Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tác động của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đến xuất khẩu rau củ của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (713.07 KB, 13 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO
VIỆT NAM - EU (EVFTA) ĐẾN XUẤT KHẨU RAU CỦ CỦA VIỆT NAM
EVALUATING THE POTENTIAL IMPACT OF VIETNAM - EUROPEAN FREE
TRADE AGREEMENT (EVFTA) ON VIETNAM’S VEGETABLE EXPORT
ThS. Doãn Nguyên Minh
Trường Đại học Thương mại
ThS. Trần Thu Thủy
Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN
Tóm tắt

Từ khóa: EVFTA, Xuất khẩu, Rau củ, Việt Nam, SMART, Cân bằng bán phần
Abstract

Keywords: EVFTA, Export, Vegetable, Vietnam, SMART, Partial equilibrium

530


1. Giới thiệu
EVFTA được ký vào ngày 30/06/2019 và đã được thông qua bởi nghị viện EU vào
ngày 12/02/2020. Theo Hiệp định này, Việt Nam và EU cam kết sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu
đối với 99% số dịng thuế trong khoảng thời gian 7 năm đối với EU và 10 năm đối với Việt
Nam. Điều này tạo ra những cơ hội mới trong quan hệ thương mại giữa hai bên. Việt Nam
có cơ hội xuất khẩu những măt hàng có lợi thế như dệt may, giày dép, nơng sản, thủy
sản,... Đồng thời, EU cũng có cơ hội xuất khẩu sang Việt Nam những mặt hàng như máy
móc thiết bị, sản phẩm điện tử và linh kiện, ô tô,... Liên quan đến ngành xuất khẩu ngành
hàng nông sản, và cụ thể hơn là xuất khẩu rau củ tươi, đông lạnh hoặc đã qua chế biến sang
thị trường EU. Hiện nay, 12 trên 14 dòng HS 4 số thuộc mã HS 07 (rau củ tươi, sơ chế) của
Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu sang thị trường châu Âu, tuy kim ngạch xuất khẩu chưa
nhiều, đặc biệt là so với các quốc gia đứng đầu xuất khẩu sang thị trường này như Ma rốc, nhưng cấu trúc xuất khẩu mã hàng 07 của Việt nam sang EU khá đa dạng.
Khi EVFTA chưa có hiệu lực, thuế nhập khẩu vào thị trường châu Âu mặt hàng rau


củ tươi, đông lạnh, hoặc đã qua chế biến của Việt nam ở mức trung bình và cao, từ 4% đến
15%, theo từng các dòng hàng. Hơn nữa hầu hết các dòng HS 4 số (12 trên 14) của mặt
hàng này từ Việt Nam hiện đang phải chịu thuế quan nhập khẩu vào EU. Vì vậy, có thể nói
hàng rào thuế quan đối với mặt hàng này vào thị trường EU là khá đáng kể, cũng như có độ
bao phủ khá cao. Do đó, việc thuế quan của các dòng hàng này được giảm về 0% ngay lập
tức (theo nhóm A của cam kết) dưới ảnh hưởng của hiệp định thương mại tự do Việt Nam châu Âu sẽ có một tác động đáng kể lên kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Vì vậy, nghiên cứu về tác động của EVFTA đối với hoạt động xuất khẩu rau củ
của Việt Nam là cần thiết để thấy được những tác động tiềm năng của Hiệp định này, từ
đó có những biện pháp để tăng cường lợi ích thương mại từ Hiệp định cũng như có thể
đề xuất những phương án nhằm đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang thị
trường châu Âu.
Bài viết sử dụng giả định SMART với căn bản là lý thuyết cân bằng bán phần để
đánh giá tác động tiềm năng của Hiệp định EVFTA đối với xuất khẩu rau củ của Việt Nam
sang châu Âu
2. Tổng quan nghiên cứu
Các nghiên cứu về tác động của các hiệp định thương mại tự do lên dịng thương
mại thường sử dụng mơ hình trọng lực và đánh giá dựa trên số liệu tổng hợp để đánh giá
tác động “sau khi” (ex-post) các FTAs có hiệu lực từ 5-10 năm. Tuy vậy, các nghiên cứu
về tác động của FTAs lên dịng thương mại khơng đưa ra được một kết quả thống nhất.
Nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Jan Tinbergen (1962), một trong những nhà nghiên cứu
đầu tiên sử dụng mơ hình trọng lực (gravity model) để đánh giá tác động của hiệp định
thương mại tự do thấy rằng tác động của các hiệp định FTAs lên dịng thương mại khơng
có ý nghĩa thống kê (statistically insignificant), hay việc ký kết các FTAs được cho là
khơng có ảnh hưởng đến thương mại quốc tế. Trong khi đó, kết quả của Aitken (1973),
Abrams (1980) và Brada và Mendez (1985) cho thấy rằng, các hiệp định thương mại tự do
và đặc biệt là khối liên minh châu Âu (EC) có tác dụng thúc đẩy thương mại quốc tế giữa

531



các thành viên nội khối. Các kết quả có phần đối nghịch này được giải thích là do sự khác
nhau trong việc sử dụng mơ hình định lượng và cách xử lý dữ liệu khác nhau của các nhà
nghiên cứu. Các nghiên cứu định lượng sử dụng mơ hình trọng lực thường sử dụng các
biến kiểm soát khác nhau (ngoại trừ những biến độc lập cố định như GDP, và khoảng cách
địa lí), cũng như các phương pháp xử lý dữ liệu khác nhau ví dụ như mơ hình bình phương
nhỏ nhất (OLS), phương pháp Tobit, phương pháp PPML (Poisson Maximum likelihood).
Hơn nữa, việc sử dụng biến giả để đại diện cho FTAs thường khơng tính việc, các quốc gia
tham gia vào một FTA thường là các quốc gia đã có sẵn lượng thương mại song phương
lớn. Việc khơng tính đến các yếu tố mà một quốc gia tham gia hoặc được lựa chọn để tham
gia vào FTA cũng sẽ gây ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả mơ hình (Baier,
Bergstrand, 2007).
Bên cạnh các nghiên cứu đánh giá xem FTAs có thật sự có tác động lên dịng
thương mại quốc tế hay khơng (và nếu có thì là bao nhiêu phần trăm), các nghiên cứu liên
quan đến tác động tiềm năng (ex-ante) của các FTAs, đặc biệt là FTAs thế hệ mới rất phổ
biến. Các nghiên cứu này thường sử dụng các cơng cụ mơ phỏng (simulation) ví dụ như
SMART hay CGE và dựa trên các lý thuyết như cân bằng tổng thể (General equilibrium)
hay cân bằng một phần (Partial Equilibrium) để đánh giá các tác động có thể xảy ra đối với
cả nền kinh tế hay một ngành hàng cụ thể khi một quốc gia tham gia vào một hiệp định
FTAs. Các nghiên cứu sử dụng CGE để đánh giá tác động của FTA đối với tổng thể nền
kinh tế khá phổ biến, điển hình như Li (2014) đánh giá tác động RCEP lên đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI); Itakura và Lee (2014) sử dụng CGE để đánh gía tác động của TPP và
RCEP lên nơng nghiệp Nhật Bản; Li, Scollay, Gilbert (2017) đánh giá tác động của CPTPP
lên đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); Lu (2018) đánh giá tác động của của CPTPP và
EVFTA lên xuất khẩu may mặc Việt Nam; Khan, Zada, Mukhopadhyay (2018) đánh giá
tác động của CPTPP lên nền kinh tế Pakistan; Itakura và Lee (2019) đánh giá tác động của
CPTPP và RCEP của các nước thành viên nằm trong cùng một chuỗi cung ứng toàn cầu.
Các đánh giá chuyên biệt về một ngành hàng nhất định sử dụng mơ hình cân bằng bán
phần có hạn chế hơn về số lượng cũng như độ đa dạng thị trường được sử dụng để phân
tích, ví dụ như Kumar và Ahmed (2014) sử dụng SMART để đánh giá tác động của hiệp
định thương mại tự do Nam Á (SAFTA) lên một số các dòng hàng nhạy cảm, hoặc Othineo

và Shinyekwa (2011) sử dụng SMART để đánh giá tác động của liên minh thuế quan đông
phi (East Africa customs union) lên Uganda. Llano, Perez và Steinberg (2019) mở rộng
phạm vi nghiên cứu và đánh giá tác động thuế quan của Hoa Kỳ lên ngành hàng sắt ở các
khu vực kinh tế khác nhau. Veeramani và Saini đánh giá tác động của hiệp định ASEAN
và Ấn Độ lên ngành trồng trọt. Ngoài các nghiên cứu quốc tế, các nghiên cứu sử dụng công
cụ giả định SMART tại Việt Nam cũng có phần hạn chế về mặt số lượng. Vu (2016) sử
dụng SMART để định lượng tác động tiềm năng của EVFTA lên nhập khẩu thuốc y tế Việt
Nam từ EU, Anh. Ngọc (2011) đánh giá tác động tiềm năng của hiệp định RCEP lên nhập
khẩu ô tô tại Việt Nam. Tác động của RCEP lên mặt hàng ô tô tại Việt Nam được tiếp tục
nghiên cứu bởi Tu, Ngoc và Hương vào năm 2017.
Từ việc tổng quan các nghiên cứu đánh giá các tác động cả trước (ex-ante) và sau
(expost) của các FTAs lên dòng thương mại nói chung và các FTAs thế hệ mới như CPTPP

532


và EVFTA lên dịng thương mại Việt Nam nói riêng, nhóm tác giả nhận thấy các nghiên
cứu đánh giá và đặc biệt là đánh giá định tính tác động của EVFTA lên một ngành hàng
còn chưa đa dạng, đặc biệt chưa có tác giả nào cơng bố kết quả nghiên cứu về tác động của
EVFTA đối với kim ngạch xuất khẩu rau củ (Mã HS 07) của Việt Nam bằng mơ hình
SMART, nhóm tác giả sử dụng mơ hình SMART và lý thuyết cân bằng bán phần để đánh
giá tác động của EVFTA lên ngành hàng rau củ của Việt Nam có tính duy nhất và khơng bị
trùng lặp với các nghiên cứu đã có.
3. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu
3.1. Mơ hình cân bằng bán phần (Partial equilibrium-PE)
Mơ hình cân bằng bán phần là mơ hình sử dụng lý thuyết cung cầu căn bản để đánh
giá và phân tích một thị trường nhất định dưới tác động của các thay đổi về mặt chính sách
(tăng cường, cắt giảm hàng rào thuế quan), hoặc các tác động khác ảnh hưởng đến cung và
cầu của ngành hàng đó. Mơ hình cân bằng bán phần thường bỏ qua các ảnh hưởng dẫn đến
sự thay đổi của các ngành hàng liên quan hoặc thay thế, hoặc đưa ra giả định rằng ngành

hàng đang được đánh giá phân tích là tương đối nhỏ so với cả nền kinh tế, nên các thay đổi
từ ngành hàng này không gây ảnh hưởng đến các ngành hàng khác. Tính chất này của mơ
hình cân bằng bán phần giúp cho việc sử dụng mơ hình và đánh giá trở nên đơn giản hơn,
tuy vậy mơ hình có điểm yếu là chỉ có thể đánh giá được một ngành hàng độc lập và bỏ
qua các tương tác với những ngành hàng khác, cũng như việc sử dụng mô hình cân bằng
bán phần cần tuân thủ theo một vài giả định khắt khe và thường khơng có thật ở thực tế. Vì
vậy, các kết quả được đưa ra bởi mơ hình cân bằng bán phần thường được coi như tham
chiếu hoặc ước lượng về các thay đổi có thể xảy ra khi ngành hàng phải chịu sự ảnh hưởng
bởi một chính sách nào đó, chứ khơng được coi như dự báo chính xác. Dưới đây, nhóm tác
giả sẽ đưa ra khung lý thuyết căn bản của mơ hình cân bằng bán phần dựa trên lý thuyết
cung cầu.
Một nước nhập khẩu j, nhập khẩu một mặt hàng i của nước xuất khẩu k sẽ có
phương trình đường cầu như sau:
M = αMPMε
αM là hằng số với điều kiện αM > 0, và ε < 0 là độ co giãn nhập khẩu (co giãn cầu).
Tương tự, chúng ta có thể mơ tả đường cung với phương trình như sau
X = αXPXη
Với αM > 0 là hằng số, và η > 0 là độ co giãn xuất khẩu (co giãn cung). Trong
trường hợp nước xuất khẩu có nền kinh tế nhỏ, hoặc có kim ngạch nhập khẩu ngành hàng i
nhỏ hơn so với tổng kim ngạch thương mại thế giới thì η bằng dương vơ cùng. Điều kiện
cân bằng của mơ hình yêu cầu phương trình sau đây cần phải được thỏa mãn
M=X
Độ chênh lệch giữa giá nhập khẩu và giá xuất khẩu được tạo nên bởi thuế quan và
được thể hiện bởi phương trình sau.
PM = PX(1 + T/100)
Với T là thuế nhập khẩu được tính theo phần trăm.

533



Sự thay đổi trong lợi ích của việc xuất nhập khẩu sẽ được thể hiện bởi phương
trình.
∆WM =

(

-

)

∆WX =

(

-

)

3.2. Giả định SMART (Single market partial equlibrium simulation tool)
Dựa trên nền tảng lý thuyết của mơ hình cân bằng bán phần (PE) được nêu trên,
công cụ giả định SMART được áp dụng để tính tốn sự thay đổi về dịng thương mại dựa
trên mức thuế sẽ được thay đổi theo hiệp định thương mại tự do và kim ngạch thương mại
của ngành hàng đó trong năm được chọn. Vì vậy, SMART có thể được coi như một cơng
cụ để thiết lập giả định (Counter-factual) để trả lời câu hỏi “nếu như?” việc cắt giảm thuế
quan trong tương lai được áp dụng vào hiện tại thì dịng thương mại sẽ bị thay đổi ra sao.
SMART được sử dụng dựa trên các giả định sau đây về đường cung xuất khẩu và đường
cầu nhập khẩu
(1) Chỉ có một nhà nhập khẩu duy nhất trong mơ hình, các nhà xuất khẩu phải cạnh
tranh nhau để xuất khẩu sang thị trường của nước xuất khẩu, vì vậy đường cung xuất khẩu
thường sẽ co giãn hồn hảo, hay nói cách khác sẽ có độ co giãn là dương vô cùng, và

đường cung sẽ nằm ngang
(2) Giả định Armington: người tiêu dùng có thị yếu khác nhau về các sản phẩm
được nhập khẩu từ các nhà nhập khẩu khác nhau. Do có thị hiếu khác nhau về các sản
phẩm, nên dịng nhập khẩu sẽ khơng tập trung về một nước xuất khẩu, nếu nước xuất khẩu
đó được hưởng các thuế quan ưu đãi đặc biệt
(3) Nhu cầu của người tiêu dùng sẽ được chia thành hai bước, bước một, người tiêu
dùng quyết định tổng cầu cho mặt hàng dựa vào chỉ số giá tiêu dùng, bước hai: người mua
quyết định cầu của các chủng loại khác nhau của mặt hàng dựa trên tổng nhu cầu sử dụng
Độ chính xác của kết quả từ mơ hình SMART phụ thuộc rất nhiều vào việc chọn
lựa độ co giãn phù hợp để tính tốn sự thay đổi về kim ngạch khi có sự thay đổi về giá cả
do sự tăng lên hoặc giảm xuống của thuế quan. Hai độ co giãn cần được chọn trong mơ
hình SMART là co giãn cung, và co giãn thay thế. Trong bài viết này, nhóm tác giả lựa
chọn độ co giãn cung (supply elasticity) là vơ cực do theo số liệu của TRAINS thì năm
2014 kim ngạch nhập khẩu rau củ của liên minh châu Âu - EU ở mức 5 tỉ USD, tương đối
nhỏ so với tổng kim ngạch nhập khẩu mã HS 07 của cả thế giới.
Ngành hàng rau củ (HS 07) được chia làm hai nhóm hàng nhỏ là rau củ tươi vả rau
củ đã qua chế biến, với độ co giãn thay thế khác nhau. Theo ước lượng của Sarris (1984),
độ co giãn thay thế nhập khẩu của liên minh châu Âu - EU cho rau củ tươi sống là 1.08,
trong khi đó cho rau củ đã qua chế biến là 1.56. Vì vậy, trong bài, nhóm tác giả sẽ chạy hai
giả định cho hai nhóm hàng này với hai đọ co giãn thay thế khác nhau, lần lượt là 1.08 cho
rau củ tươi sống và 1.56 cho rau củ đã qua chế biến.
3.3. Dữ liệu nghiên cứu và giả định nghiên cứu
Để có thể đánh giá được tác động tiềm năng của EVFTA lên xuất khẩu mặt hàng

534


rau củ của Việt Nam sang thị trường EU, nhóm tác giả sử dụng số liệu nhập khẩu các mã
hàng 6 số thuộc chương 7 trong hệ thống hài hòa HS (Harmonize system) của Liên minh
châu Âu - EU với năm gốc là năm 2018, và từ đó thiết lập các giả định liên quan đến các

chính sách thuế quan nhằm đánh giá tác động của các chính sách này. Dữ liệu về kim
ngạch nhập khẩu của EU được trích xuất từ nguồn dữ liệu của UNCTAD-TRAINS thơng
qua SMART. Ngồi ra, các thơng tin về lộ trình cam kết cắt giảm thuế quan được trích
xuất từ phụ lục 2-A-2 của hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Châu Âu (EVFTA).
Trong bài viết, khối liên minh Châu Âu EU được hiểu là có 27 nước thành viên, khơng bao
gồm Anh, hay còn gọi là EU27. Đồng nghĩa với việc, Anh sẽ không được hưởng các thuế
quan ưu đãi từ hiệp định thương mại tự do EVFTA. Đây là do, mơ hình SMART là mơ
hình mơ phỏng, có tính chất dự báo cho tương lai, vì vậy việc bao gồm Vương quốc Anh
vào trong Liên minh châu âu EU sẽ tạo nên các vấn đề sai lệch cho các kết quả, do Anh đã
rời khỏi liên minh thuế quan vào năm 2020.
3.3.1. Thực trạng xuất khẩu rau củ từ Việt Nam sang EU
Hình 1 thể hiện kim ngạch xuất khẩu ngành hàng rau củ (HS 07) của Việt Nam
sang thị trường EU vào năm gốc (năm 2018) theo mã HS 4 số. Các mã HS từ 0701 đến
0709 là các loại rau củ tươi hoặc đông lạnh, và các mã HS từ 0710 đến 0714 là các loại rau
củ đã qua chế biến.
Đơn vị: Nghìn USD

(Nguồn: UNCTAD-TRAINS)
Hình 1: Kim ngạch xuất khẩu rau củ của Việt Nam sang EU theo mã HS 4 số
Có thể thấy qua số liệu được cung cấp bởi UNCTAD-TRAINS, tổng kim ngạch
xuất khẩu mặt hàng rau củ của Việt Nam sang thị trường EU là chưa cao. Trong năm 2018,
tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam chỉ đạt 7.5 triệu USD, xếp thứ 40
trong số các quốc gia xuất khẩu mã hàng này sang EU, và còn tương đối hạn chế so với các
quốc gia đứng đầu như Ma-rốc (1.2 tỉ USD), Trung Quốc (500 triệu USD) và Thổ Nhĩ Kì
(400 triệu USD).

535


Trong 7.5 triệu kim ngạch xuất khẩu mã hàng 07 của Việt Nam sang thị trường

Châu Âu, thì mặt hàng rau củ đã được qua chế biến (HS0710 đến 0714) chiếm 77% (sấp xỉ
6 triệu USD) trong khi đó mặt hàng rau củ tươi chỉ chiếm 23% kim ngạch nhập khẩu. Vấn
đề này có thể được giải thích bởi khoảng cách tương đối đáng kể giữa Việt Nam và Châu
Âu, gây trở ngại cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, khi chưa có kinh nghiệm cũng
như kĩ thuật giúp bảo quản độ tươi cũng như giữ lạnh cho sản phẩm. Vì vậy, có thể thấy,
các mặt hàng thuộc các mã HS 0701 (Khoai tây), 0702 (Cà chua), 0703 (Hành củ), 0704
(Bắp cải), 0705 (Xà lách), 0706 (Cà rốt), 0707 (Dưa chuột), 0708 (Các loại cây họ đậu) có
kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Châu Âu không đáng kể. Đặc biệt các loại rau củ có
tính chất đặc biệt, khó vận chuyển như khoai tây (0701) và cà chua (0702) khơng có, hoặc
gần như khơng có kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Châu Âu. Tuy vậy, mã HS 0709
(các loại rau củ tươi hoặc đông lạnh khác) lại có kim ngạch khá cao (gần 1.5 triệu USD).
Đây là do, các loại rau củ trong mã hàng này thường có thời hạn sử dụng dài hơn, cũng
như khơng u cầu quá nhiều kĩ thuật bảo quản trong quá trình vận chun (ví dụ như: cây
atisơ, măng tây, cần tây, nấm). Hơn nữa, các loại rau củ thuộc mã HS 0709 cũng phù hợp
với nhu cầu của thị trường Châu Âu hơn, khiến cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
cho mã hàng này cũng cao hơn.
Các mã hàng rau củ đã qua chế biến (bảo quản, làm khơ) có kim ngạch xuất khẩu
cao hơn rất nhiều so với mặt hàng tươi, đông lạnh. Đặc biệt là mã hàng 0710 (rau các loại
đã được sơ chế bằng hơi nước) và 0711 (rau các loại đã bảo quản tạm thời) có kim ngạch
nhập khẩu tương đối lớn so với các sản phẩm được làm khô như 0712 (rau khô, ở dạng
nguyên, cắt thái lát, vụn, hoặc ở dạng bột) 0713 (các loại đậu khơ đã bóc vỏ, đã làm vỡ
hạt). Điều này cho thấy, nhu cầu của thị trường Châu Âu vẫn hướng tới các loại rau củ tươi
hơn, nhưng vì những loại rau củ tươi gặp trở ngại trong việc xuất khẩu nên thị trường
chuyển hướng sang các loại rau củ đã được sơ chế hoặc đã trải qua các quy trình bảo quản
cơ bản. Đây là một đặc điểm quan trọng cần lưu ý, vì nó cho thấy cơ hội và tiềm năng của
việc xuất khẩu mặt hàng rau củ tươi sang thị trường Châu Âu.
3.3.2. Giả định nghiên cứu
Để đánh giá được chính xác tác động của EVFTA lên xuất khẩu mã HS 07 của Việt
Nam, nhóm tác giả đề xuất giả định nghiên cứu như sau:
Giả định: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - châu Âu EVFTA có hiệu lực và

các dịng hàng thuộc mã HS07 được cam kết trong lịch trình sẽ có mức thuế nhập khẩu
vào EU giảm về 0% ngay lập tức.
Dựa vào giả định nghiên cứu được đặt ra, nhóm tác giả chọn năm gốc, các mã HS
được phân tích, cũng như mức thuế quan cho cơng cụ SMART. Từ đó SMART sẽ sử dụng
các dữ liệu và thông số được đưa ra, kết hợp với mơ hình cân bằng bán phần để ước lượng
ra sự ảnh hưởng của chính sách thuế quan mới lên kim ngạch xuất khẩu rau của Việt Nam
sang thị trường EU theo hai bước sau đây. Bước một, SMART sử dụng mức thuế quan mới
và độ co giãn cầu và cung để tính ra lượng tổng nhu cầu mới cho mã HS 07 của thị trường
EU. Bước hai, SMART sử dụng độ co giãn thay thế để tìm ra nhu cầu cụ thể (nhu cầu cho
các chủng loại hàng hóa khác nhau) cả thị trường EU, từ đó tìm ra được kim ngạch xuất
khẩu mới của Việt Nam sang EU.
536


4. Kết quả của giả định
4.1. Ảnh hưởng của EVFTA lên tổng kim ngạch xuất khẩu rau củ của Việt Nam
Kết quả của giả định đưa ra một cái nhìn tích cực đến tác động của hiệp định
EVFTA lên xuất khẩu mặt hàng rau (HS07) sang thị trường châu Âu của Việt Nam. Các
kết quả tích cực này là kết quả của việc thuế quan được cắt giảm xuống 0% cho ngành
hàng này theo các cam kết thuộc phạm vi EVFTA.
Kết quả của bảng 1 cho thấy, kim ngạch xuất khẩu của mã hàng HS07 sẽ tăng 1
triệu USD, tức vào khoảng 13.8% khi ngành hàng này của Việt Nam được hưởng mức thuế
0% từ EU. Một cách tuyệt đối, mức tăng trưởng 13.8% là mức tăng trưởng tương đối đáng
kể, đây là kết quả trực tiếp của mức thuế ưu đãi được đặt ra bởi hiệp định EVFTA.
Bảng 1: Kết quả về sự thay đổi kim ngạch xuất khẩu rau củ dưới tác động của
EVFTA
(Đơn vị: Nghìn USD)
Chỉ số
Kim ngạch xuất khẩu trước hiệp
định (‘000 USD)

Kim ngạch xuất khẩu sau hiệp
định (‘000 USD)
Tổng trị giá thay đổi xuất khẩu
(‘000 USD)
Phần trăm thay đổi xuất khẩu (%)

Giả định
7596.861
8650.793
1053.932
13.8%
Nguồn: Thống kê của nhóm nghiên cứu

Trước hiệp định, các mã HS 6 số thuộc mã HS 07 tuy phải chịu mức thuế trung
bình (từ 6% đến 10%), tuy vậy độ phủ của thuế quan lại khá cao (76% các dòng hàng phải
chịu thuế quan nhập khẩu từ EU). Vì vậy, việc giảm thuế của tất cả các dòng hàng này
xuống 0% sẽ có một tác động đáng kể lên kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy vậy, một cách tương đối, so với các ngành hàng khác, thì mức tăng trưởng kim
ngạch 1 triệu USD không phải quá lớn. Các nghiên cứu tác động của EVFTA trước đây
cho thấy, có các mặt hàng có mức tăng trưởng rất đáng kể dưới tác động của hiệp định
thương mại Việt Nam - châu Âu, các mặt hàng này thường là các loại hàng hóa vốn đã có
mức kim ngạch xuất khẩu khá lớn sang EU. Kết quả này có thể được giải thích do kim
ngạch xuất khẩu vốn đã hạn chế của Việt Nam sang EU đối với mặt hàng rau củ, đặc biệt
là mặt hàng rau củ tươi hoặc đơng lạnh, vì vậy, kể cả khi mức thuế được giảm xuống mức
rất thấp là 0%, thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa thể ngay lập tức nắm bắt được
các cơ hội, cũng như các cản trở về mặt quy trình và cơng nghệ còn quá lớn khiến cho việc
tăng trưởng kim ngạch nhóm hàng này trở nên khó khăn.
4.2. Ảnh hưởng của EVFTA lên kim ngạch xuất khẩu rau củ của Việt Nam sang EU
theo các mã HS 4 số và 6 số
Bảng 2 thể hiện kết quả ảnh hưởng của hiệp định thương mại Việt Nam - EU lên

xuất khẩu rau củ của Việt nam sang châu Âu theo các mã HS 6 số, chỉ các dịng HS có sự
537


thay đổi được báo cáo trong bảng 2, các dòng hàng khơng có sự thay đổi trong kim ngạch
xuất khẩu được lược bỏ. Có thể thấy, 8 trên 14 dịng HS 4 số (87%) và 27 trên 38 dòng HS
6 số (70%) của mã HS 07 của Việt Nam có sự thay đổi về kim ngạch xuất khẩu sang thị
trường châu Âu dưới sự ảnh hưởng của EVFTA. Các mã HS 4 số khơng có sự thay đổi
trong kim ngạch có các đặc điểm sau đây. Thứ nhất, các mã hàng như 0701, 0702, 0705,
0707, tuy hiện đang phải chịu mức thuế khá đáng kể từ 9% đến 12%, nhưng có kim ngạch
xuất khẩu sang EU hiện nay ở mức tối thiểu, vì vậy, kể cả khi mức thuế quan nhập khẩu
vào EU được giảm xuống 0% thì các mã hàng này cũng khơng có sự thay đổi trong kim
ngạch ngay lập tức. Tuy vậy, không thể loại trừ trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam
trong tương lai sẽ lợi dụng các chi phí được cắt giảm do mức thuế quan hạ xuống để đầu tư
vào quy trình bảo quản, vận chuyển nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng này. Thứ hai,
các mã HS 0713, 0714, tuy có kim ngạch xuất khẩu sang EU cao hơn, nhưng vốn đã có
mức thuế quan ở mức 0%, vì vậy, theo SMART, EVFTA sẽ khơng có ảnh hưởng lên các
mã hàng này. Tuy vậy, khơng thể khơng tính đến trường hợp các mặt hàng này cũng có sự
tăng trưởng nhất định, do hiệu ứng lan tỏa từ tăng trưởng kim ngạch từ các mã hàng khác,
cũng như sự giảm xuống của chi phí xuất khẩu tổng thể hàng hóa thuộc mã 07. Đây là một
trong những điểm yếu của công cụ SMART, SMART dựa trên mơ hình cân bằng bán phần
và tính toán một cách thuần toán học về các thay đổi, dựa trên các dữ liệu và tham số được
cung cấp bởi người nghiên cứu, vì vậy, tuy rằng SMART khá hữu dụng trong việc tính
tốn các ảnh hưởng thuần túy của việc thuế quan giảm về 0%, nhưng lại không tính được
đến các tính chất phức tạp hơn của thương mại quốc tế.
Bảng 2: Ảnh hưởng của EVFTA lên xuất khẩu rau củ Việt Nam sang EU
Mã HS

Kim ngạch trước
hiệp định

(‘000 USD)

Kim ngạch sau
hiệp định
(‘000 USD)

Tăng trưởng
(%)

070310
070390

44.26
11.62

62.1
13.393

40.33
14.94

070490

45.96

53.3

16.02

070610

070690

122.86
14.67

146.1
17.44

18.91
18.8

070820
070890

25.92
0.28

33.97
0.33

31.06
15.22

070920
070930
070940
070960
070970
070993
070999


0.002
103.104
2.17
371.21
2.36
23.8
950.48

0.003
121.23
2.60
390.9
2.83
30
1161.09

50
17.58
19.8
5.30
19.79
26.04
22.15

0703

0704
0706


0708

0709

0710

538


071010
071029
071030
071080
071090

0.247
34.9
0.335
1686.16
5.74

0.342
41.78
0.52
2013.3
7.3

38.46
19.51
57.61

19.40
28.13

071159
071190

2403.91
21.788

2672.79
24.04

11.18
10.36

071220
071231
071232
071233
071239
071290

48.17
13.53
336.1
6.1
252.86
80.79

59.5

15.83
395.01
7.2
297.33
92.95

23.64
17.38
17.52
17.31
17.58
15.05

0711

0712

Nguồn: Thống kê của nhóm nghiên cứu
Một đặc điểm đáng chú ý tiếp theo là phần lớn tăng trưởng kim ngạch nằm ở nhóm
hàng rau củ đã qua chế biến (HS 0710 đến HS0714), tăng trưởng của nhóm hàng này
chiếm 73% (730 triệu USD) tổng lượng tăng trưởng của nhóm hàng này. Điều này cho
thấy, các loại rau củ đã qua chế biến với lợi thế về mặt bảo quản vận chuyển sẽ tăng tưởng
mạnh hơn dưới tác động của EVFTA.
Các mã HS 6 số vốn có khối lượng xuất khẩu sang EU lớn như 070999 (Các loại
rau củ tươi hoặc đông lạnh khác) hoặc 071159 (Các loại rau củ đã sơ chế khác), cũng sẽ
có mức tăng trưởng lớn nhất dưới tác động của EVFTA. Tuy vậy cần phải nhận thấy
rằng, mức tăng trưởng của EVFTA có sự phân bố khơng đồng đều, trong khi có những
mã HS tăng trưởng 40% - 50% như 071030, 070310, có những mã HS chỉ có mức tăng
trưởng 5% - 10%.
5. Một số kiến nghị nhằm tăng cường lợi ích thương mại từ việc giảm thuế nhập khẩu

rau củ vào thị trường châu Âu
Kết quả từ giả định SMART đưa ra cho thấy, mức thuế quan ưu đãi từ các cam
kết của EVFTA sẽ có tác động tích cực lên kim ngạch xuất khẩu rau củ của Việt Nam
sang thị trường EU. Tuy vậy, có thể thấy, mức tăng trưởng được SMART tính toán và
đưa ra là tương đối hạn chế so với tương quan các ngành hàng khác như da giày, may
mặc. Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam còn khá thiếu kinh nghiệm cũng như trình độ
kỹ thuật để cạnh tranh với các đối thủ quốc tế có sự am hiểu hơn về thị trường châu Âu
hoặc có lợi thế hơn về mặt địa lý. Vì vậy, nhằm tận dụng tối đa được các lợi ích của
EVFTA, chính phủ cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu rau củ Việt Nam cần thực hiện
một số biện pháp như sau
- Các kiến nghị về phía chính phủ
Thứ nhất, chính phủ cần nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về các cơ hội cũng
như thách thức do hiệp định tạo ra. Tuy rằng, các hiệp định ký kết đem lại thuận lợi cho
các doanh nghiệp xuất khẩu, nhưng các doanh nghiệp quan tâm đến EVFTA còn chiếm tỉ
thể thấp, chủ yếu là các doanh nghiệp lớn hoặc các doanh nghiệp FDI. Vì vậy, cần phải
539


nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp nhằm nắm bắt những cơ hội cung như vượt qua
các thách thức để nâng cao tổng trị giá xuất khẩu.
Thứ hai, hiện nay các doanh nghiệp cịn thiếu các thơng tin cung như kĩ năng lấy
thông tin liên quan đến các hiệp định nói chung và EVFTA nói riêng. Vì vậy, các cơ quan
quản lý nhà nước cần có các biện pháp phổ biến các thông tin liên quan đến EVFTA đến
các doanh nghiệp thông qua các phương pháp khác nhau như tổ chức tọa đàm hội thảo,
hoặc phổ biến qua các kênh thơng tin như truyền hình, qua các Website, sách báo.
Thứ ba, Tăng cường các hoạt động xúc tiến xuất khẩu vĩ mô, giới thiệu quảng bá
sản phẩm, doanh nghiệp Việt nam ra thị trường nước ngoài, giúp các doanh nghiệp thâm
nhập thị trường, xây dựng các chương trình phát triển các mặt hàng mới có lợi thế, các mặt
hàng có tính mẫu mốt, có giá trị gia tăng cao, xây dựng thương hiệu quốc gia.
- Các kiến nghị về phía doanh nghiệp

Thứ nhất, các doanh nghiệp cần phát triển và đổi mới công nghệ, đặc biệt là các
công nghệ bảo quản và vận chuyển rau củ sang thị trường châu Âu, nhằm giảm tối thiểu
chi phí liên quan đến xuất khẩu mặt hàng, đồng thời làm tăng khả năng cạnh tranh cho mặt
hàng.
Thứ hai, các doanh nghiệp cần phải tích cực thay đổi, đa dạng hóa sản phẩm, và
quan trọng hơn là làm cho sản phẩm có sự khác biệt so với các đối thủ thương mại khác.
Đồng thời xây dựng chủ động và tăng cường thực hiện các hoạt động xúc tiến xuất khẩu
phát triển thị trường, đồng thời nâng cao năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp, tăng cường
liên kết giữa các doanh nghiệp và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu để đẩy mạnh và nâng
cao hiệu quả xuất khẩu.
6. Kết luận
Bài viết sử dụng mơ hình cân bằng bán phần và giả định SMART để nghiên cứu tác
động tiềm năng của hiệp định thương mại tự do EVFTA lên xuất khẩu rau củ Việt Nam.
Nhóm tác giả chọn năm 2018 làm năm gốc nghiên cứu và đặt ra giả định rằng mức thuế
quan của các dòng hàng thuộc mã HS 07 sẽ được giảm về 0% ngay lập tức dưới các cam
kết của EVFTA.
Theo các giả định đặt ra, kết quả của bài viết cho thấy, EVFTA sẽ có tác động tích
cực lên xuất khẩu mặt hàng rau củ của Việt Nam. Tuy rằng, mức tăng trưởng được ước
lượng bởi mơ hình khơng q cao một cách tương đối so với các ngành hàng khác, nhưng,
phần lớn các dòng hàng thuộc mã HS 07 sẽ có tăng trưởng trong kim ngạch xuất khẩu. Các
loại rau củ đã qua sơ chế (từ 0710 đến 0714) sẽ có mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
lớn hơn tương đối so với các loại rau củ tươi và đông lạnh (0701 đến 0709), đây là kết quả
của cấu trúc xuất khẩu của Việt Nam, cũng như các vấn đề doanh nghiệp Việt Nam gặp
phải về kỹ thuật bảo quản vận chuyển rau củ tươi. Hơn nữa, nhìn vào dịng HS 6 số, có thể
thấy mức tăng trưởng khơng được phân bố đồng đều, khi có các dịng hàng có mức tăng
trưởng lên đến 40% - 50% nhưng các dịng hàng khác tăng trưởng 5% - 10%.
Tuy vậy, nhóm tác giả cũng nhận thấy những mặt hạn chế trong nghiên cứu, đặc
biệt là những hạn chế về mặt phương pháp nghiên cứu. Giả định SMART tuy rằng là một
công cụ rất hữu ích trong việc đánh giá các tác động của FTAs đến kim ngạch của các
540



dịng hàng, nhưng SMART lại khơng tính đến tính hiệu quả và đưa ra được các vấn đề
liên quan đến tạo dựng thương mại (mở rộng mặt hàng xuất khẩu) khi thuế quan được bãi
bỏ. Vì vậy, nhóm tác giả mong muốn trong tương lai, sẽ sử dụng các công cụ định lượng
khác để đưa ra được một cái nhìn toàn diện về tác động của EVFTA lên nhập khẩu của
Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abrams, R.K., 1980. International trade flows under flexible exchange rates. Economic
Review, 65(3), pp.3-10.
2. Aitken, N. D. (1973). The effect of the EEC and EFTA on European trade: A temporal
cross-section analysis. The American Economic Review, 63(5), 881-892.
3. Anderson, P.L., McLellan, R.D., Overton, J.P. and Wolfram, G.L., 1997. Price
elasticity of demand. McKinac Center for Public Policy. Accessed October, 13,
p.2010.
4. Anh, T. T., & Ngoc, L. M. (2011). An assessment of the potential economic impacts of
RCEP on Vietnam automobile sector1. The. World, 2013.
5. Baier, S. L., & Bergstrand, J. H. (2007). Do free trade agreements actually increase
members' international trade?. Journal of international Economics, 71(1), 72-95.
6. Board, S (2009). Partial equilibrium: Positive analysis, UCLA Economics. Availbale
at: />7. Brada, J. C., & Mendez, J. A. (1985). Economic integration among developed,
developing and centrally planned economies: A comparative analysis. The Review of
Economics and Statistics, 549-556.
8. Hertel, T., Hummels, D., Ivanic, M., & Keeney, R. (2007). How confident can we be
of CGE-based assessments of Free Trade Agreements?. Economic Modelling, 24(4),
611-635.
9. Itakura, K., & Lee, H. (2019). Estimating the Effects of the CPTPP and RCEP in a
General Equilibrium Framework with Global Value Chains.
10. Kapuscinski, C. A., & Warr, P. G. (1999). Estimation of Armington elasticities: an
application to the Philippines. Economic Modelling, 16(2), 257-278.

11. Khan, M. A., Zada, N., & Mukhopadhyay, K. (2018). Economic implications of the
Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership (CPTPP) on
Pakistan: a CGE approach. Journal of Economic Structures, 7(1), 2.
12. Kumar, S., & Ahmed, S. (2014). Impact of sensitive lists under SAFTA: Quantitative
assessment using a partial equilibrium modeling. European Journal of Globalization
and Development Research, 10(1).
13. Lee, H., & Itakura, K. (2014). TPP, RCEP, and Japan’s agricultural policy reforms.
OSIPP DiscussionPaper, Osaka School of International Public Policy, Osaka.
14. Li, Q. (2014, August). Analyzing Effects of RCEP on Foreign Direct Investment in a
Firm Heterogeneity CGE Framework. In CGE Workshop, Melbourne, Australia.

541


15. Li, Q., Scollay, R., & Gilbert, J. (2017). Analyzing the effects of the Regional
Comprehensive Economic Partnership on FDI in a CGE framework with firm
heterogeneity. Economic Modelling, 67, 409-420.
16. Llano, C., Pérez, J., Steinberg, F., & Hewings, G. J. (2019). Global and regional
effects of the US tariffs on iron, steel and aluminium: A SMART combination of
models with a focus on Spain. Regional Science Policy & Practice, 11(3), 525-547.
17. Lu, S. (2018). Evaluation of the Potential Impact of CPTPP and EVFTA on Vietnam's
Apparel Exports: Are We Over-optimistic about Vietnam's Export Potential?.
18. Othieno, L., & Shinyekwa, I. (2011). Trade, revenue and welfare effects of the East
African Community Customs Union Principle of Asymmetry on Uganda: an
application of Wits-Smart simulation model (No. 677-2016-46674).
19. Sarris, A., 1984. World Trade in Fruits and Vegetables: Projections for an Enlarged
European Community (No. 202). US Department of Agriculture, Economic Research
Service.
20. Tinbergen, Jan J. (1962) "Shaping the world economy; suggestions for an international
economic policy."

21. Trung tâm WTO và hội nhập 2019, Tổng hợp các FTA của Việt Nam tính đến tháng
7/2019, Phịng thương mại và cơng nghiệp Việt Nam-VCCI, Truy cập tại
/>22. Tu, T. A., Ngoc, L. M., & Hương, N. Q. (2017). An Assessment of the Potential
Economic Impacts of RCEP on Vietnam Automobile Sector. SECO/WTI Academic
Cooperation Project Working Paper Series, 5.

542



×