Bộ YTẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Dược HÀ NỘI
NGUYỄN LÊ TRANG
KHẢO SÁT THựC TRẠNG sử DỤNG
THUỐC TRÊN BỆNH NHÂN ĐẬT ỐNG
THÔNG DẠ DÀY TẠI KHOA HỒI sức
TÍCH cực BỆNH VIỆN BẠCH MAI
• • • •
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Dược sĩ
Người hướng dẫn:
1. TS. DS. Nguyễn Thị Liên Hương
2. DS. ĐỖ Thị Hồng Gấm
Nơi thực hiện:
. Bộ môn Dược Lâm Sàng
Trường Đai Hoc Dươc Hà Nôi
9 • • • •
t r ư ờ n g ĐH DƯỢC HÀ NỘI __ _ _
THƯ V I í « Khoa Hối Sửc Tích Cực
Ngày ínáng -■é-, năm 2^.'/- Ị gệjjỊj ^ J ệjj gạch Mai
^ ÓKCB:
HÀ NỘI-2011
ứ
LỜI CẢM ƠN
Tôi xỉn gửi lời cảm ơn sâu sẳc nhất đến Tiến sỹ Nguyễn Thị Liên Hương -
Trưởng bộ môn Dược lâm sàng, trường Đại Học Dược Hà Nôi và Dược sỹ Đỗ Thị
Hồng Gấm - tổ Dược lâm sàng, khoa Dược bệnh viện Bạch Mai, những người đã
trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo tôi trong suổt quá trình thực hiện đề tài tốt
nghiệp.
Tôi cũng xỉn chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn Dược lâm sàng,
trường Đại học Dược Hà Nội đã giúp đỡ, góp ỷ cho khóa luận của tôi hoàn thiện
hơn.
Xin trân trọng cảm ơn Phó giảo sư -Tiến sỹ Nguyễn Gia Bĩnh trưởng khoa Hồi
Sức Tích Cực, bệnh viện Bạch Mai cùng tập thể bác sỹ, cản bộ công nhân viên
trong khoa đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi thực hiện khóa luận này.
Tôi đặc biệt cảm ơn tập thể điều dưỡng làm việc tại khoa Hồi Sức Tích Cực -
những người đã góp phần không nhỏ cũng tôi thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xỉn cảm ơn gia đĩnh, bạn bè đã luôn ở bên cạnh động viên, tạo
mọi điều kiện cho tôi nỗ lực hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
NGUYỄN LÊ TRANG
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
ĐẶT VẤN ĐÈ 1
PHẦN 1. TỔNG QUAN 3
1.1. Đại cương về ống thông 3
1.1.1. Phân loại ống thông 3
1.1.2. ưu nhược điểm và ứng dụng của ống thông 4
1.1.3. Chế độ sử dụng 5
1.1.4. Cách thức bom tráng ống thông 6
1.1.5. Dung môi phối hợp đưa thuốc qua ống thông 7
1.2. Thuốc sử dụng trên bệnh nhân đặt ống thông 7
1.2.1. Đường đưa thuốc thay thể 7
1.2.2. Dạng bào chế được khuyển cáo sử dụng qua ống thông 9
1.2.3. Dạng bào chế không thích hợp sử dụng qua ống thông 11
1.3. Tương tác - tương kỵ có thể gặp phải khi sử dụng thuốc qua ống thông 13
1.3.1. Thuốc-thuốc 13
1.3.2. Thuốc-thức ăn 14
1.3.3. Thuốc - ống thông 15
1.4. Hướng dẫn sử dụng thuốc trên bệnh nhân đặt ống thông tiêu hóa 16
Phần 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u 18
2.1. Khảo sát thực trạng kê đơn thuốc trên bệnh nhân đặt ống thông dạ dày 18
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 18
2.1.2. Phương pháp nghiên cửu 18
2.1.3. Cơ sở phân tích trong nghiên cứu 19
2.1.4. Phương pháp xử lý số liệu 20
2.1.5. Một số khái niệm sử dụng trong nghiên cứu 20
2.2. Khảo sát kỹ năng đưa thuốc qua ống thông của điều dưỡng 21
2.2.1. Đối tượng nghiên cửu 21
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu 21
2.2.3. Phưong pháp xử lý số liệu 21
Phần 3. KẾT QUẢ 22
3.1. Khảo sát thực trạng kê đơn thuốc trên bệnh nhân đặt ống thông dạ dày 22
3.1.1. Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu 22
3.1.2. Thực trạng kê đơn thuốc trên bệnh nhân đặt ống thông 25
3.1.3. Tương tác thuốc 30
3.2. Khảo sát kỹ năng đưa thuốc qua ống thông của điều dưỡng 34
3.2.1. Cách thức xử lý thuốc trước khi đưa qua ống thông 34
3.2.2. Thời điểm đưa thuốc 37
3.2.3. Cách ứiức bơm tráng ống thông 37
Phần 4. BÀN LUẬN 39
4.1. Đặc điểm kê đơn thuốc trên bệnh nhân đặt ống thông dạ dày 39
4.1.1. Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu 39
4
.1.2. Đặc điểm kê đơn thuốc 39
4.1.3. Đặc điểm tương tác thuốc 43
4.2. Đặc điểm kỹ năng đưa thuốc qua ống thông của điều dưỡng 46
4.2.1. Cách thức xử lý thuốc trước khi đưa qua ống thông 46
4.2.2. Thời điểm đưa thuốc qua ống thông 48
4.2.3. Cách thức bơm tráng ống thông 48
KÉT LUẬN VÀ ĐÈ XUẤT 50
1. Kết luận 50
2. Đề xuất 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIỂT TẲT
CD
Controlled- delivery: giải phóng có kiêm soát.
Clcr
Clearance creatinin: độ thanh thải creatinin
c
'^max
Maximum concentration: nông độ lớn nhât
Contin
Continuous - release: giải phóng liên tục
COPD
Chronic Obstructive Pulmonary Disease: Bệnh phôi tăc nghẽn mãn tính
Cpeak
Peak concentration: nông độ đỉnh
CR
Controlled - release: giải phóng có kiêm soát
DR
Delayed - release: giải phóng từ từ
EC
Enteric-coated: bao tan trong ruột
IM
Intramuscular: trong băp
IV
Intravenous: trong tĩnh mạch
LA
Long acting; tác dụng kéo dài
MR
Modified - release: giải phóng có biên đôi.
NG
Nasogastric: mũi - dạ dày
PA
Prolong acting; tác dụng kéo dài
PEG
Percutaneous endoscopy gastrostomy: Đặt qua da vào dạ dày nhờ nội soi
Retard
Giải phóng chậm
SC
Subcutaneous; dưới da
SKD Sinh khả đụng
SR
Slow/Sustained - release: giải phóng chậm/ ôn định
TD Time - delayed: giải phóng theo thời gian
TR
Time - release: giải phóng theo thời gian
XR Extended - release: giải phóng kéo dài
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Phân loại vị trí đặt ổng thông
Bảng 1.2: Một sổ đường đưa thuốc có thể sử dụng thay thế đường qua ổng thông
Bảngl.3: Các dạng thuốc dạng rắn không thích hợp sử dụng qua ổng thông
Bảng 3.1: Đặc điểm về tuổi, giới tinh của bệnh nhân trong nghiên cứu
Bảng 3.2: Đặc điểm về sổ lượng phác đồ điều trị của bệnh nhân trong nghiên cứu
Bảng 3.3: Phân bổ bệnh nhân theo độ thanh thải creatỉnin (Clcr)
Bảng 3.4: Phân bố bệnh nhân theo bệnh lý
Bảng 3.5: Đường đưa thuổc sử dụng trên bệnh nhãn
Bảng 3.6: Phân bố thuốc sử dụng qua ống thông theo trạng thái vật lý
Bảng 3.7: Phân bổ thuổc sử dụng qua ống thông theo dạng bào chế dựa trên biệt dược
Bảng 3.8: Phân bố thuốc sử dụng qua ổng thông theo dạng bào chế dựa trên sổ lượt
sử dụng
Bảng 3.9: Dạng bào chế đặc biệt sử dụng qua ổng thông
Bảng 3.10: Phân bố thuốc sử dụng qua ổng thông theo thời điểm dùng thuốc
Bảng 3.11: Phân bổ thuốc gây tương tác với thức ăn theo thời điểm dùng thuốc
Bảng 3.12: Một số đặc điểm chung về tương tác thuốc
Bảng 3.13: Đặc điểm tương tác thuốc - thuốc trong nghiên cứu
Bảng 3.14: Một sổ tương tác thuốc - thuốc ghi nhận trong nghiên cứu
Bảng 3.15: Đặc điểm tương tác thuốc - thức ăn trong nghiên cứu
Bảng 3.16: Một sổ tương tác thuốc — thức ăn đặc biệt
Bảng 3.17: Cách thức nghiền thuốc sử dụng qua ổng thông
Bảng 3.18: Lựa chọn nghiền thuốc theo biệt dược
Bảng 3.19: Dung môi phoi hợp đưa thuốc
Bảng ĩ.20: Cách xử ỉỷ những thuốc cổ dạng bào chế đặc biệt khuyến cáo không thích
hợp đưa qua ổng thông
Bảng 3.21: Thời điểm dùng những thuốc có tương tác với thức ăn
Bảng 3.22: Thời điểm bơm trảng ổng thông
Bảng 3.23: Thể tích dung dịch bơm trảng ổng trước hoặc sau khỉ đưa thuốc
ĐẶT VẤN ĐỀ
•
Đường uống là đường đưa thuốc phổ biến và an toàn nhất hiện nay. Với những
bệnh nhân không tự ăn uống được, vấn đề đặt ra là phải lựa chọn và sử dụng đường
đưa thuốc khác một cách hợp lý. Tuy nhiên, sử dụng thuốc đường tiêm có nguy cơ
biến chứng và không thích họp trong điều trị thời gian dài liên tục. Hơn nữa, các
chế phẩm sẵn có ngoài đưòng tiêu hóa như dạng ngậm, đặt dưới lưỡi, đặt trực tràng,
thẩm thấu qua da còn rất hạn chế. Thêm vào đó, ở những bệnh nhân không ăn uống
được, ngoài liệu pháp điều trị bằng thuốc còn cần nuôi dưỡng nhân tạo để nâng cao
thể trạng của bệnh nhân. Khi được chỉ định nuôi dưỡng nhân tạo đưÒTig tiêu hóa,
bệnh nhân sẽ được đặt ống thông để dẫn thức ăn. Với những lý do trên, thực tế là
ống thông tiêu hóa đã trở thành một đường đưa thuốc ngày càng phổ biến.
Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc qua ống thông tiêu hóa tiềm ẩn khá nhiều nguy
cơ. Điển hình là việc nghiền viên nén và mở vỏ nang thuốc có dạng bào chế đặc
biệt, gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của thuốc như giảm tác dụng điều trị hoặc
tăng tác dụng không mong muốn trên bệnh nhân.
Khoa Hồi Sức Tích Cực bệnh Bạch Mai là nơi tiếp nhận tất cả các bệnh nhân
nặng cần được hồi sức từ các khoa/viện/trung tâm trong bệnh viện và từ các tỉnh
khu vực phía Bắc. số lượng bệnh nhân đặt ống thông dạ dày với mục đích nuôi
dưỡng nhân tạo ở khoa lớn hơn hẳn những khoa phòng điều trị trong viện hay ở các
bệnh viện khác. Do vậy, thực trạng sử dụng thuốc trên bệnh nhân đặt ống thông tại
khoa rất cần được quan tâm.
Hiện nay, những khuyến cáo về việc sử dụng thuốc trên bệnh nhân đặt ống
thông tiêu hóa đã phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên lại chưa có nhiều
khuyến cáo ở Việt Nam về vẩn đề này.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài;
"'Khảo sát thực trạng sử dụng thuốc trên bệnh nhân đặt ống thông dạ dày tại
khoa Hồi Sức Tích Cực Bệnh viện Bạch Mai”
Với mục tiêu:
1. Khảo sát thực trạng kê đơn thuốc trên bệnh nhân đặt ổng thông dạ dày tại
khoa Hồi Sức Tích Cực, bệnh viện Bạch Mai.
2. Khảo sát kỹ năng đưa thuốc qua ống thông của điều dưỡng tại khoa Hồi sức
Tích Cực, bệnh viện Bạch Mai.
PHÀN 1. TỐNG QUAN
1.1. ĐẠI CƯƠNG VÈ ÓNG THÔNG
Ống thông được sử dụng trong nuôi dưỡng nhân tạo lần đầu vào những năm
cuối thế kỷ 18. Đến nay số bệnh nhân đặt ống thông tăng 20% mỗi năm với những
lý do khác nhau như chán ăn kéo dài, suy dinh dưỡng nặng hay không có khả năng
tự ăn uống đưòng miệng do chấn thưong đầu, cổ hay các rối loạn thần kinh, hoặc
mắc những bệnh nặng gây tăng chuyển hóa như bỏng, ung thư, các bệnh tim phổi
khác [39], [47].
1.1.1. Phân loại ống thông
Có nhiều cách phân loại ống thông khác nhau, sau đây là những cách phân loại
điển hình:
- Theo vị trí đặt ổng
Bảng 1.1: Phân loại vị trí đặt ổng thông
Vị trí đâu ông vào
Vị trí điềm cuôi ông
Mũi
Dạ dày
Miệng
Tá tràng
Da
Hông tràng
Tùy theo vị trí đầu và cuối ống sẽ có ống đặt qua mũi, miệng hoặc mở thông qua
da vào thành ruột xuống dạ dày hoặc tá tràng hay hỗng tràng. Quá trình đặt ống
được tiến hành với sự hỗ trợ của kỹ thuật nội soi, soi huỳnh quang hay soi X-quang
[47].
Theo kích thước ống
Dựa vào độ dài đưòng kính ngoài của ống, tính theo đơn vị French (1 French =
0.33mm), phân chia ổng thông thành hai loại:
Ống nhỏ: 5-12 đơn vị, giúp bệnh nhân dễ chịu hơn nhưng dễ bị tắc bởi thuốc và
những công thức dinh dưỡng đặc so với ống lớn.
Ống lớn: >14 đơn vị [48].
- Theo chất liệu cẩu tạo
Dựa vào chất liệu cấu tạo, có ống làm từ Polyurethan (PUR), Polyvinylchlorid
(PVC), Silicon hay latex [47],
1.1.2. ưu nhược điểm và ứng dụng của ống thông
Sự lựa chọn loại ống thông trên mỗi bệnh nhân phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao
gồm tình trạng bệnh tật, các tổn thương và khoảng thời gian dự kiến hỗ trợ dinh
dưỡng. Khi đưa thuốc qua ống thông, ngoài những yếu tố thuộc về thuốc và cách
thức đưa thuốc thì vị trí đặt ống và kích thước ống là hai đặc điểm quan trọng cần
xem xét để đảm bảo hấp thu của thuốc và vấn đề lưu thông trong ống không bị ảnh
hưởng lớn. Mỗi loại ống có ưu nhược điểm và ứng dụng khác nhau.
Dạ dày là vị trí đặt ống thông truyền thống với chi phí thấp, thuận tiện hơn
những vị trí khác, đồng thời chịu được nhiều chế phẩm thuốc và công thức đường
ruột khác nhau, bao gồm cả những chế phẩm ưu trương [29]. ổng thông mũi-dạ dày
(NG) thưòng có kích thước lớn, ít bị tắc nghẽn, ngoài khả năng nuôi dưỡng và đưa
thuốc còn dùng để đo pH và thể tích dạ dày tồn dư. Khi ống NG được dùng để hút
dịch dạ dày không nên đưa thuốc vì khó tránh khỏi việc thuốc bị trôi đi. Chất liệu
ống thông mũi dạ dày thích hợp và phổ biến là Polyurethane với ưu điểm là giữ
được đặc tính mềm và linh hoạt, không trở nên giòn như Polyvinylchloride khi tiếp
xúc với acid dạ dày, đồng thời ít bị tắc so với ống làm từ Silicon nhờ đường kính
trong lớn hơn [10], [31], [37]. Khi ống NG được làm từ nhựa Polyvinylchloride,
một số thuốc như hỗn dịch phenytoin, Carbamazepin, viên nén levothyroxin,
amiodaron sẽ bám vào thành ống gây ảnh hưởng đến sự hấp thu của thuốc. Việc pha
loãng và tráng ống bàng nước, muối natriclorid hay dextrose sẽ làm giảm hiện
tượng này [13], [19].
Ruột non (bao gồm tá tràng và hỗng tràng) là vị trí đặt thích hợp hon với bệnh
nhân bị viêm tụy, trào ngược dạ dày - thực quản, bệnh nhân có thể tích dạ dày tồn
dư thường xuyên cao, bệnh nhân có nguy cơ sặc cao. Tuy nhiên, hiệu quả giảm
nguy cơ sặc không được chứng minh một cách chắc chắn khi ống đặt tại hỗng tràng
[48].
Vị trí đặt ống ảnh hưởng lớn tới sự hấp thu của thuốc [48]. Hầu hết các thuốc
đường uống đều hấp thu tại ruột non, tuy nhiên, đối với những thuốc hoạt động và
hấp thu tại dạ dày, việc đặt ống thông tại ruột non sẽ làm giảm tối đa lợi ích của
thuốc.Ví dụ, các antacid có tác dụng trung hòa acid dạ dày, bismuth và sucralfat với
mục đích tạo màng bao bảo vệ dạ dày sẽ mất đi tác dụng khi qua ống thông xuống
thẳng ruột non, không qua dạ dày [29]. Ngoài ra cần đặc biệt lưu ý đến việc đưa
thuốc qua ống thông đặt tại hỗng tràng, sự hấp thu thuốc có thể giảm do ảnh hưởng
của pH, do thuốc bị vận chuyển xa vị trí hấp thu, hoặc do giảm thời gian tiếp xúc
với đường tiêu hóa. Ví dụ, sinh khả dụng của các thuốc hấp thu tối ưu tại môi
trưÒTig acid dạ dày như thuổc chống nấm ketoconazol sẽ giảm khi đưa qua ống
thông hỗng tràng [47]. Do đó, nhìn chung, đặt ống thông tại dạ dày thích hợp để đưa
thuốc hon so với đặt tại ruột non.
Mũi: đặt ống thông từ mũi xuống đường tiêu hóa thích hợp khi bệnh nhân nuôi
dưỡng qua đường tiêu hóa trong thời gian ngắn do chi phí thấp, dễ đặt.
Miệng: đặt ống từ miệng cũng thích hợp trong thời gian ngắn, đặc biệt trong
trưòng hợp không sử dụng được đường mũi. Ví dụ: bệnh nhân có tổn thương đầu,
bệnh nhân viêm xoang; trẻ đẻ non hay trẻ sơ sinh - những đối tượng chỉ thở được
bằng mũi.
Da: trong khi đó, ống mở thông xuyên qua da vào thành bụng thích họp với
bệnh nhân phải nuôi dưỡng nhân tạo trong một thời gian dài (từ 4 - 6 tuần trở lên).
Ống qua thành bụng vào dạ dày nhờ nội soi (ống PEG) phổ biến nhất khi điều trị
thời gian dài do có thể thực hiện ngay tại giường bệnh, chỉ hỗ trợ giảm đau mà
không cần gây mê, giúp giảm chi phí và thời gian hồi phục [48].
1.1.3. Chế độ sử dụng
Việc lựa chọn chế độ nuôi dưỡng phụ thuộc vào vị trí đặt ống thông, tình trạng
lâm sàng và khả năng chịu đặt ống của bệnh nhân. Nhìn chung phổ biến có 4 chế độ
sau:
- Liên tục (continuous) tốc độ chậm, liên tục trong khoảng thời gian 24h, ít ngắt
quãng, thích hợp cho việc nuôi dưỡng khởi đầu qua đường tiêu hóa ở bệnh nhân nội
trú, bệnh nhân đặt ống thông trực tiếp vào ruột non và bệnh nhân điều trị tích cực.
Phương pháp này gây ra vấn đề lón về tương tác thuốc-thức ăn, thường yêu cầu
ngừng nuôi dưỡng khi đưa thuốc.
- Chu kỳ (cyclic) cho ăn từ 8-20h mỗi ngày, thường vào buổi tối với uu điểm có
thể khuyến khích sử dụng thuốc theo đường miệng vào ban ngày [48].
- Sử dụng liều tấn công trong thời gian ngắn (bolus) gần gũi với mô hình ăn
uống thông thường; thường sử dụng trong một thời gian ngắn (5-10 phút) khoảng 4
-6 lần một ngày. Do đó, ưu điểm của chế độ này là có thể đưa thuốc độc lập với
nuôi dưỡng.
- Gián đoạn (intermittent); chế độ này gần giống bolus, chỉ có khác biệt lớn là
sử dụng trong thời gian dài hơn (30-60 phút) giúp tăng khả năng chịu đựng của cơ
thể, nhưng vẫn không khuyến cáo đặt tại ruột non.
Chế độ nuôi dưỡng liên tục và chu kỳ có thể áp đụng với cả ống đặt tại dạ dày
và ruột non trong khi chế độ bolus và gián đoạn chỉ nên dùng khi ống đặt dạ dày do
thể tích dịch nuôi dưỡng mỗi lần của hai chế độ sau lớn hofn tỷ lệ dịch mỗi giờ của
hai chế độ trước [10]. Chế độ đưa thuốc với liều ngày một lần cùng chế độ nuôi
dưỡng bolus hoặc gián đoạn thuận tiện hơn so với chế độ đa liều một ngày với nuôi
dưõng liên tục.
1.1.4. Phương thức bơm tráng ống thông
Cách thức bơm tráng ống thông rất quan trọng để hạn chế tương tác, tình trạng
tắc n ghẽn và duy trì tuổi thọ của ống. Sự lựa chọn chất liệu để bơm tráng ống ảnh
hưcmg lớn đến nguy cơ xuất hiện tương tác vật lý gây tắc ống. Do đó, với đặc điểm
không gây tưong kỵ với mọi chất, nước là chất lỏng được ưu tiên để bơm tráng ống.
Những chất lỏng chứa carbonat không hiệu quả hơn so với nước mà còn có nguy cơ
tương tác với thuốc. Các chất lỏng có tính acid dễ gây vón cục, đông tụ hay những
thay đổi vật lý trong công thức nuôi dưỡng [10]. Ngoài ra, phương pháp dùng khí
cũng được khuyến cáo thay thế nước trong trường họp bệnh nhân phải giới hạn
lưọng dịch lỏng như bệnh nhân bệnh thận, tim mạch. Việc bơm rửa ống nên được
thực hiện cả trước và sau khi đưa thuốc, cũng như giữa các thuốc đưa qua ống
thông; trước và sau khi đưa thức ăn; ngay sau khi hút dịch dạ dày và đưa dịch trở lại
[47]. Thể tích bơm tráng ống phổ biến trước hoặc sau khi đưa thuốc là 15-30 ml,
giữa các thuốc là 5-lOml, tuy nhiên cần xem xét và điều chỉnh trên bệnh nhân nên
giới hạn lượng dịch cũng như dựa trên đường kính trong của ống.
7
1.1.5. Dung môi phối họp đira thuốc qua ống thông
Hầu hết nước được sử dụng làm dung môi phối họp đưa thuốc qua ống thông
như dùng đường uống, tuy nhiên trong trường hợp các thuốc có dạng bào chế đặc
biệt như dạng bao tan trong ruột, có thể sử dụng dung môi khác như muối
bicarbonat, nước ép hoa quả nhằm duy trì đặc tính dược động học và tác dụng của
thuốc.
1.2. THUÓC SỬ DỤNG TRÊN BỆNH NHÂN ĐẶT ÓNG THÔNG
1.2.1. Đường đưa thuốc thay thế
Ống thông không phải là một đường đưa thuốc chính thống, phổ biến với nhiều
bệnh nhân, đồng thời không có những chế phẩm được thiết kế đặc biệt cho đường
dùng này. Hơn nữa việc đưa bất kỳ thuốc nào qua ống thông cũng tiềm ẩn những
nguy cơ thay đổi hiệu quả của thuốc, xảy ra tương tác, tương kỵ hay tắc ống. Do đó
xem xét một đường dùng thay thế cho đường qua ống thông là một trong những
bước đầu tiên trong kế hoạch điều trị trên bệnh nhân đặt ống thông, ưu điểm nổi bật
của việc sử dụng một đưòng đưa thuốc khác thay thế so với đưa thuốc qua ống
thông là thuốc được giữ nguyên trạng thái, dạng bào chế vốn có không cần phải
nghiền hay phân tán, pha loãng thuốc trước.
Bảng].2: Một số đường đưa thuốc có thể sử dụng
thay thế đường qua ổng thông
Đường đưa thuốc \
Đặc diêm
Tiêm tĩnh mạch
(IV)
- Là phưong pháp điêu
trị có xâm lấn với chi
phí đắt hơn, gây đau
hơn so với dùng đường
uống và cần cán bộ có
trình độ cao [48].
- SKD của thuốc theo
- Thuốc được hấp thu nhanh.
Tiêm bắp
(IM)
- Thuốc hấp thu chậm hơn IV.
- Không thích hợp với bệnh nhân bị
ức chế miễn dịch hoặc bệnh nhân có
xu hướng tăng chảy máu
Tiêm dưới da
(SC)
đường tiêm, đặc biệt
tiêm tĩnh mạch thường
cao hơn so với các
đường đưa thuốc khác.
- Thuôc được hâp thu chậm hơn IV,
IM
- Có thể gây tổn thương mô tại chỗ.
- Không thích hợp với bệnh nhân bị
ức chế miễn dịch hoặc bệnh nhân có
xu hướng tăng chảy máu.
Đặt dưới lưỡi
- Không thích hợp với những bệnh nhân tôn thương niêm mạc,
miệng, khô miệng, tiết quá nhiều nước bọt, buồn nôn, nôn hay
khó khăn khi nuốt.
- Bệnh nhân không được ăn hay uống cho đến khi thuốc hòa
tan hoàn toàn.
Ngậm
- Không thích họp với những bệnh nhân tôn thưong niêm mạc,
miệng, khô miệng, tiết quá nhiều nước bọt, buồn nôn, nôn hay
khó khăn khi nuốt.
- Bệnh nhân không được ăn hay uổng cho đến khi thuốc hòa
tan hoàn toàn.
- Có thể kích ứng niêm mạc.
Đặt trực tràng
Không thuận tiện.
Không thích họp cho bệnh nhân bị bệnh tim mạch, phẫu thuật
trực tràng, xu hướng tăng chảy máu.
Thẩm thấu qua da
Không thích hợp với bệnh nhân bị kích ứng da, phát ban hoặc
có vết thưong hở.
Có thể gây kích ửng da, đỏ da, phát ban, ngứa, viêm da dị ứng
Xông hít.
Chỉ có ít chê phâm săn có.
Không thích họp cho bệnh nhân có tổn thưong đường hô hấp
trên.
Với những thuốc không có dạng bào chế, liều lượng sẵn có thì xem xét sử dụng
thuốc khác với tác dụng tưoTig đương. Ví dụ: Fentanyl hệ thẩm thấu qua da thay thế
cho morphin đường uống. Chú ý cần hiệu chỉnh liều và tần suất đưa thuốc [7].
1.2.2. Dạng bào chế được khuyến cáo đưa qua ống thông
Trong trường họp việc sử dụng một đường đưa thuốc khác thay thế là không khả
thi, yếu tố quan trọng cần xem xét để đưa một thuốc qua ổng thông tiêu hóa là dạng
bào chế của thuốc đó mà đầu tiên là thể chất hay trạng thái vật lý của thuốc.
Chú ỷ: Thể chất thuốc được xét ở trạng thái ngay trước khi sử dụng.
I.2.2.I. Dạng lỏng là dạng thích họp đưa qua ống thông do hấp thu dễ dàng, thường
không gây tắc ống.
Một số điểm cần lưu ỷ khi sử dụng dạng thuốc lỏng qua ống thông:
1-Chỉ rút thuốc và phân tán trong ống tiêm được thiết kế riêng để đưa thuốc
vào ổng thông (khác ống dùng tiêm tĩnh mạch, tiêm bắp, dưới da )
2-Hiệu chỉnh liều và tần suất đưa thuốc khỉ thay đổi thuốc. Điều này đặc biệt
quan trọng khi thay thuốc có dạng bào chế giải phóng kéo dài bằng một chế phẩm
dạng lỏng với đặc tính giải phóng ngay tức hơn thì. Nhiều chế phẩm thiết kế dành
cho trẻ em, cần hiệu chỉnh liều sử dụng cho người lớn [48].
3-Tảc dụng không mong muốn. Nhiều chế phẩm là những chất siêu thẩm thấu,
hoặc chứa một lượng lớn sorbitol (tác dụng tạo vị ngọt, chất phối hợp dung môi
giúp tăng độ hòa tan) sẽ gây ra một số tác dụng không mong muốn trên đường tiêu
hóa. Với liều sorbitol >= 20g/ngày gây quặn một, tiêu chảy, chỉ với liều thấp 5-lOg
cũng gây trướng bụng, đầy hơi, do đó cần chú ý khi đưa đồng thời nhiều chế phẩm
chứa sorbitol trên cùng một bệnh nhân trong một ngày [10], [48].
Khả năng chịu đựng của ruột non với những chế phẩm ưu trương kém. Nếu
thuốc không được pha loãng ban đầu, khi được đưa trực tiếp vào ruột non như dùng
ống thông trực tiếp hỗng tràng (tiếp tục bỏ qua giai đoạn được pha loãng bàng dịch
vị dạ dày), có khả năng xảy ra các tác dụng không mong muốn kể trên.
Do đó, cần pha loãng thuốc với nước tinh khiết trước khi đưa qua ống thông (10
-30ml, hoặc nhiều hơn với những chế phẩm rất ưu trương hoặc đưa trực tiếp vào
ruột non) hoặc xem xét thay thế chế phẩm khác chứa hàm lượng sorbitol ít hơn với
tương đưong điều trị. Ngoài ra có thể chia nhỏ liều dùng của chế phẩm ưu trương và
giãn cách thời gian đưa các liều nhỏ đã chia [10]. vấn đề gặp phải là thông tin về áp
suất thẩm thấu trung bình của chế phẩm không phải lúc nào cũng sẵn có, hàm lượng
10
sorbitol thường không được đề cập trên nhãn; cách tốt nhất để biết thông tin là liên
hệ với nhà sản xuất.
Các dạng bào chế thuốc dạng lỏng được khuyến cáo:
Dung dịch là dạng thuốc thuận tiện, thích hợp để đưa thuổc qua ống thông do
thao tác khi đưa thuốc đon giản so với các dạng khác. Ngoài ra, thuốc được phân bố
đồng đều trong công thức cho phép phân liều chính xác. Tuy nhiên cần chú ý đến
vai trò của các tá dược làm hỗn họp dung môi có thể gây tác dụng dược lý; ví dụ:
sorbitol (>=15g/lngày) tác dụng nhuận tràng [47].
Hỗn dịch: cỏ thể đưa qua ống thông những hỗn dịch không qua tạo hạt, chú ý
pha loãng do độ nhớt và nồng độ osmol của chế phẩm thường cao. Với những hỗn
dịch có qua tạo hạt thì kích thước hạt và độ nhớt là những tiêu chí cần xét xem chế
phẩm có thích họp để đưa qua ổng thông hay không, đặc biệt lưu ý với dạng hạt bao
tan trong ruột hoặc giải phóng có kiểm soát [47]. Những hỗn dịch kháng sinh
thường chứa ít sorbitol hơn chế phẩm lỏng khác. Ví dụ một số hỗn dịch không thích
hợp dùng qua ống thông như hỗn dịch hạt lansoprazol quá nhót có thể gây tắc ống;
hỗn dịch sucralíat tạo mảng không tan [48].
Viên nén, bột, cốm có thể hòa tan, phân tán, sủi trong nước thành dạng lỏng.
ưu điểm lớn của dạng thuốc này là thuốc được chuyển thành dạng dung dịch hay
hỗn dịch thích họp hơn khi đưa qua ống thông. Chú ý: thuốc phải hoà tan, phân tán
hay sủi hoàn toàn trước khi đưa qua ổng thông. Kích thước của phần tử/ hạt trong
công thức viên phân tán có thể quá lớn để đưa qua ống thông kích thước nhỏ [47],
Nồng độ natri có thể cao trong viên sủi, cần thận trọng với người kiêng muổi và với
bệnh nhân suy thận [3].
Ngoài ra còn có elixir, siro cũng được khuyến cáo nhưng đa số lại gây tương kỵ
[48].
I.2.2.2. Dạng rắn: ngoài dạng thuốc lỏng được ưu tiên khi sử dụng qua ống thông
thì cũng có những thuốc dạng rắn được khuyến cáo sử đụng khi dạng lỏng không
thích họp hoặc không sẵn có.
Viên nén (bao gồm cả viên bao phim và bao đường) giải phóng tức thì, viên
nang chứa bột hay chứa hạt giải phóng tức thì là những dạng thuốc rắn có thể đưa
11
qua ống thông. Nghiền viên nén dạng này bằng chày cối hoặc dụng cụ nghiền đặc
biệt, mở vỏ nang cứng rồi phối hơp với dung môi đưa qua thông. Với viên nang
mềm, chích đầu nang và bóp thuốc ra, việc lấy hết liều thuốc là không dễ, do đó
ngâm cả vỏ nang vào nước ấm để lấy hết liều, chú ý phần vỏ gelatin không tan có
thể gây tắc ổng [48]. cần lưu ý hiệu chỉnh liều và tần suất đưa thuốc khi chuyển từ
dạng thuốc giải phóng kéo dài sang dạng giải phóng tức thì [10], Viên nén, viên
nang chứa hạt, pellet giải phóng kéo dài, bao tan trong ruột thì không được nghiền
hạt hay pellet, có thể cho phân tán viên nén hoặc phần thuốc trong nang trong nước
tạo hỗn dịch, sau đó mới đưa qua ống thông.
1.2.3. Dạng thuốc không thích hợp sử dụng qua ống thông
1.2.3.1. Dạng lỏng
Siro, elixir cỏ pH <4: thường gây tương kỵ với thức ăn nuôi dưỡng, do tạo ra
môi trường có pH acid dễ làm biến tính protein có trong thành phần thức ăn, ví dụ
như: gây đông tụ, kết tủa, tạo gel. Hon nữa, với tỷ lệ đường cao trong công thức
(56-64%), siro làm tăng độ nhớt của thức ăn và nguy cơ gây tắc ổng thông [31]. Pha
loãng siro không giảm tương kỵ, do đó khuyến cáo thay chế phẩm lỏng khác. Nếu
không thay thế được, dừng việc nuôi dưỡng, xả rửa ổng bằng ít nhất 30ml nước
trước và sau khi đưa thuốc [48].
1.2.3.2. Dạng rắn
Trạng thái của một thuốc ngay trước khi đưa qua ống thông luôn là dạng lỏng.
Đối với thuốc được sản xuất ở dạng rắn với đặc tính và cấu trúc đặc biệt, việc
nghiền nhỏ và phối hợp dung môi để chuyển thuổc sang dạng lỏng sẽ ảnh hưởng
không chỉ đến bệnh nhân thông qua hiệu quả của thuốc mà còn đến cả những nhân
viên y tế trực tiếp thực hiện nhiệm vụ này. Dựa trên những hậu quả có thể xảy, có
những dạng thuốc sau không thích họp đưa qua ống thông:
12
Bảng 1.3: Các dạng thuốc dạng rẳn không thích hợp sử dụng qua ổng thông
Dạng thuôc Ký hiệu viêt tăt Vidu
Viên bao tan trong ruột
DR
EC
Helizon 20mg (Omeprazol)
Nexium 40mg (Esomeprazol)
Viên giải phóng biến đổi
CD- CR- LA- PA
SR-XR/XL
Contin, retard
TD-TR
Imdur 60mg (Isosorbid mononitrat)
Diamicron MR 30mg (Gliclazid)
Adalat LA 30mg (Nifedipin)
Theostat LP 300mg (Theophyllin)
Viên ngậm,
viên đặt dưới lưỡi
Nitrostat 0.4mg (Nitroglycerin)
Fentora 100mg (Fentanyl)
Viên chứa chất gây độc
tế bào
Endoxan 50mg (Cyclophosphamid)
Cellcept 50mg (Mycophenolat
mofetil)
Viên kích ứng đường
tiêu hóa
Fosamax 70mg (Alendronat)
Felden 20mg (Piroxicam)
- Viên dạng bao tan trong ruột; được bào chế nhằm tránh sự tiếp xúc của hoạt
chất với môi trường dạ dày. Mục đích cụ thể trong nhiều trường hợp là khác nhau,
đó là: bảo vệ dược chất không bền trong môi trường acid; bảo vệ dạ dày tránh sự
kích ứng của dược chất; trì hoãn sự tấn công của thuốc. Những thuốc dạng này được
thiết kế bao dược chất bởi màng bao không tan trong môi trưòng dạ dày, tan trong
ruột. Việc nghiền nhỏ thuốc sẽ phá vỡ cấu trúc màng bao, tạo điều kiện cho dược
chất tiếp xúc với dạ dày, làm giảm tác dụng của thuốc, kích ứng dạ dày hoặc tạo ra
những mảng nhỏ là nguyên nhân có thể gây tắc ống thông. Tuy nhiên, khi thuốc
được bao màng tránh acid dạ dày có thể phân tán thuốc trong dung dịch muối
bicarbonate, nước hoa quả trước khi đưa qua ổng thông. Ví dụ: omeprazol phân tán
trong 20ml NaHCOs, 20ml nước rửa có
C p ea k
~
C pe ak,
AUC ~ 25% khi uống cả viên
[35]
13
- Viên dạng giải phóng có biến đổi: thuốc được sản xuất nhằm giải phóng hoạt
chất trong những khoảng thời gian kéo dài cho phép giảm tần suất đưa thuốc, cấu
trúc thuốc tương đổi phức tạp tương ứng với những cơ chế giải phóng hoạt chất
khác nhau: thiết kế đa lớp, giải phóng thuốc khi mỗi lớp được hòa tan; cấu tạo gồm
những hạt pellet giải phóng, hòa tan ở những khoảng thời gian khác nhau; là những
khuôn trơ cho phép thuốc giải phóng chậm. Khi nghiền những dạng thuốc này, các
cấu trúc đó bị mất đi đồng thời hoạt chất sẽ được giải phóng hết tức thì tạo nồng độ
lớn gây độc cho bệnh nhân [35]. Bên cạnh đó, có một số nghiên cứu cho rằng tác
dụng của thuốc thất thưòng, khác nhau. Ví dụ: Theophylin SR giảm SKD, giảm tác
dụng. Nifedipin lại tăng SKD, gây độc [13].
- Viên ngậm, đặt dưới lưỡi; được sử dụng tại khoang miệng, có đặc tính
khuếch tán qua mạch máu dưới lưỡi hoặc bên trong má, tránh chuyển hóa qua gan
bước 1 [36]. Nghiền và đưa thuốc qua ống thông sẽ thay đổi vị trí hấp thu và quá
trình chuyển hóa của thuốc, làm giảm hấp thu và tăng chuyển hóa thuốc.
- Khi nghiền những thuốc chứa độc tố, chất gây ung thư, đột biến, những phần
tử bay hơi sẽ gây độc cho nhân viên y tế.
- Việc nghiền dạng thuốc chứa chất kích ứng đường tiêu hóa sẽ gây kích ứng,
thậm chí loét đường tiêu hóa khi sử đụng.
1.3. TƯƠNG TÁC - TƯOỈNG KỴ c ó THÊ GẶP PHẢI KHI DÙNG THUỐC
QUA ỐNG THÔNG
Tương tác, tương kỵ xảy ra sẽ ảnh hưởng đến sinh khả dụng của thuốc cũng như
nguy cơ tắc nghẽn ống. Khi thuốc được đưa qua ống thông thì có khả năng xảy ra
những loại tương tác sau:
1.3.1. Tương tác thuốc - thuốc
Ngoài những tương tác thuốc - thuổc thông thường, quan tâm đến tương kỵ
trong hòa tan hoặc nghiền và đưa qua ống thông cùng nhau ảnh hưởng đến hiệu lực
của thuốc và tác dụng không mong muốn trên bệnh nhân. Ví dụ: tetracyclin khi
nghiền cùng với những chế phẩm cung cấp khoáng chất sẽ tạo phức chelat làm giảm
sinh khả dụng của thuốc. Bên cạnh đó, với những cặp thuốc tưong tác trong giai
14
đoạn hấp thu thì \iệc nghiền riêng và đưa thuốc cách nhau l-2h là biện pháp tối ưu
giảm nguy cơ tương tác.
1.3.2. Tương tác thuốc - thức ăn nuôi dưỡng
- Theo nghĩa rộng
Tương tác giữa thuốc và thức ăn nuôi dưỡng được hiểu theo nghĩa rộng bao
gồm toàn bộ những ảnh hưỏng của thuốc đến việc nuôi dưỡng nhân tạo qua đưòng
tiêu hóa, cũng như những ảnh hưởng của thức ăn nuôi dưỡng tới liệu pháp điều trị
bằng thuốc. Tương tác trong trưòng họp này là hậu quả về mặt vật lý, hóa học, sinh
học, sinh lý bệnh học giữa thuốc và chất dinh dưỡng hay thức ăn nói chung. Trên cơ
sở này, phân ra thành nhiều loại tưong tác, tuy nhiên không có sự phân biệt quá lớn,
các loại tương tác thường có mối liên quan với nhau:
- Tương tác vật lý, hóa học: là những tương tác làm thay đổi tính chất bề mặt,
độ nhớt, độ chắc, nhớt của thuốc hay thức ăn. Một ví dụ điển hình là sulcralfate gắn
với thành phần protein trong thức ăn nuôi dưỡng làm tăng kích thước phân tử thuổc,
có thể gây tắc ống [47], [49].
- Tương tác về mặt bào chế; thay đổi dạng bào chế của thuốc để đưa qua ống
thông, điển hình là việc nghiền viên nén hay mở vỏ nang thuốc sẽ làm thay đổi quá
trình hấp thu thuốc trong cơ thể, gây độc tố hoặc kích ứng đưòng tiêu hóa.
- Tương tác dược lý học; là tương tác xảy ra khi cơ chế tác dụng của thuốc ảnh
hưởng đến hấp thu của thức ăn và khả năng dung nạp với các công thức nuôi dưỡng
đưòng ruột. Ví dụ: những thuốc kích thích nhu động đường tiêu hóa làm giảm hấp
thu của thức ăn do giảm thời gian tiếp xúc với đường tiêu hóa.
- Tưong tác sinh lý học: tưong tác loại này không liên quan đến mục đích sử
dụng thuốc, thành phần chất nuôi dưỡng mà quan tâm đến ảnh hưỏng của thuốc đến
khả năng dung nạp thức ăn, ảnh hưỏng của thức ăn đến hiệu quả của thuốc. Những
tương tác này gần gũi với tác dụng không mong muốn của thuốc hay thức ăn. Ví dụ;
những chế phẩm thuốc dạng lỏng ưu trưong có thể gây ra những triệu chứng như
nôn, buồn nôn, đầy bụng, tiêu chảy. Đây là những yếu tố làm tăng khả năng không
dung nạp thức ăn nuôi dưỡng.
15
- Tương tác sinh lý bệnh học: thay đổi tình trạng bệnh lý của bệnh nhân bởi
thuốc, thức ăn sẽ ảnh hưỏng đến những thuổc khác. Ví dụ: ở bệnh nhân được chỉ
định chế độ nuôi dưỡng liên tục, việc ngừng nuôi dưỡng trong l-2h để đưa thuốc
qua ống thông sẽ làm ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân mà cụ
thể là gây ra tình trạng suy dinh dưỡng. Tình trạng này sẽ ảnh hưcntig đến hấp thu,
phân bố của thuốc.
- Tương tác dược động học: tương tác làm thay đổi quá trình hấp thu, phân bố,
chuyển hóa, thải trừ của thuốc hay thức ăn. Tương tác này thực tế thường là kết quả
của những loại tương tác khác. Ví dụ: tưong tác vật lý của sulcralfate ở trên, khi
thuốc liên kết với protein, kích thước phân tử tăng lên, hấp thu thuốc giảm đi.
Theo cách hiểu về tương tác thuốc và thức ăn nuôi dưỡng như vậy, có rất nhiều
yếu tố cần xem xét nhằm mục đích hạn chế tương tác. Đó là các yếu tố liên quan
đến phương pháp đưa thuổc thưÒTig ảnh hưởng đến khả năng dung nạp thức ăn như
độ dài, đường kính ống, chất liệu làm ống thông; chế độ nuôi dưỡng: liên tục, chu
kỳ, tấn công hay gián đoạn; phưong thức bơm tráng ống; vị trí đặt ống. Các yếu tố
liên quan đến thuốc như dạng bào chế, thành phần tá dược mà chủ yếu là sorbitol rất
quan trọng, đặc biệt lưu ý với nguy cơ xảy ra tương tác về mặt bào chế. Những đặc
điểm về thức ăn nuôi dưỡng, chú ý với thành phần protein, cation hay gây ra tương
tác vật lý [10].
- Theo nghĩa thông thường
Tương tác thuốc - thức ăn nuôi dưỡng được hiểu theo nghĩa thông thường là
tương tác trực tiếp giữa thuốc và thức ăn làm thay đổi chủ yếu về dược động học
của thuốc, điển hình là trong giai đoạn hấp thu. Những tương tác này có thể bị ngăn
chặn bằng cách ngừng nuôi dưỡng trong l-2h trước và sau khi đưa thuốc. Đã có
nhiều nghiên cứu quan tâm và ghi nhận các tưong tác này, ví dụ tương tác của
ciprofloxacin, phenytoin, fluconazol.
1.3.3. Thuốc - ống thông
Tương tác có thể xảy ra giữa thuốc và vật liệu làm ống nhưng ít gặp.
Ví dụ: một nghiên cứu invitro cho thấy sự giảm một cách rõ ràng liều hỗn dịch
Carbamazepin khi đưa qua ống thông mũi - dạ dày chất liệu Polyvinylchloride [47].
16
1.4. HƯỚNG DẲN SỬ DỤNG THUỐC TRÊN BỆNH NHÂN ĐẶT ÓNG
THÔNG TIÊU HÓA
Hướng dẫn bao gồm trật tự 5 bước sau:
1. Lựa chọn thuốc.
2. Lựa chọn đưòng đưa thuốc.
3. Lựa chọn công thức thuốc.
4. Chú ý tương tác giữa thuốc và thức ăn.
5. Chú ý trước và sau khi đưa thuốc.
Bước 1: Lựa chọn thuốc
Cán bộ y tế xem xét liệu pháp đùng thuốc của từng bệnh nhân mới sử dụng ống
thông. Với những thuốc không thiết yếu trong khoảng thời gian ngắn thì có thể tạm
dừng.
Bước 2: Lựa chọn đường dùng
Nên sử dụng một đưòfng dùng có thể thay thế đường qua ống thông. Chú ý hiệu
chỉnh liều và tần suất đưa thuốc khi thay đổi đường dùng và loại thuốc. Ví dụ,
fentanyl hệ thẩm thấu qua da thay thế cho morphin đường uống.
Bước 3: Lựa chọn dạng bào chế
Dạng lỏng là dạng thuốc được ưu tiên hơn. Đặc điểm và cách thức thực hiện đã
nêu ở mục 1.2.2.
Bước 4. Chú ỷ tương tác thuốc - thức ăn
Với những thuốc yêu cầu sử dụng lúc dạ dày rỗng không nên đưa cùng với thức
ăn, dừng nuôi dưỡng 1 -2h trước và sau khi đưa những thuốc này.
Bước 5: Chú ỷ trước và sau khi đưa thuốc.
Thuốc đưa qua ống thông nên được nghiền và đưa riêng lẻ khi có nhiều hơn một
thuốc được kê đơn cùng thời điểm [9], Mỗi thuốc thưòng được hòa tan hay phân tán
trong 20-30ml nước vô trùng. Để tránh tắc ổng, đưa 20-30 ml nước vô trùng trước
và sau khi đưa bất kỳ thuốc nào qua ống thông và 5 -lOml giữa mỗi thuốc. Lượng
dịch đưa vào nằm trong giới hạn tính toán trên những bệnh nhân hạn chế lượng dịch
hay nguy cơ biến chứng do lưọng dịch quá thừa. Trường hợp này có thể dùng
17
không khí để xả rửa ống thông. Yêu cầu dùng thiết bị thông ống đặc biệt (clog
Zapper) khi cần thiết [17],
TRƯỜNG ĐH DƯỢC HÀ NỘI
T H Ư V I Ệ N
Ngày tháng ¿ "năm 20:ịri.
SỐ9KCB:
18
PHẦN 2. ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứ u
Để phù hợp với mục tiêu và quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ trình bày về đối
tượng và phương pháp nghiên cứu theo hai giai đoạn của nghiên cửu như sau:
2.1. KHẢO SÁT THựC TRẠNG KÊ ĐƠN THUỐC TRÊN BỆNH NHÂN
ĐẶT ỐNG THÔNG DẠ DÀY TẠI KHOA HỎI sức TÍCH cực BỆNH VIỆN
BẠCH MAI
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tưọng nghiên cứu của chúng tôi là băng - các của bệnh nhân điều trị tại
khoa Hồi Sức Tích Cực bệnh viện Bạch Mai trong thời gian nghiên cứu từ tháng
11/2010 - 01/2011 bao gồm băng - các của bác sỹ và băng - các của điều dưỡng
thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ.
Trong đó, một băng - các (band - card) của điều dưỡng là một bản theo dõi
bệnh nhân trong 4 ngày liên tiếp bao gồm thông tin cá nhân của bệnh nhân, chẩn
đoán, ngày điều trị; thông tin về vấn đề nuôi dưõng, thuốc sử dụng được ghi theo
từng ngày riêng biệt, ngoài ra còn có những theo dõi và chăm sóc đặc biệt khác.
Băng - các của bác sỹ có xét nghiệm hóa sinh máu, nước tiểu và một số thông tin
khác được ghi trong suốt giai đoạn bệnh nhân điều trị tại khoa.
Tiêu chuẩn lựa chọn:
• Băng - các theo dõi những ngày bệnh nhân đặt ống thông dạ dày.
Tiêu chuẩn loại trừ:
• Băng - các không ghi rõ ràng về thông tin cần thu thập.
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu
2.1.2.1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp hồi cứu
mô tả.
2.1.2.2. Phương pháp lẩy mẫu
Bước 1: Lấy tất cả những băng - các thỏa mãn tiêu chuẩn trong mục 2.1.1.
Bước 2: Lấy thông tin từ những phác đồ điều trị khác nhau của cùng một bệnh nhân
được ghi trong băng - các của điều dưỡng, khái niệm về “phác đồ” sẽ được trình