Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Thực trạng các quy định pháp luật việt nam về bán hàng và quảng cáo trên mạng xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149 KB, 25 trang )

2.1. Thực trạng các quy định pháp luật Việt Nam về bán hàng và
quảng cáo trên mạng xã hội
2.1.1. Thực trạng các quy định pháp luật Việt Nam về bán hàng trên mạng xã hội
Hoạt động bán hàng trên mạng xã hội chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại
năm 2005 và Nghị định số 52/2013/NĐ - CP của Chính phủ ngày 16/05/2013 về
thương mại điện tử, Thông tư số 47/2014/TT - BCT của Bộ Công thương ngày
05/12/2014 quy định về quản lý website thương mại điện tử.
Hiện nay, các hoạt động bán hàng trên mạng xã hội diễn ra tương đối phức tạp,
trong các hoạt động đó sẽ có những hình thức bán hàng đáp ứng các điều kiện và
chịu sự điều chỉnh của các quy định về thương mại điện tử, có những hoạt động bán
hàng khơng thuộc phạm vi và đối tượng áp dụng của Chính phủ và cơ quan Nhà nước
có liên quan về thương mại điện tử nhưng vẫn phải tuân theo các quy định của Luật
Thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành về hoạt động mua bán
hàng hóa nói chung.
Như vậy, hoạt động bán hàng trên mạng xã hội chịu sự điều chỉnh của pháp
luật về thương mại điện tử. Cụ thể như sau:
2.1.1.1 Những quy định của pháp luật về hoạt động bán hàng trên mạng xã hội phải
đăng ký với Bộ Công Thương
Hiện nay, trào lưu kinh doanh trên mạng xã hội, đặc biệt là hoạt động mua
bán hàng hóa đang nở rộ với quy mơ thị trường ngày càng lớn. Theo báo cáo về
thương mại điện tử Việt Nam năm 2013, khoảng 73% người sử dụng internet tại Việt
Nam có truy cập vào các diễn đàn, mạng xã hội. Kết quả khảo sát cũng cho thấy
45% người sử dụng internet có tham gia mua sắm qua các mạng xã hội. Con số này
dự báo có xu hướng tăng trong thời gian tới. Năm bắt được trào lưu trên, ngày càng
nhiều doanh nghiệp lựa chọn phương thức bán hàng thông qua mạng xã hội nhằm tiết
giảm chi phí, nâng cao hiệu quả tiếp cận khách hàng mục tiêu. Về mặt bản


chất và phương thức tổ chức, hoạt động kinh doanh trên các mạng xã hội giống với
hoạt động kinh doanh trên sàn giao dịch thương mại điện tử. Do vậy, Thông tư số
47 làm rõ hơn quy định của Nghị định 52/2013/NĐ - CP của Chính phủ, theo đó,


u cầu các mạng xã hội có hoạt động theo hình thức sàn giao dịch thương mại điện
tử (như liệt kê tại khoản 2 Điều 35 Nghị định số 52/2013/NĐ - CP) phải tiến hành
đăng ký với Bộ Công Thương và tuân thủ các quy định liên quan tới sàn giao dịch
thương mại điện tử tại Nghị định này. Quy định này nhằm thiết lập một môi trường
cạnh tranh lành mạnh cho thương mại điện tử phát triển, đồng thời nâng cao hiệu
quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này.
Theo Điều 6 Thông tư số 47/2014/TT - BCT của Bộ Công thương ngày
05/12/2014 quy định về quản lý website thương mại điện tử, quy định về quản lý
hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội thì các mạng xã hội có một trong các hình
thức sau phải tiến hành đăng ký với Bộ Cơng thương dưới hình thức sàn giao dịch
thương mại điện tử:
- Website cho phép người tham gia được mở các gian hàng trên đó để trưng
bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ;
- Website cho phép người tham gia được lập các website nhánh để trưng bày,
giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ;
- Website có chuyên mục mua bán trên đó cho phép người tham gia đăng tin
mua bán hàng hóa và dịch vụ;
- Các loại website khác do Bộ Cơng Thương quy định.
Theo đó, Khoản 2 Điều 6 Thông tư nêu trên quy định: “Thương nhân, tổ
chức thiết lập mạng xã hội quy định tại Khoản 1 Điều này phải thực hiện các trách
nhiệm của thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử
theo quy định của pháp luật”.14 Do đó, thương nhân hay tổ chức thiết lập các mạng
xã hội nhằm thực hiện các hoạt động nêu trên sẽ phải tuân theo các quy định của
pháp luật về cung cấp sàn giao dịch thương mại điện tử. Sàn giao dịch thương mại

14

Điều 6 Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày 05/12/2014 quy định về quản lý website thương mại điện tử



điện tử được hiểu theo quy định tại Khoản 9 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ - CP
của Chính phủ về thương mại điện

 Điều kiện thành lập và đăng ký sàn giao dịch thương mại điện tử
Điều kiện thành lập và đăng ký sàn giao dịch thương mại điện tử được quy
định khá đầy đủ và chi tiết tại Nghị định 53/2013/NĐ - CP của Chính phủ về
thương mại điện tử và Thông tư số 47/2014/TT - BCT của Bộ Công thương quy
định về quản lý website thương mại điện tử.
Thứ nhất, đối tượng đăng ký: Tại Điều 13 Thông tư số 47/2014/TT - BCT
của Bộ Công Thương quy định đối tượng đăng ký dịch vụ sàn giao dịch thương mại
điện tử là thương nhân hoặc tổ chức hoạt động trong lĩnh vực xúc tiến thương mại
hoặc hỗ trợ doanh nghiệp, có website thương mại điện tử trên đó cung cấp dịch vụ
sàn giao dịch thương mại điện tử.
Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 Nghị định 52/2013/NĐ - CP
cũng quy định về điều kiện để cung cấp dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử:
Thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử là
thương nhân, tổ chức thiết lập website thương mại điện tử để các thương nhân, tổ
chức, cá nhân khác có thể tiến hành một phần hoặc tồn bộ quy trình bán hàng hóa,
dịch vụ trên đó.15
Thứ hai, hình thức hoạt động của sàn giao dịch thương mại điện tử: Các hình
thức hoạt động của sàn giao dịch thương mại điện tử tại Khoản 2 Điều 35 Nghị định
52/2013/NĐ – CP được liệt kê như ở trên.
Thứ ba, quy chế hoạt động của sàn giao dịch thương mại điện tử: Sàn giao
dịch thương mại điện tử có một quy chế hoạt động khá chặt chẽ và rõ ràng bao gồm
các nội dung như: quyền và nghĩa vụ của thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ
sàn giao dịch thương mại điện tử, người sử dụng dịch vụ sàn giao dịch thương mại
điện tử; quyền và nghĩa vụ của các bên trong các giao dịch được thực hiện trên sàn
giao dịch thương mại điện tử; giới hạn trách nhiệm của thương nhân, tổ chức cung
cấp dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử trong những giao dịch thực hiện trên
15


Khoản 1 Điều 35 Nghị định 52/2013/NĐ – CP về thương mại điện tử

55


sàn; các quy định về an tồn thơng tin, quản lý thông tin trên sàn giao dịch thương
mại điện tử; cơ chế giải quyết khiếu nại, tranh chấp giữa các bên liên quan đến giao
dịch tiến hành trên sàn giao dịch thương mại điện tử; biện pháp xử lý các hành vi
xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, người không tuân thủ quy chế hoạt động trên
sàn giao dịch thương mại điện tử v.v…

 Hoạt động mua bán hàng hóa trên sàn giao dịch thương mại điện tử
Liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa trên sàn giao dịch thương mại
điện tử, vấn đề trách nhiệm của các thương nhân, tổ chức cá nhân có liên quan đến
việc chào bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử đã
được quy định rất rõ ràng tại Thông tư số 47/2014/TT - BCT của Bộ Cơng Thương
và Nghị định 52/2013/NĐ - CP của Chính phủ về thương mại điện tử.
Đối với những thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao dịch thương
mại điện tử cần phải áp dụng biện pháp cần thiết để đảm bảo an tồn thơng tin liên
quan đến bí mật kinh doanh của thương nhân và thông tin cá nhân. Không được
đánh cắp, sử dụng, tiết lộ, chuyển nhượng, bán các thơng tin liên quan đến bí mật
kinh doanh của thương nhân, tổ chức, cá nhân khác hoặc thông tin cá nhân của
người tiêu dùng trong thương mại điện tử khi chưa được sự đồng ý của các bên liên
quan, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác16
Khi người tiêu dùng mua hàng hóa hoặc dịch vụ phát sinh mâu thuẫn với
người bán hoặc bị tổn hại lợi ích hợp pháp, thương nhân, tổ chức vận hành sàn giao
dịch thương mại điện tử phải cung cấp cho người tiêu dùng thơng tin đăng ký của
người bán, tích cực hỗ trợ người tiêu dùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bản thân. Thương nhân, tổ chức cung cấp sàn giao dịch thương mại điện tử phải

công khai cơ chế giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình giao dịch trên
sàn giao dịch thương mại điện tử.17
Thêm nữa, trước ngày 15 tháng 01 hàng năm thì thương nhân, tổ chức thiết
lập website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử phải báo cáo Bộ Công Thương số
liệu thống kế về tình hình hoạt động của năm trước đó. Việc báo cáo được thực hiện
16
17

Điều 4 Nghị định 52/2013/NĐ – CP của Chính phủ ngày 16/05/2013 về thương mại điện tử
Khoản 10 Điều 36 Nghị định 52/2013/NĐ – CP của Chính phủ ngày 16/05/2013 về thương mại điện tử


trực tuyến thông qua tài khoản của thương nhân, tổ chức tại Cổng thông tin Quản lý
hoạt động thương mại điện tử hoặc dưới hình thức văn bản qua đường bưu điện18.
Đối với thương nhân, tổ chức, cá nhân tham gia bán hàng hóa và cung ứng
dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử có những trách nhiệm cụ thể. Việc
cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin khi đăng ký sử dụng trên sàn giao dịch
thương mại điện tử cho thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao dịch thương
mại điện tử theo những quy định tại Điều 29 Nghị định 52/2013/NĐ - CP là trách
nhiệm quan trọng đầu tiên của thương nhân, tổ chức, cá nhân khi muốn chào bán
hàng hóa và cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử. Hơn nữa, các
thương nhân, tổ chức, cá nhân tham gia chào bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ trên
sàn giao dịch thương mại điện tử còn phải cung cấp đầy đủ thơng tin về hàng hóa,
dịch vụ và đảm bảo tính chính xác, trung thực của thơng tin về hàng hóa, dịch vụ
cung cấp trên sàn giao dịch thương mại điện tử theo các quy định từ Điều 30 đến
Điều 34 Nghị định 52/2013/NĐ - CP.
Ngoài ra, các thương nhân, tổ chức, cá nhân chào bán hàng hóa và cung ứng
dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử phải cung cấp thơng tin về tình hình
kinh doanh của mình khi có u cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để phục
vụ hoạt động thống kê thương mại điện tử; tuân thủ quy định của pháp luật về thanh

toán, quảng cáo, khuyến mại, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng và các quy định của pháp luật có liên quan khác khi bán hàng hóa hoặc
cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
thuế theo quy định của pháp luật.
Những vấn đề về trách nhiệm của thương nhân, tổ chức, cá nhân cung ứng
dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử và thương nhân, tổ chức, cá nhân tham gia
chào bán hàng hóa và cung ứng dịch trên sàn giao dịch thương mại điện tử được
quy định khá đầy đủ và chặt chẽ, là những vấn đề liên quan trực tiếp đến hoạt động
mua bán hàng hóa trên sàn giao dịch thương mại điện tử. Vấn đề trọng tâm nhất
được pháp luật quy định cho các thương nhân, tổ chức, cá nhân khi tham gia vào
18

Điều 20 Thông tư 47/2014/TT-BCT của Bộ Công Thương ngày 05/12/2014 quy định về quản lý website
thương mại điện tử

57


hoạt động mua bán hàng hóa trên sàn giao dịch thương mại điện tử là vấn đề nhằm
bảo vệ tốt nhất lợi ích cho người tiêu dùng khi tham gia giao dịch trên sàn giao dịch
thương mại điện tử. Đó là những quy định về bảo mật thông tin cho khách hàng; khi
có tranh chấp xảy ra, người tiêu dùng mua hàng hóa hoặc dịch vụ phát sinh mâu
thuẫn với người bán hoặc bị tổn hại lợi ích hợp pháp, thương nhân, tổ chức vận
hành sàn thương mại điện tử phải cung cấp cho người tiêu dùng thông tin đăng ký
của người bán, tích cực hỗ trợ người tiêu dùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bản thân. Tuy nhiên, những quy định đối với thương nhân, tổ chức, cá nhân khi
tham gia sàn giao dịch thương mại điện tử vẫn còn chưa thực sự chặt chẽ, cũng như
thiếu các biện pháp chế tài xử lý mang tính răn đe khi có vi phạm xảy ra.
2.1.1.2 Những quy định của pháp luật về hoạt động bán hàng trên mạng xã hội của
người bán hàng không phải đăng ký với Bộ Công Thương

Người bán hàng trên mạng xã hội thông qua việc lập các tài khoản cá nhân,
fanpage v.v…không phải đăng ký với Bộ Công thương theo quy định của Nghị định
52/2013/NĐ - CP của Chính phủ ngày 16/05/2013 về thương mại điện tử. Tuy
nhiên, các hoạt động mua bán hàng hóa trên mạng xã hội này vẫn được điều chỉnh
bởi các quy định pháp luật liên quan. Theo quy định tại Điều 37 Nghị định
52/2013/NĐ - CP của Chính phủ thì cá nhân, tổ chức bán hàng trên các mạng xã hội
sẽ không phải đăng ký với Bộ Công Thương nhưng phải tuân theo các quy định về
trách nhiệm của người bán hàng trên sàn giao dịch thương mại điện tử. Cụ thể:
- Cung cấp đầy đủ và chính xác thơng tin như tên, địa chỉ, số điện thoại của
người bán hàng, mã số thuế cá nhân (nếu có)…cho chủ sàn giao dịch thương mại
điện tử khi đăng ký sử dụng dịch vụ;
- Cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ theo quy định khi bán hàng hóa;
- Đảm bảo tính chính xác, trung thực về thơng tin của hàng hóa, dịch vụ cung
cấp hàng hóa trên sàn giao dịch thương mại điện tử;
- Tuân thủ quy định của pháp luật về thanh toán, quảng cáo, khuyến mãi, bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các quy định của pháp

58


luật có liên quan khác khi bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch
thương mại điện tử;
- Thực hiện các quy định tại Mục 2, Chương II của Nghị định số
52/2013/NĐ - CP của Chính phủ khi ứng dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên sàn
giao dịch thương mại điện tử;
- Cung cấp tình hình kinh doanh của mình khi có u cầu của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyên để phục vụ hoạt động thống kê thương mại điện tử;
- Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật.
Theo nguyên tắc của pháp luật thuế, đã kinh doanh thì phải thực hiện nghĩa
vụ thuế đối với Nhà nước. Đó là quyền và nghĩa vụ của bât kỳ cá nhân hay doanh

nghiệp nào. Tuy nhiên, Thông tư số 47/2013/TT - BCT của Bộ Cơng Thương khơng
có quy định về nghĩa vụ nộp thuế của người bán hàng trên mạng xã hội. Theo đó,
nghĩa vụ nộp thuế của người bán hàng trên mạng xã hội sẽ được dẫn chiếu theo quy
định tại Nghị định số 52/2013/NĐ – CP của Chính phủ “người bán hàng trên sàn
giao dịch thương mại điện tử phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế theo quy định của
pháp luật”.19 Như vậy, nếu mạng xã hội có hoạt động dưới hình thức sàn giao dịch
thương mại điện tử thì người bán hàng trên đó cũng phải thực hiện nghĩa vụ thuế
theo quy định của pháp luật. Việc kê khai thuế, cách thức thu thuế, mức thuế, loại
thuế v.v…được áp dụng theo các quy định của pháp luật hiện hành về thuế và quản
lý thuế.
Thêm nữa, quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập và thực hiện trên cơ sở
thuận mua, vừa bán, tức là trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên. Sự thống nhất ý
chí (hay cịn gọi là sự thỏa thuận) đó được thể hiện thông qua hành vi cụ thể của các
chủ thể liên quan hoặc thông qua văn bản gọi là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp
đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận của các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Do đó, đối với hoạt động
mua bán hàng hóa trên mạng xã hội khơng thuộc đối tượng và phạm vi điều chỉnh

19

Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử


của pháp luật về thương mại điện tử thì vẫn phải chịu sự điều chỉnh của Bộ Luật Dân
sự năm 2005 và Luật Thương mại năm 2005 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành.
2.1.2. Thực trạng các quy định pháp luật Việt Nam về quảng cáo trên mạng xã hội
Trong những năm gần đây, quảng cáo ở nước ta, đặc biệt là hoạt động quảng
cáo trên mạng xã hội có bước phát triển vượt bậc và bước đầu gặt hái được những
thành công. Tuy nhiên so với tiềm lực của nền kinh tế, so với tốc độ phát triển kinh
tế như hiện nay thì hoạt động quảng cáo chưa phát triển tương xứng. Mặt khác, mặc

dù hệ thống văn bản pháp luật về quảng cáo đã tương đối hoàn thiện nhưng hoạt
động quảng cáo trên mạng xã hội chưa có bất kỳ văn bản quy định cụ thể nào. Do
đó, đối với hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội phải chịu sự điều chỉnh của các
quy phạm pháp luật về hoạt động quảng cáo nói chung.
Nội dung cơ bản của pháp luật về quảng cáo của Việt Nam hiện nay được
quy định trong Luật Quảng cáo năm 2012 là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất.
Các quy định được thể hiện rõ ở phạm vi điều chỉnh của pháp luật về quảng cáo bao
gồm các nội dung cơ bản sau:
2.1.2.1. Chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo
Chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo bao gồm người quảng cáo, người kinh
doanh dịch vụ quảng cáo, người phát hành quảng cáo và người chuyển tải sản phẩm
quảng cáo được quy định tại các khoản 5, 6, 7 và 8 Điều 2 Luật Quảng cáo năm
2012. Các chủ thể chủ yếu tham gia quan hệ quảng cáo bao gồm: (i) Người quảng
cáo là tổ chức, cá nhân có yêu cầu quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình
hoặc bản thân tổ chức, cá nhân đó; (ii) Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo là tổ
chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn của q trình quảng
cáo theo hợp đồng cung ứng dịch vụ quảng cáo với người quảng cáo; (iii) Người
phát hành quảng cáo là tổ chức, cá nhân dùng phương tiện quảng cáo thuộc trách
nhiệm quản lý của mình giới thiệu sản phẩm quảng cáo đến cơng chúng, bao gồm
cơ quan báo chí, nhà xuất bản, chủ trang thơng tin điện tử, người tổ chức chương
trình văn hóa, thể thao và tổ chức, cá nhân sử dụng phương tiện quảng cáo khác;
(iv) Người chuyển tải sản phẩm quảng cáo là người trực tiếp đưa các sản phẩm


quảng cáo đến công chúng hoặc thể hiện sản phẩm quảng cáo trên người thơng qua
hình thức mặc, treo, gắn, dán, vẽ hoặc các hình thức tương tự; (v) Người tiếp nhận
quảng cáo là người tiếp nhận thông tin từ sản phẩm quảng cáo thông qua phương
tiện quảng cáo.
2.1.2.2. Sản phẩm quảng cáo trên mạng xã hội
Khoản 3 Điều 2 Luật Quảng cáo năm 2012 quy định như sau: “Sản phẩm

quảng cáo bao gồm nội dung và hình thức quảng cáo được thể hiện bằng hình ảnh,
âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng và các hình thức tương
tự”.20 Nội dung quảng cáo được quy định tại Điều 19 Luật Quảng cáo năm 2012
như sau: “Nội dung quảng cáo phải bảo đảm trung thực, chính xác, rõ ràng, không
gây thiệt hại cho người cho người sản xuất, kinh doanh và người tiếp nhận quảng
cáo”.21
Luật Thương mại năm 2005 đưa ra khái niệm sản phẩm quảng cáo thương
mại nói chung và sản phẩm quảng cáo trên mạng xã hội gồm: “những thơng tin
bằng hình ảnh, hành động, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh
sáng chứa đựng nội dung quảng cáo thương mại”. Sản phẩm quảng cáo trên mạng
xã hội là những thông tin bằng hình ảnh, âm thanh, màu sắc v.v…nhằm truyền tải
đến khách hàng và người tiêu dùng thông tin về hàng hóa, hoạt động kinh doanh
của họ. Thơng tin này phải bảo đảm tính chính xác, trung thực, rõ ràng khơng gây
thiệt hại cho người sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng.
Tùy thuộc vào đặc tính của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, đối tượng khách
hàng mà sản phẩm phải phù hợp với nếp sống của người Việt Nam. Hình thức thể
hiện của sản phẩm quảng cáo trên mạng xã hội phải có tính thẩm mỹ khơng trái với
truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục, phải rõ ràng, dễ hiểu và phải có dấu hiệu
phân biệt những thơng tin quảng cáo với những thông tin không phải là quảng cáo
để không gây nhầm lẫn cho nhà sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng. Sản phẩm

20

Khoản 3 Điều 2 Luật Quảng cáo số 16/2012/QH13
Điều 19 Luật Quảng cáo số 16/2012/QH13

21


quảng cáo trên mạng xã hội phải sử dụng tiếng Việt trừ những từ ngữ đã được quốc

tế hóa, thương hiệu hoặc từ ngũ không thay thế được bằng tiếng Việt.
2.1.2.3 Phương tiện quảng cáo trên mạng xã hội
Phương tiện quảng cáo là “công cụ được sử dụng để giới thiệu các sản phẩm
quảng cáo thương mại”. Theo Điều 17 Luật Quảng cáo năm 2012 quy định về các
phương tiện quảng cáo gồm:
Báo chí; trang thơng tin điện tử, thiết bị điện tử, thiết bị đầu cuối và các thiết
bị viễn thông khác; các sản phẩm in, bản ghi âm, ghi hình và các thiết bị cơng nghệ
khác; bảng quảng cáo, băng - rơn, biển hiệu, hộp đèn, màn hình chuyên quảng cáo;
phương tiện giao thông; hội chợ, hội thảo, hội nghị, tổ chức sự kiện, triển lãm,
chương trình văn hóa, thể thao; người chuyển tài sản phẩm quảng cáo; vật thể quảng
cáo; các phương tiện quảng cáo khác theo quy định của pháp luật.

22

Do vậy, như đã phân tích, quảng cáo trên mạng xã hội là việc sử dụng mạng xã
hội nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh
lợi; sản phẩm, dịch vụ khơng có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản
phẩm, hàng hóa, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thơng tin
cá nhân. Trong đó, mạng xã hội được xác định là dịch vụ kết nối các thành viên cùng
sở thích trên internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt
không gian và thời gian. Theo đó, việc kết nối các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp với
nhau trên mạng Internet sẽ thông qua hệ thống thiết bị điện tử là máy tính, các thiết
bị có kết nối internet v.v... Đồng thời, thông qua hệ thống các trang mạng xã hội, các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ quảng cáo hay cá nhân, tổ chức muốn quảng cáo
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình sẽ đăng tải các hình ảnh, clip âm thanh quảng
cáo về hàng hóa, dịch vụ đó. Sau khi được đăng tải trên mạng xã hội, các hình ảnh,
clip quảng cáo đó sẽ được người tiêu dùng truyền tin nhau thông qua hoạt động bình
luận, chia sẻ v.v…
Như vậy, phương tiện quảng cáo trên mạng xã hội được xác định là thiết bị
điện tử có kết nối mạng internet và tài khoản trên mạng xã hội do cá nhân, tổ chức,

22

Điều 17 Luật Quảng cáo số 16/2012/QH13


doanh nghiệp tự tạo lập hay các trên các trang mạng xã hội do cá nhân, doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ quảng cáo cung cấp.
2.1.2.4. Các hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội bị cấm
Quảng cáo là quyền của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể sử dụng mọi
hình thức, biện pháp để quảng bá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình. Trong đó
có hình thức quảng cáo trên mạng xã hội, quảng cáo nói chung và quảng cáo trên
mạng xã hội có vai trị đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, vì
những mục đích tự thân của mỗi doanh nghiệp mà sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong hoạt động quảng cáo thương mại nói chung, hoạt động quảng cáo trên
mạng xã hội nói riêng là điều khó tránh khỏi. Vì thế để đảm bảo trật tự trong hoạt
động quảng cáo thương mại nói chung và hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội nói
riêng, đảm bảo lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng, pháp luật
quy định một số hành vi bị cấm trong hoạt động quảng cáo thương mại nói chung
và hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội nói riêng.
Pháp luật Quảng cáo thương mại ghi nhận các hành vi quảng cáo bị cấm tại
Điều 8 Luật Quảng cáo năm 2012 và Điều 109 Luật Thương mại năm 2005. Cụ thể
có 16 hành vi quảng cáo bị cấm như sau:
Thứ nhất, quảng cáo những sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cấm quảng cáo theo
quy định tại Điều 7 Luật Quảng cáo năm 2012. Cụ thể: Hàng hóa, dịch vụ cấm kinh
doanh theo quy định của pháp luật; Thuốc lá; Rượu có nồng độ cồn từ 15 độ trở lên;
Sản phẩm sữa thay thế sữa mẹ dùng cho trẻ dưới 24 tháng tuổi, sản phẩm dinh dưỡng
bổ sung dùng cho trẻ dưới 06 tháng tuổi; bình bụ và vú ngậm nhân tạo; Thuốc kê
đơn; thuốc không kê đơn nhưng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khuyến cáo
hạn chế sử dụng hoặc sử dụng có sự giám sát của thầy thuốc; Các loại sản phẩm,
hàng hóa có tính chất kích dục; Súng săn và đạn súng săn, vũ khí thể thao và các loại

sản phẩm, hàng hóa có tính chất kích động bạo lực; Các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
cấm quảng cáo khác do Chính phủ quy định khi có phát sinh trên thực tế.
Trước đây, Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001 không quy định cụ thể chi tiết các
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cấm quảng cáo. Tuy nhiên, sau khi Luật Quảng


cáo năm 2012 ra đời đã khắc phục điểm hạn chế nêu trên của Pháp lệnh Quảng cáo,
tạo điều kiện cho quá trình áp dụng pháp luật của các chủ thể khi tham gia vào hoạt
động cũng như các chủ thể quản lý về quảng cáo thương mại nói chung và quảng
cáo trên mạng xã hội nói riêng.
Thứ hai, quảng cáo làm tiết lộ bí mật Nhà nước, phương hại đến độc lập, chủ
quyền quốc gia, an ninh, quốc phòng. Đây là hoạt động rất nhạy cảm nó tác động
trực tiếp đến ý thức con người, vì vậy nội dung thơng tin truyền tải phải chính xác,
rõ ràng, khơng chứa đựng những thông tin xấu làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia,
trật tự an tồn xã hội. Các thơng tin, nội dung quảng cáo trên mạng xã hội được lan
truyền rất nhanh chóng, do đó, việc quy định là hành vi cấm quảng cáo thương mại
nói chung và quảng cáo trên mạng xã hội là hoàn toàn phù hợp.
Thứ ba, quảng cáo thiếu thẩm mỹ, trái với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo
đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia có truyền thống lịch
sử lâu đời, văn hóa đa dạng và đa dân tộc. Vì vậy, nghiêm cấm mọi hoạt động
quảng cáo nói chung và quảng cáo trên mạng xã hội nói riêng ảnh hưởng đến lợi ích
chính trị của Nhà nước, quảng cáo có tính kỳ thị dân tộc tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tuyệt đối nghiêm cấm hành vi sử dụng Quốc kỳ, Đảng kỳ, Quốc huy, Quốc ca hoặc
giai điệu Quốc ca, hình ảnh lãnh tụ v.v…để quảng cáo trên mạng xã hội làm ảnh
hưởng đến sự nghiêm trang của cơ quan Nhà nước. Quảng cáo có tính chất bạo lực,
kinh dị, dùng từ ngữ không lành mạnh đều bị coi là hành vi vi phạm.
Khác với Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001, Luật Quảng cáo năm 2012 đã sửa
đổi bổ sung Khoản 3 Điều 5 Pháp lệnh Quảng cáo theo hướng “Quảng cáo gây ảnh
hưởng xấu đến sự tôn nghiêm đối với Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Đảng kỳ, anh
hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, lãnh tụ, lãnh đạo Đảng, Nhà nước” 23. Việc sửa đổi,

bổ sung nêu trên là hồn tồn hợp lý. Bởi vì Quốc kỳ, Đảng kỳ có tác dụng nâng cao
tinh thần dân tộc, lịng tự hào, tự tơn dân tộc là điều đáng q, cần được khuyến
khích. Do đó, nếu quy định theo tinh thần của Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001 là cấm
tuyệt đối sử dụng Quốc kỳ, Đảng kỳ…sẽ không phù hợp với quảng cáo
23 Khoản 5 Điều 8 Luật Quảng cáo số

64


khơng sinh lời vì hình ảnh Quốc kỳ, Quốc huy, lãnh tụ có thể được dùng để cổ động
người dân tăng cường rèn luyện sức khỏe có hình Chủ tịch Hồ Chí Minh tập thể dục
hay hình ảnh trên mạng xã hội cổ động cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt nam
thi đấu có lá cờ Quốc kỳ. Hơn nữa, việc sử dụng hình ảnh Quốc kỳ, Quốc huy cũng
phù hợp với quảng cáo sinh lời . Ví dụ: Cơng ty chun kinh doanh dịch vụ Du lịch
cũng có thể sử dụng hình ảnh Quốc kỳ trong sản phẩm quảng cáo hay tài khoản cá
nhân trên mạng xã hội để giới thiệu với bạn bè quốc tế. Trên thế giới, khơng ít các
cá nhân, doanh nghiệp sử dụng hình ảnh Quốc kỳ, Quốc huy để quảng cáo thương
hiệu, sản phẩm đặc trưng của đất nước mình trên mạng xã hội. Ví dụ: Dao díp Thụy
Sĩ ln có hình ảnh Quốc kỳ hoặc Quốc huy nước này.
Ngoài ra, việc quy định tại Khoản 3 Điều 8 Luật Quảng cáo năm 2012 về
việc cấm “Quảng cáo thiếu thẩm mỹ, trái với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo
đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam”. 24Quy định này thiếu cụ thể, dễ làm cho cơ
quan quản lý cấp phép có những quyết định cảm tính, thiếu khách quan, trong khi
đó hiệu nay chưa có một cơ quan trung gian nào làm trọng tài phân xử vấn đề này.
Thứ tư, quảng cáo có sử dụng hình ảnh, lời nói, chữ viết của cá nhân khi
chưa được cá nhân đó đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.
Thứ năm, quảng cáo không đúng hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh
doanh, khả năng cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh
doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; về số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu
dáng, bao bì, nhãn hiệu, xuất xứ, chủng loại v.v…

Thứ sáu, quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp về giá
cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình với giá cả,
chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại của tổ chức, cá
nhân khác. Trên thực tế về hoạt động quảng cáo thương mại nói chung và hoạt động
quảng cáo trên mạng xã hội nói riêng, có thể thấy đây là một trong những hành vi vi
phạm nhiều nhất trong hoạt động quảng cáo nói chung và hoạt động quảng cáo trên
mạng xã hội nói riêng. Do đó, để có chế tài xử lý hành vi vi phạm này một cách
24

Khoản 3 Điều 8 Luật Quảng cáo số 16/2012/QH13

65


hiệu quả, cần phải có các văn bản hướng dẫn thi hành chi tiết, hiệu quả, tạo điều
kiện cho cá nhân, tổ chức áp dụng pháp luật chính xác, phù hợp.
2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật Việt Nam về bán hàng và quảng cáo
trên mạng xã hội
2.2.1. Thực tiễn thực thi các quy định pháp luật Việt Nam về bán hàng trên mạng
xã hội
Hiện nay, Việt Nam đang thiết lập hành lang pháp lý cho các giao dịch thương
mại điện tử, trong đó có hoạt động bán hàng trên mạng xã hội được tiến hành một
cách minh bạch, trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh. Qua đó tạo điều kiện để hoạt động
bán hàng trên mạng xã hội phát triển, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của doanh
nghiệp và xây dựng các tập quán mua bán hàng hóa hiện đại cho Việt Nam. Sự ra đời
của Nghị định số 52/2013/NĐ – CP của Chính phủ về thương mại điện tử, Thông tư
số 47/2014/TT – BCT của Bộ Công Thương quy định về quản lý các website thương
mại điện tử, Thông tư 39/2014/TT-NHNN hướng dẫn về dịch

vụ trung gian thanh


toán v.v…tạo điều kiện kiện cho hoạt động thương mại điện tử nói chung và hoạt
động bán hàng trên mạng xã hội nói riêng có những thay đổi đáng kể, khắc phục được
những lỗ hổng pháp lý thời điểm trước như thông tin đăng ký, thiếu quy phạm quản
lý hoạt động bán hàng trên các trang mạng xã hội.
Tuy nhiên, một số vấn đề vẫn chưa được đề cập đúng mức như thiếu chế tài
cho các hành vi vi phạm trong hoạt động bán hàng trên mạng xã hội. Bên cạnh
website thương mại điện tử, các mạng xã hội, đặc biệt là Facebook, Zalo, Youtube...
được sử dụng rất phổ biến ở Việt Nam. Hiện số người sử dụng các diễn đàn mạng
xã hội để mua bán hàng hóa, dịch vụ cũng như để mua sắm trực tuyến cũng gia tăng
nhanh chóng. Do đó, quản lý các mạng xã hội đối với hoạt động kinh doanh thương
mại điện tử nói chung và hoạt động bán hàng trên mạng xã hội nói riêng cũng
không kém phần cấp thiết.
Hiện nay, trong hệ thống các văn bản pháp luật của Việt Nam chưa có quy
định cụ thể về quản lý hoạt động bán hàng trên mạng xã hội cũng như các chế tài xử
lý tương ứng với hành vi vi phạm, quy định chưa rõ ràng đối với danh sách các

66


mạng xã hội khuyến cáo người tiêu dùng thận trọng; thiếu hướng dẫn chi tiết về quy
trình giao kết hợp đồng mua hàng trực tuyến trên mạng xã hội. Thông



47/2014/TT – BCT của Bộ Công Thương quy định các công ty có trang mạng xã
hội nhằm thực hiện hoạt động bán sản phẩm, hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ phải
đăng ký trên sàn giao dịch thương mại điện tử và các trang mạng xã hội phải có
trách nhiệm quản lý thông tin, hoạt động của người đăng ký trên mạng xã hội của
mình. Mọi hoạt động kinh doanh thương mại điện tử nói chung và hoạt động bán

hàng trên mạng xã hội theo hình thức sàn giao dịch thương mại điện tử phải đăng ký
với Cục Thương mại điện tử thuộc Bộ Công Thương. Cơ quan thuế phối hợp, lấy
thông tin trên Cục Thương mại điện tử để theo dõi các doanh nghiệp, các tổ chức sở
hữu website cung cấp dịch vụ, từ đó rà sốt các hợp đồng, thỏa thuận hợp tác để thu
thuế. Thơng qua đó, cơ quan thuế kiểm tra chứng cứ liên quan đến các khoản thu
chi của các doanh nghiệp này. Thông tin nguồn dữ liệu quản lý kê khai hoạt động
bán hàng trên mạng xã hội theo hình thức sàn giao dịch thương mại điện tử, cơ quan
thuế sẽ nắm bắt hoạt động kinh doanh qua sàn giao dịch, nhất là các trường hợp xây
dựng kho hàng trên mạng xã hội của các cá nhân, doanh nghiệp để áp dụng các biện
pháp quản lý thuế. Thế nhưng, hiện nay việc kê khai đăng ký với Cục Thương mại
điện tử không nhiều. Nguyên nhân, do Thông tư số 47/2014/TT – BCT của Bộ
Công Thương quy định trách nhiệm đăng ký là của doanh nghiệp mà không siết
chặt trách nhiệm kiểm tra, giám sát của cơ quan Nhà nước. Do vậy, đến nay rất
nhiều doanh nghiệp “né” trách nhiệm đăng ký vẫn không bị xử lý. Đó cũng là lý do
ngành thuế thất thu vì khơng có nguồn dữ liệu doanh nghiệp điện tử để tính thuế.
Thực tế hiện nay cho thấy, hoạt động kinh doanh thương mại điện tử nói
chung và hoạt động bán hàng trên mạng xã hội nói riêng ở Việt Nam đang tồn tại
nhiều những bất cập khiến kẻ xấu lợi dụng để lừa đảo.

 Về việc lợi dụng kẽ hở về pháp luật quản lý trong hoạt động bán hàng trên
mạng xã hội
Việc lợi dụng thương mại điện tử nói chung và bán hàng trên mạng xã hội
nói riêng để bán hàng đa cấp bất chính, thu lợi nhuận trái phép. Sở dĩ các hoạt động


bán hàng đa cấp, giả danh các trang mạng xã hội đã đăng ký hoạt động sàn giao dịch
thương mại điện tử có thể tồn tại, lừa đảo, chiếm đoạt tiền của nhiều người là do các
đối tượng xấu đã lợi dụng nhiều kẽ hở về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này. Tuy
chưa được cơ quan chức năng cấp phép giao dịch nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn tự
nhận là sàn giao dịch thương mại điện tử trên các mạng xã hội mà không hề bị cơ

quan chức năng kiểm tra, xử lý. Ngoài ra, trong Nghị định 52/2013/NĐ – CP của
Chính phủ về thương mại điện tử cũng khơng có quy định về việc quản lý bán hàng
đa cấp. Từ đó, thơng qua các trang mạng xã hội, nhiều đối tượng đã lợi dụng kẽ hở
này để lừa đảo, chiếm đoạt hàng trăm tỉ đồng của nhiều người.
Mặc dù từ năm 2005 đã ra đời Luật Giao dịch điện tử và trong những năm
gần đây nhiều Nghị định của Chính phủ đã được ban hành như Nghị định số
52/2013/NĐ – CP về thương mại điện tử, Nghị định 185/2013/NĐ – CP về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, sản xuất, hàng giả, hàng cấm và bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng v.v…tạo hành lang pháp lý cho thương mại điện tử nói
chung và hoạt động mua bán hàng hóa trên mạng xã hội nói riêng phát triển nhưng
sau một thời gian đưa vào thực tiễn, các quy định pháp luật bộc lộ nhiều bất cập khi
doanh nghiệp “làm lơ” với quy định còn chất lượng và số lượng nhân lực quản lý
chưa đáp ứng được việc thực hiện quản lý theo quy định đề ra.

 Về rủi ro trong hoạt động bán hàng trên mạng xã hội
Thứ nhất, rủi ro về thông tin: Khi tham gia hợp đồng bán hàng trên mạng xã
hội, những thông tin về đối tác, đối tượng của hợp đồng và việc bảo vệ an tồn
thơng tin cá nhân của người tham gia hợp đồng sẽ có nhiều hạn chế hơn so với hợp
đồng thương mại truyền thống. Thực tế trong những năm qua, các hành vi gian lận,
tội phạm trên mơi trường mạng có chiều hướng ngày càng gia tăng làm ảnh hưởng
không nhỏ đến niềm tin của người tiêu dùng và doanh nghiệp đối với phương thức
kinh doanh cịn khá mới mẻ này. Ngồi ra, một số vấn đề khác về thơng tin cũng rất
đáng lo ngại, đó là khi giao dịch thông qua các phương tiện điện tử, người tham gia
hợp đồng bán hàng trên mạng xã hội phải cung cấp cho đối tác và đôi khi cả những
bên trung gian thơng tin cá nhân của mình. Khi khơng có biện pháp quản lý phù hợp


sẽ dẫn đến việc sử dụng khơng đúng mục đích hoặc thu thập, sử dụng bất hợp pháp
thông tin cá nhân, phát tán thư rác và gửi quảng cáo thương mại khi không được sự
đồng ý của người nhận, ăn cắp và sử dụng thông tin tài khoản cá nhân để lừa đảo,

thu lợi bất chính.
Thứ hai, rủi ro về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trên mạng xã hội.
Trong quy trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trên mạng xã hội hai khâu
quan trọng nhất phải kể đến là thanh toán và tổ chức giao hàng. Thực tiễn cho thấy,
thanh toán điện tử là một điều kiện quan trọng để tiến hành thực hiện các hợp đồng
mua bán hàng hóa trên mạng xã hội, góp phần hồn thiện quy trình giao dịch. Vấn
đề được đặt ra ở đây là thời điểm giao tiền và thời điểm giao hàng, ai sẽ là người
thực hiện trước. Phần lớn các giao dịch qua mạng xã hội hiện nay thì khách hàng
phải chuyển tiền vào tài khoản cho bên bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trước,
cịn nhà cung cấp sẽ giao hàng sau. Mấu chốt của vấn đề là ở chỗ khi đã thanh toán
mà nhà cung cấp biến mất khơng giao hàng thì hậu quả sẽ ra sao? Thực tế pháp luật
Việt Nam hiện nay chưa có một quy định rõ ràng nào nhằm hạn chế vấn đề này.
Những kẽ hở của pháp luật chưa được khắc phục đã tạo điều kiện cho các công ty
kinh doanh bất chính lợi dụng để lừa đảo khách hàng. Mặc dù vấn đề này đã được
đề cập tại Điều 15 Thông tư 09/2008/TT – BCT của Bộ Công Thương, tuy nhiên
quy định này cịn mang tính hình thức bởi việc thực hiện nó trên thực tế cịn nhiều
bất cập và tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các chủ thể tham gia.
Thứ ba, rủi ro về chứng cứ, chứng cứ trong hợp đồng mua bán hàng hóa trên
mạng xã hội mà các bên xác lập nên như hợp đồng, đề nghị, thơng báo, hóa đơn v.v…
và chúng được lưu trữ trên hệ thống thơng tin. Hầu như tồn bộ người mua hàng trên
mạng xã hội hiện nay đều không chú ý đến vấn đề phải tự mình lưu trữ các chứng
cứ này, trong khi đó thì họ hồn tồn khơng biết lấy chứng cứ ở đâu. Đây là vấn đề
khó khăn nhất khi họ muốn khởi kiện đòi quyền lợi. Ngoài ra, chứng cứ được lưu lại
trên các phương tiện điện tử rất dễ bị xâm nhập và có thể bị thay đổi dễ dàng. Việc
lưu trữ chứng cứ dường như là một thách thức cho các bên chủ thể tham gia hợp đồng
mua bán hàng hóa trên mạng xã hội.


Thứ tư, rủi ro về phía người tiêu dùng khi chất lượng hàng hóa của bên cung
cấp khơng được kiểm định. Chỉ cần vài cú click chuột là có thể lập được một tài

khoản, website bán hàng và chi phí để trả cho các trang mạng xã hội này hoạt động
lại không đáng kể nên dẫn tới việc bùng nổ hoạt động mua bán hàng hóa trên mạng
xã hội. Hoạt động mua bán hàng hóa được thực hiện thơng qua mạng xã hội theo
thống kê của Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin, doanh số bán lẻ của
thương mại điện tử năm 2013 đạt 2.2 tỷ USD, tuy còn rất khiêm tốn so với GDP của
cả nước nhưng thương mại điện tử nói chung mua bán hàng hóa trên mạng xã hội
nói riêng đang và sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ với 36 triệu người truy cập
Internet trên cả nước. Cụ thể, đến quý II năm 2016 với khoảng 40 triệu người Việt
Nam có tài khoản Facebook thì đây là mảnh đất màu mỡ cho hoạt động bán hàng
online trên mạng xã hội. Hoạt động này được thực hiện rất dễ dàng, chỉ đơn giản là
lập một tài khoản Facebook, kết nối với bạn bè, những người quan tâm rồi đưa
thơng tin, hình ảnh về hàng hóa lên quảng cáo và rao bán, chẳng phải tổn thất bất cứ
chi phí nào. Vì thế, hình thức mua bán hàng hóa qua mạng xã hội, đặc biệt là
Facebook đang phát triển mạnh mẽ. Việc mua bán hàng hóa thơng qua các trang
mạng xã hội ngày càng phát triển vì nó có rất nhiều ưu điểm. Người tiêu dùng sẽ
không cần mất công đi lại, chỉ cần ngồi trước máy tính, thiết bị điện tử có kết nối
internet, đăng nhập vào một trang mạng xã hội có website bán hàng trực tuyến sẽ có
vơ số các mặt hàng được chào bán, những mặt hàng đó được quảng cáo, giới thiệu
đến người tiêu dùng thơng qua hình ảnh và những dịng chú thích liên quan đến sản
phẩm đó được đăng lên trên mạng, chỉ cần một cú nhấp chuột là người tiêu dùng có
thể mua được cho mình những mặt hàng phù hợp. Đơn giản, tiện ích là vậy nhưng
chính người tiêu dùng chỉ được biết các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đó thơng qua
hình ảnh quảng cáo và những dịng chú thích mà người bán đăng lên mà khơng hề
được nhìn trực tiếp sản phẩm đó để đánh giá chất lượng. Chính vì lẽ đó mà mỗi
ngày đều có những người tiêu dùng bị lừa mua phải hàng giả, hàng nhái, hàng kém
chất lượng. Và do có nhiều kẽ hở pháp luật nên mua bán hàng hóa trên mạng xã hội


cũng tạo điều kiện cho hàng cấm, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng xách tay
v.v…được mua bán trót lọt.

2.2.2. Thực tiễn thực thi các quy định pháp luật Việt Nam về quảng cáo trên
mạng xã hội
Thứ nhất đối với hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội, trong hệ thống các
văn bản pháp luật của nước ta về quảng cáo chưa có các điều khoản quy định cụ thể
về trách nhiệm của chủ thể thực hiện hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội cũng
như các quy định về chế tài xử lý vi phạm đối với chủ thể lợi dụng các trang mạng
xã hội nhằm thực hiện các hoạt động quảng cáo phóng đại, khơng đúng sự thật, làm
ảnh hưởng trực tiếp đến hình ảnh, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, doanh
nghiệp khác. Tuy Bộ Công Thương gần đây đã đưa ra các cảnh báo liên quan đến
hình thức quảng cáo thương mại điện tử này nhưng lại khơng có quy định ràng
buộc, xử phạt chặt chẽ. Kết quả là hàng loạt người phải gánh chịu hậu quả khi tin
vào các hình ảnh, âm thanh quảng cáo sai sự thật như mua phải hàng giả, hàng kém
chất lượng v.v…
Thứ hai, đối tượng và chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội
không chỉ bao gồm các thương nhân và pháp nhân có quyền cung cấp dịch vụ quảng
cáo, mà là bất kỳ cá nhân nào muốn tham gia vào hoạt động mua quảng cáo hoặc
cung cấp dịch vụ quảng cáo đều rất dễ dàng, bởi vì quảng cáo trên mạng xã hội được
thiết kế theo hình thức "tự phục vụ". Đối tượng tham gia vào hoạt động này chủ yếu
là cá nhân, tự quảng cáo với mục đích bán hàng cho chính mình hoặc quảng cáo dịch
vụ cho các cá nhân và doanh nghiệp có nhu cầu nên nội dung và hình thức quảng cáo
cũng rất đa dạng.
Thứ ba, nội dung và hình thức quảng cáo trên mạng xã cũng là do các nhà
quảng cáo, những người mua quảng cáo tự quyết định, dựa theo các định dạng mà
công cụ quảng cáo trên mạng xã hội cung cấp. Những nội dung này được tùy ý sáng
tạo và cũng khơng có sự kiểm sốt về nội dung, hình thức và hồn toàn rất dễ bị vi
phạm các quy định hiện hành của pháp luật về quảng cáo.


Thứ ba, các chủ thể tham gia vào hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội còn
thiếu hiểu biết về pháp lý. Đây cũng là một trong những thực trạng dẫn tới tình

trạng hoạt động quảng cáo mạng xã hội có nhiều bất cập và gây ra những tiềm ẩn
rủi ro cho các bên tham gia, bao gồm cả cơ quan Nhà nước và người tiêu dùng. Ý
thức và sự hiểu biết về việc mình có vi phạm pháp luật hay không vi phạm pháp luật
khi làm quảng cáo (sai sự thật, phóng đại, so sánh…) cịn hạn chế, rất nhiều chủ thể
khơng am hiểu, khơng tìm hiểu về vấn đề pháp lý khi tham gia vào hoạt động này
Thứ tư, tình trạng quảng cáo các sản phẩm bị cấm theo luật quảng cáo (ví dụ
các loại thuốc, thực phẩm chức năng) không theo đúng chuẩn của các quy định của
Luật Quảng cáo và các pháp luật hiện hành diễn ra rất phổ biến; các nội dung quảng
cáo sai sự thật, phóng đại, cố tình gian dối, gây hiểu lầm, gây bất lợi cho người tiêu
dùng, quảng cáo với nội dung không rõ ràng, mập mờ; sử dụng quảng cáo so sánh;
bán hàng và quảng cáo thông qua phương thức truyền thơng “dìm hàng đối thủ”, ‘đe
dọa khách hàng”; lách luật quảng cáo, bán hàng và quảng cáo các sản phẩm khơng
phù hợp với văn hóa, thuần phong mỹ tục Việt Nam; bán hàng và quảng cáo các sản
phẩm vi phạm quyền sở hữu trí tuệ một cách cơng khai v.v… khơng được kiểm sốt
một cách chặt chẽ vì các mạng xã hội cũng khơng rà sốt được hết những vi phạm
này để mà ngăn chặn. Cơ quan chức năng có thẩm quyền vẫn đang bỏ ngỏ việc
quản lý và kiểm sốt thực trạng này vì thiếu cơ chế pháp lý phù hợp.
Thứ năm, quảng cáo thông qua mạng xã hội chứa đựng nhiều rủi ro về tính
chính xác của thông tin, những hoạt động lách luật để hợp thức hóa quảng cáo, hàng
hóa kém chất lượng, hàng hóa bị cấm, quảng cáo vi phạm pháp luật diễn ra một
cách khá phổ biến và khó quản lý. Bởi vì nội dung thì hồn tồn do nhà quảng cáo
tự quyết định, tự thực thi mà không cần phải xin phép các cơ quan quản lý có thẩm
quyền. Việc vi phạm diễn ra có tính chất phổ biến, dễ bị vi phạm, do các chủ thể
tham gia quảng cáo không am hiểu về pháp luật, không tôn trọng pháp luật về
quảng cáo, đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên các mục tiêu khác và vi phạm đạo đức
kinh doanh.


Thứ sáu, quản lý quảng cáo và hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội cịn
bng lỏng và gặp nhiều khó khăn. Bởi việc thiết lập một chiến dịch quảng cáo

thơng qua tài khoản quảng cáo và thanh tốn trực tuyến rất dễ dàng, đồng thời việc
tắt quảng cáo, xóa quảng cáo, xóa chiến dịch, xóa dấu vết quảng cáo, xóa tài khoản
quảng cáo, xóa fanpage hoặc website rất dễ dàng và chủ động. Hơn nữa, với hơn 1
triệu người đang tham gia bán hàng trên mạng xã hội tại Việt Nam, và khoảng 40% số
đó sử dụng dịch vụ quảng cáo trực tuyến để bán hàng và làm thương hiệu khiến cho
việc quản lý gặp nhiều khó khăn. Nhân sự của các cơ quan quản lý pháp luật không
đủ, khối lượng công việc nhiều, đối tượng quản lý chủ yếu là các cá nhân, các giao
dịch giá trị nhỏ và diễn ra nhanh chóng, khiến cho việc quản lý khó khăn. Mặt khác, ý
muốn về quản lý hoạt động này của cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn còn bỏ ngỏ,
chưa muốn quản lý ngay.
2.3. Đánh giá về thực trạng pháp luật bán hàng và quảng cáo ở Việt Nam
2.3.1. Những ưu điểm
Theo kết quả phân tích và thống kê, khái lược các hệ thống văn bản pháp luật
liên quan đến vấn đề bán hàng và quảng cáo trên mạng xã hội, có thể dễ dàng nhận
thấy và đồng tình rằng pháp luật Việt Nam về hoạt động bán hàng và quảng cáo trên
mạng xã hội khá là đầy đủ về mặt văn bản luật, văn bản dưới luật như Nghị định,
Thông tư. Cụ thể:
- Số lượng các văn bản pháp luật hiện hành khá đầy đủ và điều chỉnh hầu hết
các hoạt động bán hàng và quảng cáo trên mạng xã hội với cách tiếp cận hoạt động
này là nhóm hoạt động thương mại và nhóm hoạt động quảng cáo thương mại. Các
nhóm hoạt động này đã được Luật Thương Mại, Luật Quảng cáo là hai luật trực tiếp
điều chỉnh các quan hệ pháp luật. Ngoài ra, các quy định khác có quy định tại các
luật và bộ luật như bộ luật Dân sự, bộ luật Hình sự, luật Giao dịch điện tử, luật
Công nghệ thông tin vv....
- Về nội dung và chất lượng của các văn bản pháp luật hiện hành đối với vấn
đề quản lý pháp luật trong hoạt động bán hàng và quảng cáo trên mạng xã hội cũng
thể hiện tính rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu, dễ phổ biến, có khả năng bao quát các vấn


đề pháp lý có thể xảy ra nhằm phục vụ cơng tác quản lý của Nhà nước và góp phần

phát triển hoạt động kinh doanh, bán hàng và quảng cáo của các chủ thể được pháp
luật thừa nhận và bảo vệ trong nền kinh tế Việt Nam.
Hệ thống văn bản pháp lý đã đưa ra các quy định khá rõ ràng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quá trình bán hàng và quảng cáo
nói chung và bán hàng, quảng cáo trên mạng xã hội. Có đầy đủ các chế tài xử lý vi
phạm theo chuẩn chung của các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam.
2.3.2. Những hạn chế
Do hoạt động bán hàng và quảng cáo trên mạng xã hội là một hoạt động khá
mới mẻ tại Việt Nam, cũng mới phát triển mạnh trong khoảng 4-5 năm trở lại đây,
và là hoạt động có xu hướng mang tính tự phát nên việc cập nhật các quy định, điều
khoản, văn bản pháp quy còn chưa theo kịp thời đại, chưa đẩy đủ và chuẩn xác.
Hoạt động bán hàng và quảng cáo trên mạng xã hội gắn liền với yếu tố công
nghệ thông tin, Internet và các dịch vụ mạng xã hội, là một loại hình thương mại
điện tử nên có đặc điểm là hoạt động thương mại xuyên biên giới, xuyên không gian
và thời gian; các chủ thể tham gia hoạt động này khá đa dạng, phức tạp, hình thức
giao dịch rất đa dạng, sản phẩm và dịch vụ cung ứng cũng vô cùng đa dạng, tiềm ẩn
nhiều rủi ro và các giao dịch vi phạm pháp luật; chủ thể tham gia hoạt động bán
hàng và quảng cáo trên mạng xã hội là các cá nhân chiếm tỷ lệ rất cao nên các nội
dung pháp lý hiện tại còn chưa cập nhật được xu hướng thương mại điện tử, thương
mại quốc tế thơng qua Internet nên cịn thiếu nội dung phù hợp với hoạt động này,
đặc biệt là cần cập nhật xu hướng pháp lý theo hướng mở và hội nhập quốc tế. Hơn
nữa, việc hướng tới quản lý và thực thi hoạt động quản lý thực tế còn bỏ ngỏ và
thiếu chế tài xử lý, đặc biệt là đối với chủ thể là cá nhân kinh doanh và quảng cáo
trên mạn xã hội.
Hệ thống văn bản pháp lý bao gồm các văn bản luật và văn bản dưới luật còn
rời rạc, có sự chồng chéo nội dung nhất định, quy định chưa nhất quán, thiếu các
nội dung điều chỉnh trực tiếp hoạt động bán hàng và quảng cáo trên mạng xã hội.


Khả năng quản lý thực tế về mặt pháp luật đối với hoạt động bán hàng và

quảng cáo trên mạng xã hội của cơ quan nhà nước còn bị bỏ ngỏ, dẫn tới tình trạng
có rất nhiều hoạt động bán hàng và quảng cáo đã vi phạm pháp luật về luật Thương
Mại, luật Quảng cáo, luật thuế và thuế thu nhập cá nhân v.v... nhưng không hề bị xử
lý, không hề có người điều chỉnh, hướng dẫn để đảm bảo tính an tồn cho các chủ
thể tham gia giao dịch trong q trình giao dịch là mua bán hàng hóa và mua bán
dịch vụ quảng cáo trên mạng xã hội.
Thiếu cơ chế quản lý nội dung, hình thức các bài viết, hình ảnh, video... mà
các chủ thể tham gia mạng xã hội đưa thông tin lên một cách hữu hiệu khi mà các
nội dung, bài viết, hình ảnh, video, đường link website có nội dung thiếu chính xác,
khơng lành mạnh, vi phạm pháp luật tràn lan trên mạng xã hội hiện nay.
Thiếu cơ chế thu thuế doanh nghiệp đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ
mạng xã hội, khi mà các mạng xã hội này có khả năng cung cấp dịch vụ quảng cáo,
dịch vụ hỗ trợ bán hàng cho các chủ thể la cá nhân hoặc thương nhân Việt Nam.
Hiện nay, doanh thu của chính nhà cơng ty sở hữu các dịch vụ mạng xã hội này đến
từ quảng cáo của mạng xã hội Facebook, Youtube, Instagram v.v... tại thị trường Việt
Nam là rất lớn. Như vậy cũng tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh cho doanh
nghiệp nội địa, gây thất thoát thuế cho cơ quan nhà nước.
2.3.3. Những nguyên nhân của hạn chế
- Mạng xã hội là một ứng dụng Internet vẫn còn là mới lạ ở Việt Nam, lại
phát triển bùng nổ trong thời gian ngắn, hoạt động bán hàng và quảng cáo trên
mạng xã hội cũng là mơ hình mới, có tính chất tự phát, nên hoạt động quản lý của
nhà nước về pháp luật chưa kịp cập nhật những vấn đề phát sinh.
- Năng lực lập pháp bao gồm quy trình, thời gian chỉnh sửa, cập nhật văn bản
pháp luật cịn có những hạn chế bởi thời gian, năng lực nhân sự, yêu cầu cấp bách
và quy định chung.
- Sự tự phát của người dùng mạng xã hội: khi tốc độ sử dụng mạng xã hội tại
Việt Nam và trên thế giới tăng cao, ngay lập tức những thương nhân và cá nhân
nhìn thấy cơ hội kinh doanh, bán hàng và quảng cáo trên nền tảng mạng xã hội nên
đã tiếp cận rất nhanh chóng loại hình này. Chính vì vậy nên chủ thể tham gia hoạt



động này cũng hồn tồn tự phát khơng có định hướng, dễ dàng có những phát sinh
những hoạt động có thể vi phạm pháp luật.
- Ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động bán hàng và quảng cáo
còn yếu kém. Do các chủ thể tham gia hoạt động này mang tính tự phát, làm theo
phong trào, phần lớn là những cá nhân bán hàng trên mạng theo quy mô vừa và nhỏ,
nên sự hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật còn nhiều hạn chế, có sự yếu
kém, thiếu hiểu biết về pháp luật liên quan đến cơng việc của mình đang làm. Các
chủ thể tham gia hoạt động bán hàng và quảng cáo cụ thể như lựa chọn hàng hóa,
giao dịch thanh toán, thiết lập quảng cáo và thực hiện các hoạt động quảng cáo
thương mại, nghĩa vụ thuế với cơ quan nhà nước v.v... đều có thể vi phạm các quy
định của pháp luật mà các chủ thể không được biết, không muốn biết hoặc không
thể biết.
- Khả năng hội nhập quốc tế về luật pháp còn hạn chế: Vấn đề bán hàng và
quảng cáo trên mạng xã hội liên quan trực tiếp đến các giao dịch mang tính quốc tế
vì thương mại điện tử là hoạt động không thương mại khơng biên giới. Nó bao gồm
các hoạt động bán hàng ra thị trường quốc tế, hoạt động thanh toán liên quan đến
các cơng cụ thanh tốn quốc tế, hoạt động quảng cáo của cá nhân và thương nhân
Việt Nam ra thị trường quốc tế, hoạt động quảng cáo được cung cấp bởi các thương
nhân quốc tế bởi các dịch vụ mạng xã hội phổ biến thường là của các công ty cơng
nghệ nước ngồi. Vì thế việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt
động này tại Việt Nam vẫn còn những hạn chế và chưa hội nhập với quốc tế về các
vấn đề pháp lý.
- Quan điểm quản lý cịn có những điểm bng lỏng quản lý thực tế: thực tế
hiện nay tình trạng bán hàng và quảng cáo trên mạng xã hội có rất nhiều vấn đề vi
phạm, nhưng các cơ quan quản lý nhà nước chưa có những biện pháp, chế tài và
hoạt động kiểm soát, quản lý hữu hiệu với các chủ thể tham gia hoạt động bán hàng
và quảng cáo trên mạng xã hội. Thêm nữa, thực tế cũng rất ít vụ việc vi phạm bị
phát hiện, bị xử lý, hoặc bị đưa ra những cảnh báo để đảm bảo môi trường kinh
doanh và môi trường pháp lý đúng với tinh thần pháp luật mà cơ quan Nhà nước đã

thiết lập.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Từ cơ sở là những vấn đề pháp lý cơ bản về hoạt động bán hàng và quảng
cáo trên mạng xã hội ở chương 1, tác giả đã áp dụng vào thực trạng pháp luật và
thực thi pháp luật về hoạt động bán hàng và quảng cáo trên mạng xã hội ở chương
2.
Trong chương này, tác giả đi sâu vào thực trạng các quy định pháp luật về
bán hàng và quảng cáo trên mạng xã hội với những văn bản quy phạm pháp luật cụ
thể. Cùng với đó là thực tiễn thực thi các quy định pháp luật đó. Từ nghiên cứu về
thực trạng này, tác giả đưa ra một số những ưu điểm, những hạn chế và nguyên
nhân của hạn chế.
Từ hạn chế này sẽ đề xuất các giải pháp ở chương tiếp theo.


×