Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

CHUYÊN đề GIÁO dục QUỐC PHÒNG AN NINH PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội găn với QUỐC PHÒNG AN NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.86 KB, 29 trang )

PHÁT TRIỂN KINH TẾ -XÃ HỘI
GẮN VỚI QUỐC PHÒNG - AN NINH
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của của phát triển kinh tế - xã hội gắn với
quốc phòng, an ninh.
1.1. Một số khái niệm.
- Hoạt động kinh tế: hoạt động sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật
chất cho xã hội, phục vụ cho nhu cầu đời sống con người.
- Hoạt động xã hội: Bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, dân chủ, công
bằng và tiến bộ xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc
sức khoẻ, đền ơn đáp nghĩa, phân phối thu nhập bảo đảm lợi ích của lao động
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; bảo đảm trật tự an toàn xã hội
và tăng cường quốc phòng an ninh.
- Phát triển kinh tế - xã hội là quá trình tăng tiến toàn diện về mọi mặt của
một quốc gia hoặc một địa phương trong một thời kỳ nhất định (tăng Q.mô SL, tiến
bộ về CC KT-XH)
PT lĩnh vực KT: Tăng trưởng KT + Ch.dịch cơ cấu KT
PT lĩnh vực XH: Sự tiến bộ xã hội cho con người.
- Hoạt động quốc phịng: Quốc phịng là cơng việc giữ nước của một quốc
gia, bao gồm tổng thể các hoạt động đối nội và đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, qn sự, văn hố, xã hội… nhằm mục đích bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ (bảo vệ Tổ quốc), tạo môi trường thuận
lợi để xây dựng đất nước.
- An ninh: trạng thái của quốc gia có sự ổn định về mọi mặt, các lợi ích
quốc gia được tồn vẹn khơng bị xâm phạm hoặc bị đe dọa xâm phạm. Ở Việt
Nam, bảo vệ an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của tồn dân và của cả
hệ thống chính trị do lực lượng an ninh làm nòng cốt; bảo vệ an ninh ln kết hợp
chặt chẽ với củng cố quốc phịng.
- Phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh là sự
gắn kết chặt chẽ hoạt động của các lĩnh vực kinh tế - xã hội với quốc phòng - an
ninh thành một thể thống nhất trên phạm vi cả nước, trên từng vùng và từng địa
phương, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước; các


lĩnh vực chủ động gắn kết, bổ sung và tạo điều kiện cho nhau, thúc đẩy nhau
1


cùng phát triển, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia để đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm cho mục tiêu phát triển đất nước
được thực hiện thắng lợi, chủ quyền quốc gia, tồn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị
- xã hội, lợi ích quốc gia dân tộc ln ở trong trạng thái tự bảo vệ và được bảo vệ.
1.2. Cơ sở lý luận, thực tiễn của phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng
cường quốc phòng an ninh
1.2.1. Cơ sở lý luận
* Quan điểm của các nhà kinh điển Mác-Lênin về nhận thức và giải quyết
mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ kinh tế và quốc phòng, an ninh là những
lĩnh vực khác nhau, vận động theo những quy luật đặc thù riêng, song giữa kinh
tế, quốc phòng, an ninh có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau.
Trong mối quan hệ đó, kinh tế bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, là cơ sở của
sức mạnh quốc phòng, quốc phòng - an ninh chịu sự chi phối và phụ thuộc vào
kinh tế nhưng có tác động tích cực trở lại đối với kinh tế, bảo vệ và thúc đẩy kinh
tế phát triển.
Khi bàn về vai trò của kinh tế đối với quốc phòng - an ninh Ăng ghen đã chỉ
rõ: “Khơng có gì phụ thuộc vào kinh tế tiên quyết hơn là chính quân đội và hạn
đội”1. Hoặc “Thắng lợi hay thất bại của chiến tranh đều phụ thuộc vào điều kiện
của kinh tế…”2. Bởi lẽ mọi cơ sở vật chất, mọi trang bị và phương tiện vũ khí của
hoạt động quốc phịng - an ninh đều do kinh tế cung cấp. Kinh tế ảnh hưởng trực
tiếp đến quy mơ, trình độ trang bị, phương tiện vũ khí, ảnh hưởng đến cơ cấu,
biên chế tổ chức của các lực lượng vũ trang; tác động đến chiến lược, chiến thuật
và nghệ thuật quân sự. Kinh tế còn cung cấp nguồn nhân lực, thành tựu khoa học
cơng nghệ cho quốc phịng - an ninh, ảnh hưởng đến khả năng phòng thủ đất
nước, khả năng động viên kinh tế cho chiến tranh khi tình hình địi hỏi.

Quốc phòng - an ninh tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nó trực tiếp bảo vệ đất nước, bảo vệ kinh tế, bảo vệ sự ổn định chính trị - xã hội,
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Lê nin chỉ ra rằng: “Một
cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ 3. Mặt khác hoạt động quốc
phòng - an ninh còn tạo ra những nhu cầu đòi hỏi nền kinh tế phải đáp ứng cho
nó; thơng qua nhu cầu quốc phịng, an ninh nền kinh tế phải sắp xếp, cân đối tỷ lệ
giữa các khâu trong quá trình tái sản xuất, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công
1

1.2

Ph.Ăng ghen “Chống Đuy - Rinh”. NxbST. H.1970. tr.283.

2
3

. V.I. Lê nin toàn tập. T28. Nxb CTQG ST. H. 1971. tr.112

2


nghệ, phát triển một cách toàn diện để đáp ứng cả nhu cầu dân sinh và nhu cầu
quốc phòng - an ninh.
Do đó bất kỳ quốc gia, dân tộc nào trên thề giới cũng vậy, sẽ khơng thể có
quốc phịng - an ninh vững mạnh nếu không bắt đầu từ việc xây dựng phát triển
kinh tế - xã hội, nhưng khơng phải cứ có kinh tế mạnh là tự khắc có quốc phịng an ninh mạnh, mà phải thơng qua thực hiện sự gắn kết hai lĩnh vực đó một cách
chủ động có ý thức giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường đầu tư cho
quốc phòng - an ninh.
Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ mặc dù phát triển kinh tế - xã hội và quốc
phòng - an ninh thống nhất ở mục đích chung, nhưng lại có sự chế ước lẫn nhau,

vì thế việc gắn kết đó phải được thực hiện một cách khoa học, hợp lý, cân đối và
hài hịa thì cả hai lĩnh vực kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh mới có thể
cùng phát triển mạnh lên được. Nếu quá nhấn mặt này mà xem nhẹ mặt kia, hoặc
tách rời giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phịng - an ninh thì tất yếu sẽ dẫn
đến làm yếu cả hai lĩnh vực và có khi cịn dẫn tới những hậu quả khó lường, bởi
nó liên quan trực tiếp đến sự an - nguy, thịnh - suy, vinh - nhục, mắt - còn của cả
một quốc gia, một chế độ.
* Tác động của qui luật dựng nước đi đôi với giữ nước.
Đối với cách mạng nước ta, vận dụng qui luật thể hiện, Đảng ta đề ra hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì thế phát triển kinh tế - xã hội gắn
với quốc phòng - an ninh chính là sự cụ thể hóa hai nhiệm vụ chiến lược.
* Đặc điểm của cách mạng xã hội chủ nghĩa: giành chính quyền đã khó giữ
chính quyền cịn khó hơn. Cách mạng chỉ có giá trị khi biết tự bảo vệ.
Kết luận: Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an
ninh là tất yếu khách quan.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
* Nước lớn hay nước nhỏ; kinh tế phát triển hay chưa phát triển; chế độ chính
trị như thế nào thì cũng đều phải kết hợp, tuy nhiên có sự khác nhau nhau về
mục đích, nội dung, phương thức và kết quả.
* Ở Việt Nam, sự kết hợp này trải qua chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước.
Đứng trước nguy cơ thường xun bị đe dọa, xâm lược và thơn tính của
các thế lực bành trướng phương Bắc, để xây dựng và phát triển đất nước, ơng cha
ta đã có những chủ trương, kế sách thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế với
tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình dựng nước và giữ nước. Các
3


triều đại phong kiến Việt Nam ln lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm trọng, đề ra
kế sách giữ nước với tư tưởng: “nước lấy dân làm gốc”, “dân giàu, nước mạnh”,

“quốc phú binh cường”; thực hiện “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”,
chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc để “yên dân” mà “vẹn đất”. Thực hiện
kế sách “ngụ binh ư nông”, “động vi binh, tĩnh vi dân” để vừa phát triển kinh tế,
vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Trong xây dựng, phát triển
kinh tế, đã sử dụng nhiều chính sách như khai hoang lập ấp ở những nơi xung yếu
để “phục binh sẵn, phá thế giặc dữ” từ xa; phát triển nghề thủ công để vừa sản xuất
ra các công cụ sản xuất, vừa sản xuất ra các vũ khí, phương tiện phục vụ cho tồn
dân đánh giặc; chăm lo mở mang đường sá, đào sông ngòi, kênh rạch, xây đắp đê
điều để vừa phát triển kinh tế, vừa tạo thế trận đánh giặc, cơ động lực lượng trong
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, do nắm vững
quy luật và biết kế thừa kinh nghiệm của lịch sử nên đã thực hiện sự kết hợp phát
triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh một cách nhất quán với những chủ
trương sáng tạo, phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954) Đảng
ta đề ra chủ trương “Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “Vừa chiến đấu, vừa tăng
gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”; vừa thực hiện phát triển kinh tế ở địa phương
vừa tiến hành chiến tranh nhân dân rộng khắp; “Xây dựng làng kháng chiến”,
địch đến thì đánh, địch lui ta lại tăng gia sản xuất.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), kết hợp phát
triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh đã được Đảng ta chỉ đạo thực
hiện ở mỗi miền với nội dung và hình thức thích hợp.
Ở miền Bắc, để bảo vệ chế độ xã hội Chủ nghĩa và xây dựng hậu phương
lớn cho miền Nam đánh giặc, Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra chủ trương:
“Trong xây dựng kinh tế, phải thấu suốt nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, cũng như
trong củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc xây
dựng kinh tế”1. Theo tinh thần đó, miền Bắc đã xây dựng, phát triển chế độ xã hội
mới, nền kinh tế, văn hoá mới, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; đồng
thời kết hợp chặt chẽ với chăm lo củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh, đánh
thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội

chủ nghĩa và chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội , tr.535.

4


Ở miền Nam, Đảng chỉ đạo quân và dân ta kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch
với củng cố mở rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa miền Nam vững mạnh.
Đây chính là một điều kiện cơ bản bảo đảm cho cách mạng nước ta đi đến thắng lợi.
Ở thời kỳ này, chúng ta phải tập trung cao độ cho nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ
miền Bắc xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam, nên việc kết hợp phát triển
kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh được thực hiện dưới nhiều hình thức
phong phú, sinh động và thiết thực, đã tạo được sức mạnh tổng hợp đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược và để lại nhiều bài học quý giá cho thời kỳ sau.
Thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội (từ 1975
đến nay) kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh được
Đảng ta khẳng định là một nội dung quan trọng trong đường lối xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và được triển khai trên quy mô rộng lớn,
toàn diện hơn. Từ năm 1986 đến nay, với tư duy mới về kinh tế và quốc phòng,
an ninh, việc kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh trên
phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, bộ, ban ngành có bước chuyển biến
cả về nhận thức và tổ chức thực hiện, đã thu được nhiều kết quả rất quan trọng.
Với chính sách nhất quán về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng
cường quốc phòng, an ninh chúng ta đã phát huy được mọi tiềm năng cho xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời bình, cùng với phát triển kinh tế là chăm lo
củng cố tiềm lực, thế trận và lực lượng quốc phòng gắn với tiềm lực, thế trận và
lực lượng an ninh. Nhờ vậy, khi đất nước bị kẻ thù xâm lược, chúng ta đã động

viên được “cả nước đồng lịng, tồn dân đánh giặc”; kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù. Do đó, đã
góp phần giữ gìn ĐLDT và phát triển đất nước cho đến ngày nay.
1.3.Thực trạng gắn phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc
phòng an ninh và những vấn đề mới đặt ra
1.3.1. Thực trạng
Những năm qua cùng với sự đổi mới về kinh tế, đổi mới chính trị, việc tổ
chức thực hiện chủ trương phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an
ninh đó đạt được những kết quả quan trọng, tương đối toàn diện cả về nhận thức
và tổ chức thực hiện.
Việc phát triển nền kinh tế thị trường có sự quẩn lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo cơ sở cho xây dựng tiềm lực quốc phịng - an ninh
bằng chính khả năng của nền kinh tế, nền kinh tế phát triển nhanh, ổn định.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả Trung ương và địa phương theo hướng công
5


nghiệp hóa, hiện đại hóa đã gắn kết với xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân và
thế trận an ninh nhân dân, tạo điều kiện tốt hơn cho việc tăng cường tiềm lực
quốc phòng - an ninh, từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất, phương tiện, vũ khí,
khí tài cho quốc phịng - an ninh. Cơng tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển đã gắn kết 2 nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm
quốc phòng - an ninh. Tiềm lực quốc phòng - an ninh tiếp tục được tăng cường;
an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội được giữ vững, sự gắn kết ngày càng
chặt chẽ hơn, nhất là trên các địa bàn, các lĩnh vực trọng yếu; nhờ đó đã duy trì
ổn định chính trị - xã hội, giữ vững mơi trường hịa bình, tạo thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn cịn có những mặt yếu kém, bất
cập, chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối vĩ mô chưa thật vững

chắc; kết cấu hạ tầng phát triển chậm, chất lượng thấp; thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế chậm, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ. Văn hóa, xã hội có nhiều mặt cịn
bất cập, một số vấn đề bức xúc chậm được giải quyết, chất lượng nguồn nhân lực
thấp, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ chưa thực sự là quốc sách hàng
đầu. Hội nhập quốc tế nhanh nhưng chưa tận dụng tốt cơ hội để phát triển cũng
như chưa nhận thức đầy đủ và tìm cách hạn chế mặt trái của hội nhập.
Nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc
phòng - an ninh ở một số còn chưa rõ, chưa đúng và chưa đầy đủ, nhất là nhận
thức về vai trò lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp Ủy Đảng và chính quyền các
cấp; về mối quan hệ giữa tự bảo vệ và được bảo vệ trong các ngành, lĩnh vực
kinh tế xã hội gắn với quốc phòng - an ninh ; về vị trí, vai trị của quốc phịng an ninh trong quan hệ với kinh tế- xã hội. Ở một số ngành, lĩnh vực và địa
phương còn chưa chủ động tích cực, hoạt động thiếu đồng bộ; cơ chế hoạt động
lãnh đạo, quản lý, điều hành còn lúng túng; nội dung, phương thức gắn kết hợp
chậm đổi mới. Sự phối hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc
phòng – an ninh trong phê duyệt, ký kết các dự án đầu tư nước ngồi chưa có cơ
chế rõ ràng, chặt chẽ, nên một số chương trình, dự án khi xây dựng xong đã ảnh
hưởng không nhỏ đến thế trận quốc phòng - an ninh và lợi ích quốc gia dân tộc.
Những tồn tại nói trên đã ảnh hưởng khơng ít đến hiệu lực, hiệu quả trong
tổ chức thực hiện chủ trương phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phịng - an
ninh, thậm chí đã có lúc, có nơi sơ hở để các thế lực thù địch lợi dụng khoét sâu
6


phá hoại. Nếu khơng nhanh chóng khắc phục triệt để những tồn tại đó thì chắc
chắn cả lĩnh vực kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh khó có thể vượt qua
được những thách thức đang đặt ra trước mắt chúng ta trong sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra có liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội gắn
với củng cố quốc phòng - an ninh

- Thách thức của an ninh phi truyền thống.
- Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế; sự tranh chấp giữa các khối nước lớn
và những diễn biến phức tạp trên thị trường tài chính, tiền tệ;
- Nguy cơ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và sự chống phá quyết liệt của
các thế lực thù địch trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và
quốc phịng - an ninh...
Các yếu tố trên tác động rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, đến xây
dựng thế trận quốc phòng - an ninh, tới lực lượng tiến hành và khả năng đáp ứng
cho nhu cầu chiến tranh và chống chiến tranh. Vì vậy, việc phát triển kinh tế - xã
hội gắn với quốc phòng - an ninh là rất cần thiết, đòi hỏi cần được nhận thức đầy
đủ hơn, sâu sắc hơn cả lý luận và thực tiễn, phải tổ chức thực hiện chặt chẽ,
nghiêm túc năng động hơn với một tư duy đổi mới toàn diện, đồng bộ, nhất quán
cả về chủ trương quan điểm, nội dung, phương thức và giải pháp tổ chức thực
hiện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
2. Mục tiêu, yêu cầu và nội dung phát triển kinh tế - xã hội gắn với
tăng cường QPAN
2.1. Mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường
quốc phòng an ninh
2.2.1. Mục tiêu
- Khai thác, sử dụng mọi tiềm năng về kinh tế, văn hố, xã hội, quốc
phịng, an ninh và mọi nguồn lực của đất nước, làm cho kinh tế - xã hội và quốc
phòng - an ninh đều phát triển cân đối, hài hoà và vững chắc.
- Tạo môi trường quốc tế và trong nước thuận lợi cho phát triển kinh tế,
thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng nền cơng nghiệp quốc phịng từng bước hiện đại, bảo
đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại.
- Góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia, mở rộng quan hệ hợp
tác kinh tế, kỹ thuật với các nước, tạo sự chuyển biến căn bản cơ cấu nền kinh tế
quốc dân, đáp ứng được nhu cầu cải thiện đời sống nhân dân, có tích luỹ để phát
7



triển, bảo đảm quốc phòng thường xuyên vững chắc, sẵn sàng và đủ sức đánh bại
mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá xâm lược của các thế lực thù địch.
Đó là mục tiêu có tính tổng qt, phản ánh tư duy mới của Đảng và Nhà
nước ta về tìm nguồn lực, sức mạnh tổng hợp của quốc gia thông qua kết quả
thực hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh tạo
ra, phấn đấu vì mục tiêu “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,
thực hiện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc một cách chủ động vững chắc có lợi nhất
trong bối cảnh diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới hiện nay.
2.2.2.u cầu
- Góp phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an
ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta.
- Góp phần bảo đảm cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh gắn liền với
phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt; vừa có khả năng
và ln ở trong tư thế sẵn sàng cao nhất về kinh tế bảo đảm cho quốc phịng - an
ninh trong mọi tình huống; góp phần khắc phục nguy cơ tụt hậu, khủng hoảng,
chệch hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh kinh tế và an ninh quốc gia, bảo
đảm cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đạt được mục tiêu và
phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Góp phần đáp ứng yêu cầu làm cho quốc phòng - an ninh được tăng
cường vững chắc, thế trận, lực lượng và tiềm lực quốc phịng - an ninh khơng
ngừng được tăng cường, cơng nghiệp quốc phịng có khả năng bảo đảm trang bị
cho các lực lượng vũ trang những vũ khí phương tiện ngày càng hiện đại, phù
hợp với nhu cầu của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong tương lai. Sự ổn
định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững
chắc của quốc phòng - an ninh. Đồng thời, trong quá trình xây dựng tiềm lực, sức
mạnh quốc phòng - an ninh phải lấy mục tiêu yêu cầu phát triển kinh tế là mục

đích và tạo mơi trường thuận lợi cho kinh tế - xã hội phát triển.
2.3. Nội dung phát triển kinh tế xã hội gắn với tăng cường QPAN
Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh
phải được thể hiện ngay trong xác định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội; trong
quy hoach, kế hoạch phát triển các ngành kinh tế, các vùng kinh tế.
Trong xác định chiến lược, việc kết hợp phải được thể hiện ở mục tiêu; tổ
chức sắp xếp lực lượng; trong lựa chọn các giải pháp chiến lược. Các nội dung này
8


phải được thể hiện ngay trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia
cũng như qui hoạch phát triển các ngành, các vùng của nền kinh tế.
Muốn làm được điều đó phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các bộ, ban
ngành, các địa phương có liên quan với cơ quan quân sự các cấp từ việc khảo sát
đánh giá thực trạng, xác định nguồn lực đến tổ chức xây dựng chiến lược, kế
hoạch và tổ chức thực hiện mục tiêu.
2.3.1. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh theo vùng lãnh
thổ
Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh
theo vùng lãnh thổ là sự gắn kết chặt chẽ phát triển vùng kinh tế chiến lược, với
xây dựng vùng chiến lược quốc phòng, an ninh, nhằm tạo ra thế bố trí chiến lược
mới cả về kinh tế lẫn quốc phòng, an ninh trên từng vùng lãnh thổ, trên địa bàn
tỉnh, thành phố, theo ý đồ phòng thủ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam vững
trên toàn cục và mạnh ở từng trọng điểm.
Hiện nay, nước ta đã phân chia thành các vùng kinh tế lớn và các vùng
chiến lược, các quân khu (sự phân vùng chiến lược quốc phòng, an ninh là sự
phân vùng theo ý đồ phòng thủ và tác chiến bảo vệ Tổ quốc trên từng chiến
trường, từng hướng chiến lược của đất nước). Mỗi vùng đều có vị trí chiến lược
đặc thù, có sự khác nhau về đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, tăng
cường quốc phòng, an ninh, nên nội dung kết hợp cụ thể trong mỗi vùng có thể có

sự khác nhau. Song việc kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an
ninh ở các vùng lãnh thổ, ở mỗi tỉnh, thành phố phải được thể hiện những nội
dung chủ yếu sau:
Một là, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an
ninh trong quy hoạch tổng thể phát triển của vùng, cũng như trên địa bàn từng
tỉnh, thành phố.
Hai là, kết hợp trong quá trình xây dựng cơ cấu vùng, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế địa phương với xây dựng các khu vực phòng thủ then chốt, các cụm chiến
đấu liên hoàn, các xã phường chiến đấu trên địa bàn của các tỉnh, thành phố,
huyện, quận.
Ba là, kết hợp trong q trình phân cơng lại lao động của vùng, phân bố lại
dân cư với tổ chức xây dựng và điều chỉnh, sắp xếp bố trí lại lực lượng quốc
phịng, an ninh trên từng địa bàn, lãnh thổ cho phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế và kế hoạch phòng thủ tác chiến bảo vệ Tổ quốc và trị an. Bảo đảm ở
đâu có đất, có biển, đảo là ở đó có dân và có lực lượng quốc phịng, an ninh để
9


bảo vệ cơ sở, bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với xây dựng các
cơng trình quốc phịng, qn sự, phịng thủ dân sự, thiết bị chiến trường...Bảo
đảm tính “lưỡng dụng” trong mỗi cơng trình được xây dựng.
Năm là, kết hợp xây dựng các cơ sở kinh tế vững mạnh toàn diện, rộng
khắp với xây dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần, kỹ thuật và hậu phương
vững chắc cho mỗi vùng và ở các địa phương để sẵn sàng đối phó khi có chiến
tranh xâm lược.
Trên cơ sở kết hợp quan điểm tồn cục nói trên, xuất phát từ sự phân tích
đặc điểm tiềm năng phát triển kinh tế cũng như vị trí địa chính trị, quân sự, quốc
phòng, an ninh của các vùng lãnh thổ trong cả nước, hiện nay Đảng ta xác định
phải chú trọng nhiều hơn cho các vùng kinh tế trọng điểm, vùng biển đảo và vùng

biên giới.
* Đối với các vùng kinh tế trọng điểm
Hiện nay, nước ta xác định 3 vùng kinh tế trọng điểm: phía Bắc (Hà Nội,
Hải Phịng, Quảng Ninh); phía Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu); miền Trung (Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi). Ba vùng trên là
nòng cốt cho phát triển kinh tế của từng miền và cho cả nước (theo tính tốn đến
năm 2010, GDP của 3 vùng kinh tế trọng điểm chiếm khoảng 60% tổng thu nhập
quốc dân của cả nước).
Về kinh tế, các vùng kinh tế trọng điểm là nơi có mật độ dân cư và tính
chất đơ thị hố cao, gắn liền với các khu cơng nghiệp lớn, đặc khu kinh tế, các
liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là nơi tập trung các đầu mối giao
thông quan trọng, các sân bay, bến cảng, kho tàng, dịch vụ…
Về quốc phòng, an ninh, mỗi vùng kinh tế trọng điểm thường nằm trong các
khu vực phòng thủ và phòng thủ then chốt của đất nước, nơi có nhiều đối tượng,
mục tiêu quan trọng phải bảo vệ; đồng thời cũng là nơi nằm trên các hướng có khả
năng là hướng tiến cơng chiến lược chủ yếu trong chiến tranh xâm lược của địch;
hoặc đã và đang là địa bàn trọng điểm để địch thực hiện chiến lược “diễn biến hồ
bình”, bạo loạn lật đổ với nước ta. Vì vậy, phải thực hiện thật tốt phát triển kinh tế
gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh trên các vùng này.
Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các thành phố, các khu công nghiệp
cần lựa chọn quy mơ trung bình, bố trí phân tán, trải đều trên diện rộng, không
nên xây dựng tập trung thành những siêu đô thị lớn, để thuận lợi cho quản lý, giữ
10


gìn an ninh chính trị trong thời bình và hạn chế hậu quả tiến cơng hoả lực của
địch khi có chiến tranh.
- Phải kết hợp chặt chẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với kết cấu
hạ tầng của nền quốc phịng tồn dân. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với
xây dựng các cơng trình phịng thủ, các thiết bị chiến trường, các cơng trình

phịng thủ dân sự…Về lâu dài, ở các thành phố, đô thị, các khu kinh tế tập trung,
cần có quy hoạch từng bước xây dựng hệ thống “cơng trình ngầm lưỡng dụng”.
Phải bảo vệ, bảo tồn các địa hình, địa vật, các khu vực có giá trị về phịng thủ,
khi bố trí các cơ sở sản xuất, các cơng trình kinh tế, phê duyệt dự án đầu tư nước
ngoài. Khắc phục tình trạng chỉ chú ý quan tâm đến lợi thế, hiệu quả kinh tế trước
mắt mà quên đi nhiệm vụ quốc phịng, an ninh và ngược lại khi bố trí các khu vực
phịng thủ, các cơng trình quốc phịng, chỉ chú ý đến các yếu tố bảo đảm quốc
phòng, an ninh mà khơng tính đến đến lợi ích kinh tế.
- Trong q trình xây dựng các khu cơng nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế
phải có sự gắn kết với quy hoạch xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh, các tổ
chức chính trị, đồn thể ngay trong các tổ chức kinh tế đó. Lựa chọn đối tác đầu
tư, bố trí xen kẽ, tạo thế đan cài lợi ích giữa các nhà đầu tư nước ngồi trong các
khu cơng nghiệp, đặc khu kinh tế, khu chế xuất.
- Việc xây dựng, phát triển kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm phải
nhằm đáp ứng phục vụ nhu cầu dân sinh thời bình và cả cho việc chuẩn bị đáp
ứng nhu cầu chi viện cho các chiến trường khi chiến tranh xảy ra. Kết hợp phát
triển kinh tế tại chỗ với xây dựng căn cứ hậu phương của từng vùng kinh tế trọng
điểm để sẵn sàng chủ động di dời, sơ tán đến nơi an tồn khi có tình huống chiến
tranh xâm lược.
* Đối với vùng núi biên giới.
Vùng núi biên giới của nước ta có chiều dài tiếp giáp với Trung Quốc, Lào,
Campuchia. Đây là địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc ít người, mật
độ dân số thấp (trung bình khảng 20 - 40 người/1km2), kinh tế chưa phát triển,
trình độ dân trí thấp, đời sống dân cư cịn nhiều khó khăn. Vùng núi biên giới có
tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phịng thủ bảo vệ Tổ quốc. Trước đây
các vùng này đã từng là căn cứ địa kháng chiến, hậu phương chiến lược của cả
nước. Ngày nay, trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, các vùng núi biên giới vẫn là
vùng chiến lược hết sức trọng yếu. Trong khi đó, ở đây cịn nhiều khó khăn, yếu
kém về kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phòng, an ninh dễ bị kẻ thù lợi dụng để lơi
kéo, kích động đồng bào, thực hiện âm mưu chiến lược “diễn biến hồ bình”, bạo

11


loạn lật đổ, nhiều nơi tình hình rất phức tạp. Vì vậy, trước mắt cũng như lâu dài,
việc kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh ở vùng núi biên giới là
cực kỳ quan trọng.
Việc kết hợp cần tập trung vào các nội dung sau:
- Phải quan tâm đầu tư phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh ở
các vùng cửa khẩu, các vùng giáp biên giới với các nước.
- Phải tổ chức tốt việc định canh, định cư tại chỗ và có chính sách phù hợp
để động viên, điều chỉnh dân số từ các nơi khác đến vùng núi biên giới
- Tập trung xây dựng các xã trọng điểm về kinh tế và quốc phòng, an ninh.
Trước hết, cần tập trung xây dựng phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, mở mới và
nâng cấp các tuyến đường dọc, ngang, các tuyến đường vành đai kinh tế.
- Thực hiện tốt chương trình xóa đói, giảm nghèo, chương trình 135 về
phát triển kinh tế - xã hội đối với các xã nghèo
- Đối với những nơi có địa thế quan trọng, vùng sâu, vùng xa cịn nhiều
khó khăn, cần kết hợp mọi nguồn lực, mọi lực lượng của cả Trung ương và địa
phương để cùng lo, cùng làm.
- Đặc biệt với các địa bàn chiến lược trọng yếu dọc sát biên giới, cần có
chính sách động viên và sử dụng lực lượng vũ trang, lực lượng quân đội làm
nòng cốt xây dựng các khu kinh tế quốc phòng, hoặc các khu quốc phòng - kinh
tế, nhằm tạo thế và lực mới cho phát triển kinh tế và tăng cường sức mạnh quốc
phòng - an ninh.
* Đối với vùng biển đảo.
Nước ta có vùng biển vừa dài vừa rộng, với diện tích hơn 1 triệu km2 (gấp
hơn 3 lần diện tích đất liền). Vùng biển đảo nước ta có nhiều tiềm năng về hải sản
và khống sản, là cửa ngõ thông thương giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư nước
ngồi, có khả năng phát triển một số ngành mũi nhọn của đất nước trong tương
lai. Tuy nhiên, việc khai thác lợi thế đó của ta còn nhiều hạn chế, đặc biệt vùng

biển đảo của ta hiện nay đang có nhiều tranh chấp rất phức tạp, chứa đựng nguy
cơ đe doạ chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc và rất dễ bùng nổ xung đột. Trong
khi đó, chúng ta lại chưa có chiến lược tổng thể hoàn chỉnh về phát triển kinh tế
biển và bảo vệ biển, đảo. Lực lượng và sức mạnh tổng hợp trên biển cịn q
mỏng. Vì vậy, việc quan tâm thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng
cường quốc phòng, an ninh trên vùng biển, đảo là đòi hỏi bức bách và rất quan
trọng cả trước mắt cũng như lâu dài, nhằm nhanh chóng tạo ra thế và lực đủ sức
bảo vệ, làm chủ toàn diện vùng biển, đảo, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế
12


biển phát triển nhanh làm giàu cho Tổ quốc.
Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Tập trung trước hết vào xây dựng, hoàn thiện chiến lược phát triển kinh
tế và xây dựng thế trận quốc phịng, an ninh bảo vệ biển, đảo trong tình hình
mới, làm cơ sở cho việc thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phịng, an ninh một
cách cơ bản, tồn diện, lâu dài.
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch từng bước đưa dân ra vùng ven biển và
các tuyến đảo gần trước để có lực lượng xây dựng căn cứ hậu phương, trụ bám
phát triển kinh tế và bảo vệ biển, đảo một cách vững chắc, lâu dài.
Nhà nước phải có cơ chế chính sách thoả đáng động viên, khích lệ dân ra
đảo trụ bám làm ăn lâu dài.
- Phát triển các loại hình dịch vụ trên biển, đảo, tạo điều kiện cho dân bám
trụ, sinh sống, làm ăn.
- Xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện mở rộng liên kết làm ăn kinh
tế ở vùng biển, đảo thuộc chủ quyền nước ta với các nước phát triển, nhằm tạo ra
các đối tác đan xen lợi ích và đối tượng chống lại sự lấn lướt của các nước lớn.
Thông qua đó, vừa thể hiện chủ quyền của nước ta, vừa hạn chế âm mưu bành
trướng lấn chiếm biển đảo của các thế lực thù địch, tạo thế và lực để giải quyết
hồ bình các tranh chấp trên biển, đảo.

- Chú trọng đầu tư phát triển chương trình đánh bắt xa bờ, thơng qua đó
xây dựng lực lượng dân qn biển, các hải đoàn tự vệ của ngành Hàng hải, Cảnh
sát biển, kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn kịp thời những hoạt động vi phạm chủ
quyền biển, đảo của nước ta... Xây dựng một số đơn vị kinh tế - quốc phòng
mạnh trên biển, đảo để làm nòng cốt cho phát triển kinh tế biển và tạo thế bảo vệ
biển, đảo vững chắc.
- Xây dựng phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra ở vùng
biển, đảo nước ta. Mạnh dạn đầu tư xây dựng lực lượng nòng cốt và thế trận
phòng thủ trên biển, đảo, trước hết là phát triển và hiện đại hoá lực lượng Hải
Quân nhân dân Việt Nam để đủ sức mạnh canh giữ, bảo vệ vùng biển, đảo.
2.3.2. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh trong các
ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội
Một là: Gắn... trong công nghiệp
Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng của quốc gia, cung cấp máy móc,
nguyên nhiên liệu cho các ngành kinh tế khác và cho chính nó cũng như cho cơng
nghiệp quốc phịng; sản xuất sản phẩm tiêu dùng cho xã hội, phục vụ xuất khẩu;
13


sản xuất ra vũ khí, trang thiết bị quân sự đáp ứng nhu cầu của hoạt động quốc
phòng, an ninh.
Nội dung gắn kết trong phát triển công nghiệp là:
- Kết hợp ngay từ khâu quy hoạch bố trí các đơn vị kinh tế của ngành cơng
nghiệp. Bố trí một cách hợp lý trên các vùng lãnh thổ, quan tâm đến vùng sâu,
vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố
nơng nghiệp, nơng thơn.
- Tập trung đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp liên quan đến quốc
phịng như cơ khí, chế tạo, điện tử, công nghiệp, điện tử kỹ thuật cao, luyện kim, hố
chất, đóng tàu để vừa đáp ứng nhu cầu trang bị cơ giới cho nền kinh tế, vừa có thể sản
xuất ra một số sản phẩm kỹ thuật công nghệ cao phục vụ quốc phòng, an ninh.

- Phát triển cơng nghiệp quốc gia theo hướng mỗi nhà máy, xí nghiệp vừa
có thể sản xuất hàng dân dụng, vừa có thể sản xuất hàng quân sự. Kết hợp trong
đầu tư nghiên cứu, sáng chế, chế tạo, sản xuất các mặt hàng có tính lưỡng dụng
cao trong các nhà máy và ở một số cơ sở công nghiệp nặng.
- Các nhà máy cơng nghiệp quốc phịng trong thời bình, ngồi việc sản
xuất ra hàng quân sự phải tham gia sản xuất hàng dân sự chất lượng cao, phục vụ
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Theo hướng trên, từ nay đến năm 2020, Nhà
nước cần tập trung xây dựng một số nhà máy mũi nhọn, có thể tham gia nghiên
cứu, sáng chế và sản xuất một số mặt hàng quân sự đáp ứng trang bị cho lực
lượng vũ trang, trong đó tập trung vào một số ngành như cơ khí luyện kim, cơ khí
chế tạo, điện tử, tin học, hố dầu.
- Mở rộng liên doanh, liên kết giữa ngành công nghiệp nước ta (bao gồm
cả cơng nghiệp quốc phịng) với cơng nghiệp của các nước tiên tiến trên thế giới;
ưu tiên những ngành, lĩnh vực có tính lưỡng dụng cao.
- Thực hiện chuyển giao công nghệ hai chiều, từ công nghiệp quốc phịng
vào cơng nghiệp dân dụng và ngược lại.
- Phát triển hệ thống phịng khơng cơng nghiệp và phát triển lực lượng tự
vệ để bảo vệ các nhà máy, xí nghiệp trong cả thời bình và thời chiến.
- Xây dựng kế hoạch động viên CNg quốc gia phục vụ thời chiến; thực
hiện dự trữ chiến lược các nguyên, nhiên, vật liệu quý hiếm cho sản xuất quân sự.
Hai là: Gắn ...trong nơng, lâm, ngư nghiệp
Hiện nay nước ta vẫn cịn hơn 70% dân số ở nông thôn và làm nghề nông,
lâm, ngư nghiệp. Phần lớn lực lượng, của cải huy động cho xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc là từ khu vực này.
14


Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh trong các
lĩnh vực này cần tập trung chú ý các vấn đề sau:
- Kết hợp phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đất, rừng, biển, đảo

và lực lượng lao động để phát triển đa dạng ngành trong nơng, lâm, ngư nghiệp
theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn, làm ra nhiều
sản phẩm hàng hố có giá trị cao phục vụ tiêu dùng trong nước, xuất khẩu và có
lượng dự trữ dồi dào về mọi mặt cho quốc phòng, an ninh.
- Kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp phải gắn với việc giải quyết tốt các
vấn đề xã hội như xố đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ, đền ơn
đáp nghĩa, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây dựng nông thôn
mới văn minh và hiện đại. Bảo đảm an ninh lương thực và an ninh nơng thơn, góp
phần xây dựng thế trận phịng thủ, “thế trận lòng dân” vững chắc.
- Phải kết hợp gắn việc động viên đưa dân ra lập nghiệp ở các đảo để xây
dựng các làng, xã, huyện đảo vững mạnh với chú trọng đầu tư xây dựng phát
triển các hợp tác xã, các đội tàu thuyền đánh cá xa bờ, xây dựng lực lượng tự vệ,
lực lượng dân quân biển, đảo; phối hợp chặt chẽ với lực lượng Hải quân và Cảnh
sát biển để bảo vệ biển, đảo.
- Đẩy mạnh phát triển trồng rừng gắn với công tác định canh định cư, xây
dựng các cơ sở chính trị vững chắc ở các vùng rừng núi biên giới nước ta, đặc
biệt là ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
Ba là: Gắn…trong giao thông vận tải
- Phát triển hệ thống giao thông vận tải đồng bộ cả đường bộ, đường sắt,
đường không, đường sông, đường thuỷ, đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng
hoá trong nước và mở rộng giao lưu với bên ngoài.
- Trong xây dựng các mạng đường bộ, cần chú trọng mở rộng, nâng cấp
các tuyến trục đường Bắc - Nam với tuyến đường trục dọc Trường Sơn, đường
Hồ Chí Minh. Từ các tuyến đường này phải phát triển các tuyến đường ngang,
nối liền giữa các tuyến trục dọc với nhau và phát triển đến các huyện, xã trong cả
nước, nhất là đến các xã vùng cao, vùng sâu, miền núi biên giới, xây dựng các
tuyến đường vành đai biên giới.
- Trong thiết kế, thi cơng các cơng trình giao thơng vận tải, đặc biệt là các
tuyến vận tải chiến lược, phải tính đến cả nhu cầu hoạt động thời bình và thời
chiến, nhất là cho các phương tiện cơ động của lực lượng vũ trang có trọng tải và

lưu lượng vận chuyển lớn, liên tục. Ở những đầu nút giao thông, những nơi dự
kiến địch có thể đánh phá trong chiến tranh, phải có kế hoạch làm nhiều đường
15


vịng tránh. Bên cạnh các cây cầu lớn qua sơng, phải làm sẵn những bến phà, bến
vượt ngầm. Ở những đoạn đường có địa hình cho phép thì làm đường hầm xuyên
núi, cải tạo các hang động sẵn có dọc hai bên đường làm kho trạm, nơi trú quân
khi cần thiết.
- Phải thiết kế, xây dựng lại hệ thống đường ống dẫn dầu Bắc - Nam, chơn
sâu bí mật, có đường vòng tránh trên từng cung đoạn, bảo đảm hoạt động an tồn
cả thời bình và thời chiến.
- Ở các vùng đồng bằng ven biển, đi đôi với phát triển hệ thống đường bộ,
cần chú trọng cải tạo, phát triển đường sông, đường biển, xây dựng các cảng
sông, cảng biển, bảo đảm đi lại, bốc dỡ thuận tiện.
- Việc mở rộng nâng cấp sân bay phải chú ý cả sân bay ở tuyến sau, ở sâu
trong nội địa, sân bay giã chiến và có kế hoạch sử dụng cả đường cao tốc làm
đường băng cất hạ cánh máy bay khi cần thiết trong chiến tranh.
- Trong một số tuyến đường xuyên Á, sau này được xây dựng qua Việt
Nam, ở những nơi cửa khẩu, nơi tiếp giáp các nước bạn phải có kế hoạch xây
dựng các khu vực phịng thủ kiên cố, vững chắc, đề phòng khả năng địch sử dụng
các tuyến đường này khi tiến công xâm lược nước ta với quy mô lớn.
+ Xây dựng kế hoạch động viên giao thông vận tải cho thời chiến.
Bốn là: Gắn ...trong bưu chính viễn thơng
- Phải kết hợp chặt chẽ giữa ngành bưu điện quốc gia với ngành thông tin
quân đội, công an để phát triển hệ thống thông tin quốc gia hiện đại, đảm bảo
nhanh chóng, chính xác, an tồn thơng tin liên lạc phục vụ lãnh đạo chỉ huy, điều
hành đất nước trong mọi tình huống, cả thời bình và thời chiến.
- Có phương án thiết kế xây dựng và bảo vệ hệ thống thông tin liên lạc một
cách vững chắc trong mọi tình huống.

- Các phương tiện thông tin liên lạc và điện tử cần phải được bảo đảm bí mật
và có khả năng chống nhiễu cao, phịng chống chiến tranh thơng tin điện tử của địch.
- Khi hợp tác với nước ngoài về xây dựng, mua sắm các thiết bị thông tin
điện tử phải cảnh giác cao, lựa chọn đối tác, có phương án chống âm mưu phá
hoại của địch.
- Xây dựng kế hoạch động viên thông tin liên lạc cho thời chiến.
Năm là: Gắn ... trong xây dựng cơ bản
Đây là lĩnh vực sẽ có nhiều phát triển cả về bề rộng, quy mô trong q
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Những cơng trình này khơng dễ gì
có thể phá đi làm lại, cho nên việc thực hiện kết hợp trong ngành xây dựng phải
16


được tiến hành ngay từ đầu, từ khảo sát điều tra, thiết kế, quy hoạch dự án đầu tư
đến thi cơng xây dựng.
- Khi xây dựng bất cứ cơng trình nào, ở đâu, quy mơ nào cũng phải tính
đến yếu tố tự bảo vệ và có thể chuyển hố phục vụ được cả cho quốc phòng, an
ninh, cho phòng thủ tác chiến và phòng thủ dân sự.
- Khi xây dựng các thành phố đô thị, phải gắn với các khu vực phịng thủ
địa phương, phải xây dựng các cơng trình ngầm (nhà cao tầng có tầng ngầm, giao
thơng có đường giao thông ngầm).
- Khi xây dựng các khu công nghiệp tập trung, các nhà máy, xí nghiệp lớn,
quan trọng đều phải tính đến khả năng bảo vệ và di dời khi cần thiết. Nếu điều
kiện cho phép, phải biết tận dụng các địa hình, địa vật sẵn có để tăng tính bảo vệ
cho cơng trình. Hạn chế xâm phạm các địa hình có giá trị về phịng thủ qn sự,
quốc phịng, bảo vệ Tổ quốc.
- Đối với các xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, cần kết hợp trong
nghiên cứu sáng chế, chế tạo những vật liệu siêu bền, có khả năng chống xuyên,
chống mặn, chống bức xạ, dễ vận chuyển phục vụ xây dựng các cơng trình phịng
thủ, công sự trận địa của lực lượng vũ trang và của KVPT tỉnh, thành phố.

- Khi cấp phép đầu tư xây dựng cho các đối tác nước ngồi, phải có sự
tham gia ý kiến của cơ quan quân sự có thẩm quyền.
Sáu là: Gắn...trong hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục
Đây là lĩnh vực đóng vai trị là nền tảng, động lực, là quốc sách hàng đầu
đối với sự phát triển của quốc gia. Vì vậy, sự kết hợp là tất yếu, không chỉ là vấn
đề cơ bản lâu dài mà còn là vấn đề cấp bách hiện nay.
Nội dung kết hợp cần tập trung vào:
- Phải phối hợp chặt chẽ và toàn diện hoạt động giữa các ngành khoa học
và công nghệ then chốt của cả nước với các ngành khoa học của quốc phòng, an
ninh trong việc hoạch định chiến lược nghiên cứu phát triển và quản lý, sử dụng
phục vụ cho cả xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân có đề
tài khoa học, dự án công nghệ và sản xuất các sản phẩm có ý nghĩa vừa phục vụ
cho nhu cầu cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vừa phục vụ nhu cầu quốc
phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, có chính sách đầu tư thoả đáng cho
lĩnh vực nghiên cứu khoa học quân sự, khoa học xã hội nhân văn quân sự, khoa
học kỹ thuật quân sự.
- Coi trọng giáo dục bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài của đất nước,
17


đáp ứng cả sự nghiệp xây dựng phát triển kinh tế, cả quốc phịng, an ninh. Thực
hiện có hiệu quả cơng tác giáo dục quốc phịng cho các đối tượng, đặc biệt là
trong các nhà trường thuộc hệ thống giáo dục quốc gia.
Bảy là: Gắn...trong lĩnh vực y tế
- Phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa ngành y tế dân sự với y tế quân sự trong
nghiên cứu, ứng dụng, trong đào tạo nguồn nhân lực, trong khám chữa bệnh cho
nhân dân, bộ đội và cho người nước ngoài.
- Xây dựng mơ hình qn dân y kết hợp trên các địa bàn, đặc biệt là ở miền
núi, biên giới, hải đảo.

- Xây dựng kế hoạch động viên y tế dân sự cho quân sự khi có chiến tranh xảy ra.
- Phát huy vai trò của y tế quân sự trong phịng chống, khám chữa bệnh
cho nhân dân thời bình và thời chiến.
2.3.3. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh trong xây
dựng cơ cấu ngành kinh tế
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các vùng miền trong cả nước, sẵn
sàng động viên nền kinh tế, động viên công nghiệp khi chuyển địa phương từ thời
bình sang thời chiến, nhất là đối với một số ngành quan trọng như cơ khí chế tạo,
hóa chất, luyện kim, thiết bị vận tải…
- Bảo đảm an ninh công nghiệp, an ninh nông nghiệp (an ninh lương thực);
chú trọng dự trữ quốc gia. Lương thực và các sản phẩm nông nghiệp là một lợi
thế của nước ta trong kinh tế đối ngoại. An ninh lương thực là vấn đề đặc biệt
quan trọng trong cả thời bình và thời chiến, vì vậy cần có chính sách phù hợp để
đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước.
- Gắn việc nâng cao năng lực, hiệu quả đánh bắt thủy sản xa bờ, hoạt động
khai thác dầu khí, vận tải biển và phát triển hải đảo với bảo vệ chủ quyền trên
biển của đất nước.
- Gắn kết chặt chẽ giữa khoanh nuôi, trồng rừng với bảo vệ môi trường,
xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là vùng
rừng núi biên giới Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
- Phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học cơng nghệ (kỹ thuật trong sản
xuất, chăn nuôi, trồng trọt, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả…), y tế với
việc thực hiện tốt chính sách dân tộc, tơn giáo…bảo đảm vừa đáp ứng yêu cầu
phát triển nhanh, vững chắc của nền kinh tế, vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc
phòng - an ninh trong thời kỳ mới.
18


- “Đẩy mạnh phát triển cơng nghiệp quốc phịng, an ninh; tăng cường cơ sở
vật chất - kỹ thuật, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang từng bước được trang bị

hiện đại, trước hết là cho lực lượng hải qn, phịng khơng, khơng qn, lực
lượng an ninh, tình báo, cảnh sát cơ động. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa
học, nghệ thuật quân sự, an ninh, đánh thắng chiến tranh bằng vũ khí cơng nghệ
cao của các lực lượng thù địch”4. Vì vậy, trong hệ thống các xí nghiệp quốc
phòng cần nghiên cứu xây dựng một số cơ sở cơng nghiệp quốc phịng mũi nhọn,
chú trọng đổi mới cơng nghệ và phát triển các công nghệ lưỡng dụng ở những cơ
sở sản xuất vừa phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội vừa phục vụ cho hiện đại
hóa quốc phịng - an ninh, tập trung vào ngành luyện kim, cơ khí chế tạo, điện tử,
hóa dầu…Huy động các cơ sở cơng nghiệp quốc phịng và tổ chức cho lực lượng
vũ trang tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
2.3.4. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng an ninh
trong các hoạt động của LLVT (quân đội và công an)
Nội dung gắn kết cần chú ý:
- Tổ chức biên chế và bố trí lực lượng vũ trang phải phù hợp với điều kiện kinh
tế và nhu cầu phòng thủ đất nước; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội.
- Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật
trong huấn luyện, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang.
- Khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của quân đội, công an cho
phát triển kinh tế. Xây dựng, phát triển các khu kinh tế quốc phòng, các khu quốc
phòng kinh tế trên các địa bàn miền núi biên giới, giúp đỡ nhân dân địa phương
ổn định sản xuất, đời sống, phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh trên
địa bàn. Tận dụng khả năng của cơng nghiệp quốc phịng trong thời bình để sản
xuất hàng hoá dân sự phục vụ dân sinh và xuất khẩu. Thành lập các tổ, đội công
tác trên từng lĩnh vực đưa về giúp đỡ các xã vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách
mạng cũ phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh…
- Phát huy tốt vai trò tham mưu của các cơ quan quân sự, công an các cấp
trong việc thẩm định, đánh giá các dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư có vốn
nước ngồi.
3. Chủ trương, quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội gắn
với tăng cường quốc phòng an ninh

3.1.Chủ trương, quan điểm
3.1.1. Chủ trương
4

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. CTQG. H. 2011. tr.235.

19


Xuyên suốt trong các kỳ đại hội, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh là một chủ trương nhất quán, gắn
xây dựng với bảo vệ Tổ quốc của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương đó ln vận
động và phát triển, phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn phát triển của đất nước.
Để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Chủ trương phát triển
kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh đã được Đại hội lần thứ
III của Đảng xác định: “Xây dựng kinh tế phải thấu suốt nhiệm vụ quốc phòng,
cũng như củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc xây
dựng kinh tế”. Theo tinh thần đó, miền Bắc tiến hành xây dựng chế độ mới, nền
kinh tế mới, văn hoá mới, bảo đảm nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân gắn
với chăm lo củng cố quốc phòng vững mạnh, đánh thắng chiến tranh phá hoại,
bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa và làm tròn nghĩa vụ của hậu
phương lớn chi viện đắc lực sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. ở miền Nam gắn kết chặt chẽ giữa đánh địch với
củng cố mở rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa miền Nam vững mạnh, thực
hiện khẩu hiệu “cả nước một lịng, tồn dân đánh giặc”. Đây chính là một điều
kiện cơ bản bảo đảm cho cách mạng nước ta đi đến thắng lợi.
Sau năm 1975 là thời kỳ cả nước độc lập thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã
hội, việc thực hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an
ninh được Đảng ta xác định là một nội dung rất quan trọng trong đường lối xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đã được triển khai tồn

diện hơn trên quy mơ cả nước.
Hiện nay, nước ta phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong xu thế
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các thế lực thù địch chống
phá ta về mọi mặt bằng chiến lược “diễn biến hịa bình”, thời cơ và thách thức
đan xen. Yêu cầu đặt ra là phải giữ vững nguyên tắc về chủ quyền quốc gia và lợi
ích dân tộc trong quan hệ quốc tế, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; vừa
phải phát huy nội lực khai thác nguồn vốn và công nghệ để đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; vừa phải phát huy lợi thế so sánh của các vùng
lãnh thổ trên cả nước để phát triển, giảm bớt sự chênh lệch về kinh tế - xã hội
giữa các vùng, miền trong cả nước. Vì thế phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng
cường quốc phòng - an ninh để chủ động tự bảo vệ là chủ yếu, đồng thời tham gia
bảo vệ và được bảo vệ một cách vững chắc trong quá trình xây dựng phát triển
đất nước. Do đó, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc
20


phòng - an ninh đã được Đảng, Nhà nước ta xác định là một nội dung rất quan
trọng, là một chủ trương lớn giữ vai trò chỉ đạo nhận thức, quan điểm và hành
động thống nhất trong Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Đại hội lần thứ IX của Đảng xác định: “Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội
với tăng cường quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ rất quan trọng trong bối cảnh
phát triển cạnh tranh và hội nhập kinh tế trong những năm tới” 5. Từ yêu cầu,
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội lần thứ X của Đảng nhấn mạnh:
Xây dựng đất nước, phát triển kinh tế là trung tâm, là tiền đề cơ sở để củng cố
quốc phòng - an ninh bảo vệ Tổ quốc; củng cố tăng cường quốc phòng - an ninh
là điều kiện giữ vững hòa bình, ổn định, tạo mơi trường thuận lợi cho xây dựng
đất nước, phát triển kinh tế - xã hội…. Đến Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khảng
định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với
kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; chú
trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo”6.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung và phát triển năm 2011) được thông qua tại Ðại hội lần thứ XI của Ðảng
chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai
nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau”7.Nhận thức về mối quan hệ
giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã chủ trương nhất quán về phát triển
kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phịng - an ninh, chủ trương đó khơng
ngừng được đổi mới, phát triển, hoàn thiện cả lý luận và thực tiễn.
Đại hội lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: “Sự ổn định và phát triển bền
vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng an ninh, phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh
với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh
tế - xã hội và trên từng địa bàn”8.
Trong thời kỳ đổi mới, Ðảng ta đã nhiều lần khẳng định, kinh tế - xã hội
phát triển, tăng trưởng kinh tế nhanh, vững chắc không chỉ tạo cơ sở vật chất kỹ
thuật, nguồn lực kinh tế cho tăng cường tiềm lực quốc phòng, mà còn tạo cơ sở
chính trị - xã hội thuận lợi cho việc nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân đối
với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Sự ổn định và phát triển bền
5

.ĐCSVN. “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb CTQG.H. 2001. Tr 316.

6

. ĐCSVN. “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG. H. 2011. Tr 234
. ĐCSVN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG. H, 2011. tr. 65

7
8

.ĐCSVN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG. H. tr.82


21


vững đặt ra yêu cầu đòi hỏi tăng trưởng kinh tế phải trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ
mô, với phát triển hài hịa văn hóa, thực hiện cơng bằng xã hội.
Cùng với việc nhấn mạnh ảnh hưởng tích cực của ổn định, phát triển kinh
tế - xã hội đối với quốc phịng - an ninh, Đảng ta khơng hề coi nhẹ vai trị của
quốc phịng an ninh. Vì vậy, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020,
đã khẳng định: “Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng
cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”9.
Hiện nay, hịa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu hướng chủ đạo, hợp tác
kinh tế toàn cầu với nội dung cơ bản là thúc đẩy tự do hóa thương mại, đầu tư,
dịch vụ vẫn tiếp tục được đẩy mạnh. Tuy nhiên, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch vẫn không ngừng từ bỏ tham vọng bá quyền, trắng trợn can thiệp vào
công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền; chủ nghĩa khủng bố vẫn đang
tồn tại, do vậy nguy cơ xảy ra chiến tranh cục bộ trên quy mô lớn chưa bị loại trừ.
Ðối với Việt Nam, sau nhiều năm thực hiện chính sách bao vây, cấm vận,
chống phá không đạt kết quả, các thế lực thù địch vẫn đã và đang tăng cường
thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình”. Với chính sách hai mặt, vừa ve vãn lôi
kéo, vừa gây sức ép nhằm tạo sự mơ hồ trong xác định đối tác và đối tượng,
chuyển hóa tư tưởng, lối sống trong xã hội, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Ðảng
Cộng sản Việt nam; làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa; hỗ trợ, chỉ đạo các
lực lượng phản động, chống đối tiến hành các hoạt động chống phá, gây bạo loạn,
lật đổ. Bên cạnh đó là sự tranh chấp chủ quyền biển, đảo, khai thác tài nguyên ở
Biển Ðông giữa Việt Nam với một số nước láng giềng sẽ diễn biến ngày càng
phức tạp. Vì vậy, tăng cường quốc phịng - an ninh là một tất yếu khách quan.
Để tăng cường mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn
với quốc phòng - an ninh, Đảng ta kiên định thực hiện chủ trương đó trong từng
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên

từng địa bàn. Ðây là chủ trương nhất quán của Ðảng, Nhà nước ta trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, các Bộ, ngành, địa phương phải
quỏn triệt và xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với
quốc phòng - an ninh theo chức năng, nhiệm vụ của từng Bộ, ngành và địa
phương mình; đồng thời cơ quan quân sự, công an các cấp phải tham gia thẩm
định các kế hoạch, quy hoạch và dự án kinh tế - xã hội của bộ, ngành liên quan
đến quốc phũng, an ninh, tham mưu cho cấp ủy, chớnh quyền lập kế hoạch động
9

.ĐCSVN. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Nxb CTQG, H, 2011. tr. 99

22


viờn nhõn lực, phương tiện, vật chất phục vụ nhiệm vụ quốc phũng an ninh và
xõy dựng khu vực phòng thủ vững mạnh cả về lực lượng, tiềm lực và thế trận,
thật sự phát huy tỏc dụng trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ địa phương.
Với chủ trương phát triển kinh tế xã hội gắn với quốc phòng - an ninh, Ðại
hội lần thứ XI của Ðảng đã nêu rõ trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 – 2020, đó là: Quan tâm đến phát triển kinh tế - xã hội nhằm tăng cường
tiềm lực quốc phòng - an ninh ở các vùng, địa bàn trọng điểm; lồng ghép các
chương trình để xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng ở vùng biên giới, hải đảo.
Thực tế, những năm qua, chúng ta đã tích cực, chủ động triển khai có hiệu quả
nhiều đồn kinh tế - quốc phịng; quốc phịng - kinh tế trên các địa bàn chiến lược
trọng yếu, các địa bàn cịn khó khăn, phức tạp. Trong thời gian tới, việc xây dựng
các khu kinh tế - quốc phòng cần được đẩy mạnh và lồng ghép với các chương
trình quy hoạch, phân bố lại dân cư, xóa đói, giảm nghèo, phát triển văn hóa, xã
hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn nhằm góp phần quan trọng vào
nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế,
củng cố hệ thống chính trị ở địa phương và củng cố vững chắc thế trận quốc

phòng - an ninh của đất nước.
Ðảng ta chỉ rõ: Phát triển mạnh kinh tế đảo, khai thác hải sản xa bờ gắn
với tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và giữ vững chủ quyền vùng biển quốc gia. Ðiều
đó địi hỏi phải được tổ chức, phối hợp chặt chẽ hơn giữa các lực lượng quần
chúng nhân dân với các lực lượng vũ trang trong tham gia quản lý, đấu tranh bảo
vệ chủ quyền biển, đảo, sẵn sàng ứng phó với mọi bất trắc về thiên tai, địch họa,
góp phần đẩy lùi, ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, hành động xâm phạm chủ
quyền, bảo vệ lợi ích kinh tế biển, đảo của Tổ quốc.
Chủ trương phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh của Đảng
còn được thể hiện ở việc bảo đảm nguồn lực cho hoạt động quốc phòng - an ninh
bằng việc: “Mở rộng phương thức huy động nguồn lực xây dựng cơng nghiệp
quốc phịng, phát triển cơng nghiệp quốc phòng và khoa học kỹ thuật quân sự là
nhiệm vụ hết sức cần thiết để giữ vững độc lập, tự chủ và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc. Tự sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự nhằm đáp ứng yêu cầu tác
chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là một trong những công việc hết sức
trọng yếu trong xây dựng tiềm lực quân sự của đất nước hiện nay”10. Muốn vậy,
Nhà nước phải đầu tư hiện hóa chủ nghĩa quốc phịng, khi thời bình thì tập trung
10

. ĐCSVN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG. H. tr.138

23


sản xuất phục vụ dân sinh là chủ yếu, khi chiến tranh xảy ra thì chuyển nhanh
sang sản xuất phục vụ quốc phịng. Nhà nước phải có chế tài và kế hoạch huy
động các nguồn lực của đất nước vào xây dựng cơng nghiệp quốc phịng, phải
giải quyết hài hịa giữa nhu cầu phỏt triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức
mạnh quốc phòng - an ninh của đất nước..
Như vậy, phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh là một

chủ trương chiến lược nhất quán, gắn xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, là bước phát
triển mới trong tư duy của Đảng ta về nội hàm phạm trù phát triển kinh tế - xã hội
gắn với quốc phòng - an ninh. Đó là sự gắn kết đầy đủ, tồn diện trên các lĩnh
vực đời sống xã hội, trong xây dựng và tăng cường nền quốc phịng tồn dân, nền
an ninh nhân dân. Phát triển lực lượng, tạo thế bố trí chiến lược để làm chủ về
kinh tế, quốc phòng, an ninh ở từng địa phương, bộ, ngành trên phạm vi cả nước.
3.1.2. Quan điểm
Phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh trong thời
kỳ mới phải nắm vững và thực hiện theo quan điểm chỉ đạo dưới đây:
Một là, phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh
phải toàn diện, cơ bản, lâu dài ngay từ trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh trên phạm vi cả nứơc,
từng vùng, từng ngành và ở từng địa phương.
Đây là quan điểm chỉ đạo công tác điều hành, quản lý ở tầm vĩ mô. Gắn kết
chặt chẽ việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội
và tăng cường quốc phòng - an ninh của đất nước, chỉ ra đối tượng, không gian,
thời gian gắn kết hợp và là quan điểm bao trùm, xuyên suốt phục vụ công tác chỉ
đạo, quản lý điều hành của Nhà nước.
Hai là, phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phịng - an ninh
phải tập trung có trọng điểm, quan tâm đầu tư vào những vùng, địa bàn chiến lược
trọng yếu như (vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ), những ngành,
những lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước.
Quan điểm chỉ ra phương thức phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường
quốc phòng - an ninh, đồng thời thể hiện nghệ thuật trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức
thực hiện của Đảng ta “vững tồn diện, mạnh có trọng điểm”.
Ba là, phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phịng - an ninh
thời bình phải có phương án, kế hoạch sẵn sàng điều chỉnh thích ứng với thời
chiến và ứng phó thắng lợi với mọi tình huống bất trắc xảy ra hạn chế tổn
thất, thiệt hại do thiên tai, địch hoạ gây ra.
24



Quan điểm thể hiện tính tích cực, chủ động, linh hoạt sáng tạo trong
công tác chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta. Chúng ta không muốn chiến
tranh, song trong điều kiện tình hình thế giới cịn nhiều những bất trắc khó
lường buộc chúng ta phải tính đến các tình huống cả trước mắt và lâu dài,
phục vụ cho mục tiêu, yêu cầu đánh thắng của quốc phòng Việt Nam trong
chiến tranh.
Bốn là, phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh là
sự nghiệp của toàn dân, của mọi ngành, mọi cấp, mọi thành phần kinh tế do Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, với một hệ thống cơ quan tham mưu có năng lực,
trách nhiệm tốt và với một hệ thống pháp luật, chính sách đồng bộ, phù hợp trong
thời kỳ mới.
Năm là, chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ: quan hệ giữa
đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh
tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và
xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; giữa
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự
chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ;...không phiến diện cực đoan, duy ý chí.
Những quan điểm trên là một thể thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo việc
thực hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh. Vì vậy, các bộ,
ngành cần có quan điểm và nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng với
bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh trong
thời kỳ mới. Trong mối quan hệ đó, xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội
là trung tâm giữ vai trò quyết định, tạo tiền đề và làm cơ sở để tăng cường quốc
phòng - an ninh. Ngược lại tăng cường quốc phòng - an ninh vững mạnh sẽ là
điều kiện giữ vững hồ bình ổn định tạo môi trường thuận lợi cho xây dựng đất
nước, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, an ninh

quốc gia và chế độ xã hội chủ nghĩa
3.2. Giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc
phòng an ninh
3.2.1. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho cán bộ các cấp, các ngành về
phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh
Hiện tượng coi nặng kinh tế, coi nhẹ quốc phòng-an ninh hoặc ngược lại
đang diễn ra khá phổ biến ở các địa phương, các ngành. Để khắc phục tình trạng
25


×