hồn. Các
chỉ định truyền dịch khác chỉ gặp rất ít, từ
0% đến 2,86%. 11,43% bệnh nhân được
truyền dịch không cần thiết (lạm dụng
truyền dịch).
3.2.3. Các loại dung dịch được truyền
Dung dịch được sử dụng phổ biến nhất
tại khoa Hồi sức cấp cứu bệnh viện Đại học
Y là dung dịch mặn đẳng trương (NaCl
0,9%) với tỷ lệ 84,76% bệnh nhân được
truyền, trong khi đó chỉ có 20,95% bệnh
nhân được truyền dung dịch Ringer lactate.
22,86% bệnh nhân được truyền dung dịch
Glucose. Các loại dung dịch khác được sử
dụng cho bệnh nhân với tỷ lệ thấp từ 0%
đến 3,80%.
3.2.4. Số ngày truyền dịch trung bình
Ngày nằm viện trung bình của 1 bệnh
nhân truyền dịch là 6,96 ngày. Ngày truyền
dịch trung bình của 1 bệnh nhân được
truyền dịch là 6,14 ngày. Như vậy các bệnh
nhân được truyền dịch kéo dài từ ngày vào
viện đến ngày ra viện (trừ nửa ngày làm thủ
tục thanh toán ra viện), mặc dù rất nhiều

bệnh nhân có thể ngừng truyền dịch (đã đạt
mục đích truyền dịch) nhưng vẫn được
truyền dịch.
3.3. Đánh giá việc sử dụng các dung
dịch truyền tĩnh mạch
3.3.1. Các dung dịch được truyền để
phục hồi thể tích tuần hồn

196

Tỷ lệ bệnh nhân sốc giảm thể tích được
truyền dung dịch NaCl 0,9% là 9/9 bệnh
nhân, trong khi đó chỉ có 3/9 bệnh nhân
được truyền ringer lactate. Để nâng huyết
áp trong sốc giảm thể tích, việc lựa chọn
loại dung dịch nào có khả năng lấp đầy lịng
mạnh đã được nhiều tác giả khẳng định, đó
là các dung dịch tinh thể đẳng trương, có
thể là dung dịch NaCl 0,9% hoặc ringer
lactate, trong đó vai trị làm đầy lịng mạch
của 2 loại này là tương đương, nhưng ringer
có lợi thế hơn và an tồn hơn so với dung
dịch NaCl 0,9%.
Có 3/9 bệnh nhân được truyền dung dịch
glucose để phục hồi thể tích tuần hoàn là
chưa phù hợp với khuyến cáo. Các tác giả
khuyên rằng không nên sử dụng dung dịch
glucose để lấp đầy lịng mạch vì khả năng
làm đầy lịng mạch của dung dịch glucose là
rất khiêm tốn (truyền 1 lít dung dịch

glucose 5% chỉ có 80ml dung dịch được
nằm trong lịng mạch, lượng còn lại ra
khoảng kẽ và vào trong tế bào) và có thể
gây tác dụng bất lợi như phù phổi, phù não.
Trong trường hợp mất nước hoặc mất
máu, mặc dù tình trạng tồn thân vẫn tốt,
chưa có bất thường về các dấu hiệu sinh
tồn, chưa có sốc, nhưng việc truyền dịch là
cần thiết để dự phòng sốc giảm thể tích. Các
dung dịch tinh thể đẳng trương (ringer lactat
và natri clorua 0,9%) là sự lựa chọn tốt nhất
để dự phòng sốc giảm thể tích. Tại khoa hồi
sức cấp cứu, chỉ có 10/33 bệnh nhân được
truyền dung dịch ringer lactate trong khi
33/33 bệnh nhân được truyền dung dịch
mặn đẳng trương. 7/33 bệnh nhân được
truyền dung dịch glucose để dự phòng sốc
giảm thể tích.


TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 503 - THÁNG 6 - SỐ ĐẶC BIỆT - 2021

Trong số 120 bệnh nhân nhập viện khoa
hồi sức cấp cứu có 5 ca tăng áp lực thẩm
thấu do đái tháo đường. Cả 5/5 trường hợp
đều được truyền dung dịch mặn đẳng
trương, chỉ có 3/5 trường hợp được truyền
dung dịch ringer lactate. Đây là 2 loại dung
dịch được sử dụng tốt nhất trong tăng áp lực
thẩm thấu. Tuy nhiên, dung dịch ringer

lactate là sự lựa chọn ưu tiên hơn bởi vì nó
nhược trương hơn so với dung dịch NaCl
0,9% (áp lực thẩm thấu của ringer lactate là
278 trong khi của NaCl 0,9% là 290
mOsmol) và dung dịch nhược trương hơn sẽ
làm giảm áp lực thẩm thấu nhanh hơn.
3.3.2. Các dung dịch được truyền để
nuôi dưỡng
Trong số 120 bệnh nhân nhập viện khoa
hồi sức cấp cứu có 16 ca có liên quan đến
ni dưỡng tĩnh mạch do có vấn đề về nuốt
hoặc hơn mê. Mục đích của ni dưỡng là
cung cấp năng lượng (kalo), chất dinh
dưỡng (protid, lipid, glucid, vitamin và
khống chất). Vai trị của dung dịch NaCl
0,9% trong dinh dưỡng rất khiêm tốn,
chúng chỉ cung cấp cho cơ thể nước và điện
giải (Na, Cl). Mặc dù dung dịch gluose
cung cấp năng lượng cho cơ thể nhưng
truyền 500ml dung dịch gluose 5% cũng chỉ
cung cấp cho cơ thể 100 kcalo. Chính vì
vậy, để chăm sóc dinh dưỡng tốt nhất, cần
tính tốn nhu cầu calo và cân đối chất dinh
dưỡng của bệnh nhân để đáp ứng đầy đủ
bằng cách cho ăn qua sonde dạ dày. Một
lưu ý nữa là khi truyền các dung dịch ưu
trương (glucose 10%, 20%, dung dịch acid
amin…) cần thiết phải tiêm truyền qua tĩnh
mạch trung tâm, không nên truyền qua tĩnh


mạch ngoại vi vì dễ gây tình trạng viêm tĩnh
mạch.
3.3.3. Các dung dịch được truyền để
lợi tiểu giải độc
Trong số 120 bệnh nhân nhập viện khoa
hồi sức cấp cứu có 3 ca bị ngộ độc thuốc
ngủ thể nhẹ, bệnh nhân tỉnh táo, tình trạng
tịan thân tốt. Việc truyền dịch với mục đích
làm tăng lưu lượng máu tới thận, tăng đào
thải chất độc qua nước tiểu. Để đạt được
mục tiêu đó, dung dịch được lựa chọn tốt
nhất vẫn là dung dịch mặn đẳng trương và
dung dịch ringer lactate. Dung dịch glucose
5% không phải là dung dịch được lựa chọn
để làm tăng lưu lượng máu tới thận. Tuy
nhiên 2/3 bệnh nhân vẫn được truyền dung
dịch glucose là chưa phù hợp.
3.3.4. Các dung dịch được truyền để
pha thuốc
Trong số 105 bệnh nhân được truyền
dịch có 71 ca cần phải truyền dịch để pha
thuốc, trong đó có 66 bệnh nhân (92,96%)
được truyền dung dịch mặn đẳng trương để
pha thuốc. Những thuốc pha trong dịch
truyền thường gặp là kháng sinh, dãn phế
quản, insulin… Trong số 66 bệnh nhân
được truyền dung dịch mặn đẳng trương để
pha thuốc có 40 bệnh nhân bị bệnh tăng
huyết áp (bệnh đi kèm với bệnh chính). Một
số bệnh nhân khác cũng có chế độ ăn giảm

muối như tim phổi mạn, suy tim, suy thận
mạn v.v… cũng được truyền thuốc pha với
dung dịch mặn đẳng trương. Khoa hồi sức
cấp cứu nên cân nhắc pha thuốc với dung
dịch glucose 5% để hạn chế lượng muối đưa
vào cơ thể trong những trường hợp này.
3.3.5. Các dung dịch được truyền cho
bệnh nhân đột quỵ cấp

197


CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG

Trong số 120 bệnh nhân nhập viện khoa
hồi sức cấp cứu có 12 ca nhập viện vì bị đột
quỵ cấp. Khi bị đột quỵ cấp, tế bào não bị
thiếu oxy, nếu truyền dung dịch glucose vào
trong môi trường thiếu oxy, glucose sẽ
chuyển hóa yếm khí tạo ra acid lactic. Acid
lactic là một chất độc tính với tế bào não, do
vậy sẽ có nguy cơ làm tổn thương não nặng
thêm. Trong nghiên cứu này, có 4/12 ca
được truyền dung dịch glucose là chưa phù
hợp thậm chí có chống chỉ định. Dung dịch
ringer lactate là một dung dịch hơi nhược
trương so với huyết tương mặc dù nó được
xếp vào nhóm đẳng trương. Trong trường
hợp có phù não, cần hạn chế truyền loại
dung dịch này. Nên cân nhắc 4/12 ca được

truyền dung dịch ringer lactate trong nghiên
cứu này.
IV. KẾT LUẬN
Qua thu thập và phân tích 120 hồ sơ
bệnh án của 120 bệnh nhân điều trị tại khoa
Hồi sức cấp cứu bệnh viện Đại học Y Hải
Phịng, chúng tơi rút ra một số kết luận sau:
4.1 Đặc điểm chung của nhóm bệnh
nhân nghiên cứu
Nam chiếm 54,16%, nữ chiếm 45,84%.
Bênh nhân có tuổi cao nhất là 102 tuổi,
thấp nhất là 15 tuổi. Gần 3/4 số bệnh nhân
nằm viện tại khoa Hồi sức cấp cứu là người
cao tuổi và người già.
Tỷ lệ bệnh nhân tái nhập viện trong 4
tháng là 5,83%. Tỷ lệ bệnh nhân chuyển
viện là 10,83%.
Số ngày nằm viện trung bình của 1 đợt
điều trị chung cho tất cả bệnh nhân là 7,08
ngày.
Hầu hết bệnh nhân mắc đa bệnh (chiếm

198

93,33%). Bệnh đồng mắc nhiều nhất là tăng
huyết áp, đái tháo đường.
4.2 Thực trạng sử dụng các dung dịch
truyền tĩnh mạch
Tỷ lệ bệnh nhân được truyền dịch là
87,5%. Khoảng 2/3 số bệnh nhân được

truyền dịch liên quan đến việc sử dụng
thuốc (pha thuốc). Gần 1/3 số bệnh nhân
được truyền dịch với mục đích dự phịng
sốc giảm thể tích. 15,24% bệnh nhân được
truyền dịch để nuôi dưỡng. 8,57% bệnh
nhân phải truyền dịch cấp cứu với lượng
dịch lớn để hồi phục thể tích tuần hồn. Các
chỉ định truyền dịch khác rất ít, từ 0% đến
2,86%.
Dung dịch được sử dụng phổ biến nhất là
dung dịch mặn đẳng trương (NaCl 0,9%)
với tỷ lệ 84,76% bệnh nhân được truyền.
22,86% bệnh nhân được truyền dung dịch
Glucose. 20,95% bệnh nhân được truyền
dung dịch Ringer lactate.
4.3 Nhận xét về việc sử dụng các dung
dịch truyền tĩnh mạch
Ngày truyền dịch trung bình của 1 bệnh
nhân được truyền dịch là 6,14 ngày trong
khi ngày nằm viện trung bình của 1 bệnh
nhân truyền dịch là 6,96 ngày.
11,43% bệnh nhân được truyền dịch
không cần thiết (lạm dụng truyền dịch).
Để làm đầy mạch máu, có 9/9 bệnh nhân
được sử dụng dung dịch NaCl 0,9% nhưng
chỉ có 3/9 bệnh nhân được sử dụng dung
dịch ringer lactate, trong khi dung dịch
ringer lactat có tác dụng tương đương và có
nhiều ưu thế hơn.
Việc lựa chọn loại dịch truyền trong một

số tình huống lâm sàng là chưa phù hợp: 3/9
bệnh nhân được truyền dung dịch glucose


TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 503 - THÁNG 6 - SỐ ĐẶC BIỆT - 2021

để phục hồi thể tích tuần hồn; 7/33 bệnh
nhân được truyền dung dịch glucose để dự
phịng sốc giảm thể tích; 4/12 bệnh nhân đột
quỵ cấp được truyền dung dịch glucose; 2/3
bệnh nhân được truyền dung dịch glucose
với mục đích làm tăng lưu lượng máu tới
thận.
Một số dung dịch ưu trương và thuốc vận
mạch (Dopamin, dobutamin) chưa được
truyền qua tĩnh mạch trung tâm (hiện tại
truyền qua tĩnh mạch ngoại vi).

4.

5.

6.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 1493/2015/QĐ-BYT của Bộ
Y tế về việc ban hành tài liệu chun mơn
hướng dẫn chẩn đốn và xử trí hồi sức tích
cực, tr 179-193.
2. Trường Đại học Dược Hà Nội (2007), Dược

lâm sàng và điều trị, Nhà xuất bản Y học
2007.
3. Alena Lira, Michael R Pinsky (2014),
“Choices in fluid type and volume during
resuscitation: impact on patient outcomes”,

7.

8.

Ann Intensive Care.Published 2014 Dec 4; 4:
38.
PMID:
25625012,
PMCID:
PMC4298675.
Anil Kumar Gangwar, S.C.Chaudhary
M.D (2015),“Intravenous fluid therapy”,
Daily fluid balance, Published in: Health &
Medicine, on Nov 8, 2015.
Marik PE et al (2011). “Hemodynamic
parameters to guide fluid therapy”, Annals of
Intensive Care, 2011, 1:1 PMID: 21906322,
PMCID: PMC3159904.
Rasouli M (2016), “Basic concepts and
practical
equations
on
osmolality:
biochemical approach”, Clin Biochem. 2016;

49(12): 936-41. PubMed PMID: 27343561.
Raghunathan K, Shaw AD, Bagshaw SM
(2013), “Fluids are drugs: type, dose and
toxicity”, CurrOpinCrit Care,
; 19,(4):
290-8. PubMed PMID: 23817025
RoyalCollege of Physicians (UK),

Intravenous Fluid Therapy in Adults in
Hospital”, NICE Clinical Guidelines, 2013
Dec, No. 174.

199



×