Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Tài liệu CÔNG BẰNG XÃ HỘI CÁC NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.93 KB, 7 trang )

CÔNG BẰNG XÃ HỘI CÁC
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ảnh hướng sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông
Âu trước những thiếu thốn, khó khăn, những ngổn ngang, bề bộn của một đất nước vừa
mới ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hôị kéo dài một bộ phận nhân dân còn ăn chưa
đủ no, mặc chưa đủ ấm, rất nhiều tiêu cực xã hội còn hành hoành; loá mắt trước những
thành tựu kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa, một số người hoài nghi và đã vội la lên
rằng chủ nghĩa tư bản mới là con đường, là phương tiện để thực hiện lý tưởng của chủ
nghĩa xã hội hiện thực - một xã hội giầu mạnh, công bằng văn minh.
Có thật thế không? Lẽ nào những kết luận của họ khi quan sát chủ nghía tư bản là
đúng đắn? Thật không đơn giản chút nào và đáng tiếc là, đối với những người quá ngưỡng
mộ chủ nghĩa tư bản thì thực tế lịch sử hơn 80 năm qua của các nước đi theo con đường
chủ nghĩa xã hội, theo họ lại chưa đủ để biện minh. Thực tiễn hiện nay, đúng là các nước tư
bản đang phát triển vượt bậc về kinh tế và có những cố gắng để giả quyết những vấn đề xã
hội. Nhà nước đã điều tiết thu nhập, tạo việc làm, trợ cấp thất nghiệp ở một mức độ nào đó
để giảm nhiệt độ những điểm nóng, những phản ứng, bất bình đẳng trong xã hội, mục đích
quan trọng nhất đó là giảm bớt mâu thuẫn gay gắt cơ bản giữa lực lượng sản xuất ngày
càng phát triển và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng cũ rích, lạc hậu. Tuy nhiên,
dù sao ta hãy xét thật khách quan để xem xét vấn đề công bằng xã hội, thực tế có đúng là
các nước tư bản chủ nghĩa cũng đang phấn đấu cho nmục tiêu công bằng xã hội hay
không ?
Theo từ điển bách khoa Việt Nam, công bằng xã hội, đó là khái niệm về ý thức đạo
đức và ý thức pháp quyền, chỉ điều chính đáng, tương ứng với bản chất và quyền con người
khái niệm công bằng nêu ra sự tương quan giữa một số hiện tượng theo quan điểm phân
phối phúc và hoạ, lợi và hại giữa người và người. Công bằng đòi hỏi sự tương xứng giữa
vai trò của các các nhân (những giai cấp) với địa vị xã hội của họ, giữa hành vi với sự đền
bù, lao động và thù lao, công và tội, thưởng và phạt, giữa quyền với nghĩa vụ. Tất yếu,
không có sự tương xứng trong quan hệ ấy là bất công.
Tuy nhiên, nội dung của công bằng thay đổi và ngày một mở rộng phạm vi trong lịch
sử, tuỳ theo hoàn cảnh kinh tế, xã hội nhất định. Ta hãy trở lại với thời kỳ cổ đại, người Hy
Lạp cổ đại cho rằng chế độ nô lệ là công bằng, ý thức công bằng của cả giai cấp tư sản


đang lên đòi phải thủ tiêu chế độ phong kiến; quần chúng lao động từ thế kỷ XVIII đã thấy
sự bóc lột kinh tế tư bản chủ nghĩa là bất công. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, công bằng
xã hội gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động, tiêu chuẩn chủ yếu quyết định
phẩm giá địa vị xã hội, quyền hưởng dụng các phúc lợi xã hội. Hay có thể nói, trong xã hội
này, lấy sự phát triển hoàn thiện của con người làm trung tâm và là tiền đề quan trọng nhất
để phát triển xã hội loài người. Quan hệ giữa người với người trong xã hội đúng với khái
niệm quyền bình đẳng, công bằng xã hội chỉ có thể thực hiện trong xã hội cộng sản chủ
nghĩa mà chủ nghĩa xã hội là hình thức đầu tiên của nó.
Như vậy, công bằng xã hội trái ngược hoàn toàn với áp bức bất công. Công bằng xã hội
chính là khát vọng vươn tới của con người. Trong các xã hội có các giai cấp đối kháng,
công bằng xã hội bao giờ cũng là nguyện vọng của quần chúng nhân dân lao động. Có thể
nói lịch sử xã hội loài người là lịch sử những cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân lao
động nhằm xóa bỏ chế độ áp bức bất công của chế độ đương thời hay nói cách khác là xoá
bỏ quan hệ sản xuất ngày càng lạc hậu với những luật lệ hà khắc là nguyên nhân sinh ra sự
bất công xã hội. Do vậy, mục đích của cuộc đấu tranh là xoá bỏ chế độ xã hội đương thời
không còn phù hợp với hy vọng xây dựng một xã hội công bằng hơn.
Công bằng xã hội là một khái niệm mang tính lịch sử, tuỳ khả năng thực hiện của
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định mà thoả mãn một cách hợp lý những nhu cầu của
các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá nhân. Và khi công bằng xã hội được đảm bảo
nó lại tác động trở lại làm nâng cao hơn các điều kiện kinh tế, xã hội. Công bằng xã hội
cũng chính là điều kiện để phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, không phải bao giờ tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội cũng là điều
kiện, là cơ sở cho sự phát triển của nhau. Trong thực tế, nhất là trong nền kinh tế thị trường
hiện nay, giữa chúng lại thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, thậm chí những cuộc xung đột
gay gây nên sự kìm hãm, cản trở nhau khiến cho cả kinh tế và xã hội đều không thể phát
triển và ổn định được. Bởi vậy, muốn cho nền kinh tế xã hội phát triển ổn định thì mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội phải thường xuyên được kết hợp một
cách hợp lý, thống nhất. Đi tìm thống nhất hợp lý, đó chính là đi tìm đáp số của một bài
toán khó nhất mà tất cả các nước có nền kinh tế thị trường hiện nay phaỉ quan tâm. Lịch sử
phát triển nền kinh tế thị trường thế giới đã chứng minh điều đó.

Trở lại với thời kỳ các nước tư bản phương Tây phát triển nền kinh tế thị trường tự
do kéo dài từ thế kỷ XVII cho đến đầu thể kỷ XX. Tư tưởng tự do kinh tế được thể hiện
trong tác phẩm: Nghiên cứu về nguyên nhân và bản chất sự giàu có của các dân tộc - A.
Smith. Ông cho rằng, trước sự kìm hãm của chế độ phong kiến lạc hậu, nền kinh tế không
thể phát triển mạnh nếu chỉ với hình thức sản xuất tự cung tự cấp hay buôn bán với tính
chất giản đơn, chịu sự tác động nặng nề của luật lệ hà khắc, cổ hủ của chế độ phong kiến
đương thời, mà phải được tiến hành tự do, không có sự can thiệp của Nhà nước, cứ để cho:
“bàn tay vô hình” của thị trường tự điều tiết, quan hệ giữa người với người chỉ là quan hệ
lợi ích. So với những xã hội bất công tàn bạo trước chủ nghĩa tư bản như xã hội nô lệ, chế
độ phong kiến nơi mà con người còn không có cả quyền tự do thẩn thể chứ chư nói đến tự
do hoạt động lao động sản xuất thì tư tưởng tự do kinh tế thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản
đã đạt được những kỳ tích trong kinh tế, khoa học và công nghệ vượt xa các xã hội trước
đó. Tuy nhiên, “bàn tay vô hình” ngày càng bộc lộ rõ những khiếm khuyết cố hữu cơ bản,
ngày càng tạo ra trong xã hội những mâu thuẩn gay gắt mà không thể khắc phục nổi. Thật
vậy, do chạy theo lợi nhuận một cách điên cuồng trong thị trường tự do cạnh tranh, nên xã
hội đã diễn ra quá trình phân hoá, từ sàng lọc tự nhiên theo nguyên tắc giỏi thắng, kém thua
đến chỗ cá lớn nuốt cá bé, lừa đảo, chụp giật, tiêu diệt nhau để giành lấy vị trí độc quyền.
Để đạt được siêu lợi nhuân, các Công ty độc quyền ngày càng bóc lột sức lao động của
công nhân, Công ty bị ph á sản đã phải sa thải công nhân dẫn đến sự thất nghiệp ngày càng
tăng dẫn đến sự bần cùng hoá, tệ nạn xã hội từ đó xuất hiện ngày càng đông. Do vậy sự bất
công bình đẳng trong xã hội ngày càng sâu sắc dẫn đến bùng nổ những cuộc chiến tranh
lạnh cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Từ bối cảnh hiện thực xã hội, học thuyết Mác - Lênin ra đời lại được kiểm nghiệm
trên thực tế bằng sự thắng lợi vang dội cả thế giới của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vĩ
đại, đã đập tan chính quyền của giai cấp tư sản, nước Nga trở thành nhà nước xã hội chủ
nghãi đầu tiên trên thế giới. Sự kiện đó đã đi vào lịch sử nhân loại, là bước ngoặt của xã
hội, làm thức tỉnh nhân loại hướng tới một xã hội công bằng, bình đẳng hơn chủ nghĩa tư
bản. Đó là chủ nghĩa xã hội.
TRước tình hình biến đổi và hình thành hai cực trong xã hội, các nước tư bản không
còn cách lựa chọn nào khác là phải tự điều chỉnh một bước, chuyển từ nên kinh tế thị

trường tự do sang phát triển nền kinh tế thị trường bằng sự can thiệp vào thị trường, điều
tiết thị trường để giảm bớt sự độc quyền trong cạnh tranh, đồng thời Nhà nước cũng có
điều chỉnh, quan tâm đến sự giải quyết các vấn đề xã hội. Có thể nói, người đặt nền móng
cho sự chuyển biến này là J.Keynes với “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”
được xuất bản năm 1936. Lý thuyết của J.Keynes lúc này, được chủ nghĩa tư bản coi như
một đơn thuốc hữu hiệu nhất cho căn bệnh tưởng như vô phương cứu chữa của nền kinh tế
thị trường tự do tư bản chủ nghĩa.
Thật vậy, trong thời kỳ cực kỳ biến động này, lý thuyết của J.Keynes đóng vai trò
cực kỳ quan trọng trong việc ổn định tình hình biến động nguy khốn về kinh tế và chính trị.
Có thể nói, “bàn tay vô hình” của A.Smith đã làm cho nền kinh tế thế giới tư bản liên tiếp
rơi vào cuộc khủng hoảng toàn cầu theo chu kỳ mà tốc độ của nó càng ngày càng lớn hơn
và dữ tợn hơn. Số lượng công nhân thất nghiệp ngày càng tăng sự bần cung hóa ngày càng
sâu sắc, chủ nghĩa tư bản ngày càng “thoi thóp” và “chờ chết”. Nhờ phương thuốc hữu hiệu
của J.Keynes là xác định vai trò quan trọng của Nhà nước và sự can thiệp của Nhà nước đã
giúp cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa gượng được và phục hồi nhanh chóng. Tuy nhiên,
tuỳ điều kiện cụ thể của từng nước, đã xuất hiện những mô hình kinh tế thị trường, cũng
như mức độ can thiệp của Nhà nước vào đảm bảo xã hội và giảm bất công xã hội. Cụ thể,
nền kinh tế thị trường hỗn hợp kiểu Mỹ (Mỹ, Anh, Canada...) kết hợp vai trò của Nhà nước
với cơ chế thị trường, chủ trương “Kinh doanh vì mục đích tiêu dùng”, tạo ra một xã hội
tiêu dùng, Nhà nước bảo vệ quyền lợi và tăng thu nhập cho người tiêu dùng bằng cách thực
hiện các chương trình phúc lợi và việc làm, giảm hàng hoá tiêu dùng.... nhờ vậy, mâu thuẫn
xã hội đã có phần bớt căng thẳng hơn và chủ nghĩa tư bản nhờ thế cũng thu được nhiều lợi
nhuận hơn.
Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường xã hội kiểu Đức (áo, Hà Lan...) với mục tiêu
“không phải là nền kinh tế thị trường tự do tư nhân, mà là nền kinh tế thị trường có định
hướng xã hội”, Nhà nước có chức năng làm dịu các mâu thuẫn xã hội như: phân phối lại
thu nhập quốc dân, ủng hộ các Xí nghiệp vừa và nhỏ, phi vô sản hoá giai cấp công nhân
bằng cách mở rộng các hình thức sử hữu cổ phần, sự chuyển biến tích cực phần nào làm
cho công bằng xã hội tiến triển hơn.
Nền kinh tế thị trường xã hội phúc lợi kiểu Thuỵ Điển (Na Uy, Thuỵ Điển, Đan

Mạch...) mặc dù về nguyên tắc vẫn là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nhưng việc phân
phối kết quả sản xuất lại hướng vào thi hành chế độ phúc lợi cao, thu hẹp khoảng các tiền
lương đến gần như bình quân, tạo ra được không khí lao động hăng say trong quần chúng
nhân dân nên chỉ trong một thời gian ngắn, Thuỵ Điển từ một nước nghèo nhất Châu Âu đã
trở thành nước giàu có nhất. Tuy việc, việc thi hành chế độ phúc lợi cao theo tư tưởng
“không tưởng” của Đảng xã hội dân chủ Thuỵ Điển, đồng thời công bằng với bình quân
trong khi nền kinh tế xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu, đã gây ra phản ứng gay gắt trong
giới chủ kinh doanh, làm tiêu tan dần động lực phát triển kinh tế, buộc các nước đi theo mô
hình này phải điều chỉnh theo hướng khác có lợi hơn cho kinh tế tư nhân.
Phương hướng đi tìm những mô hình mới để có thể đạt được sự ổn định xã hội
đương nhiên đâu phải do thiện chí của những nhà cầm quyền ở các nước tư bản, mà chính
là do áp lực đấu tranh của quần chúng chống lại sự bất công và cũng chính là do nếu không
ổn định được xã hội thì không thể tiếp tục phát triển kinh tế đem lại lợi nhuận cho giai cấp
tư sản cũng như cho Nhà nước bảo trợ giai cấp ấy.
Đối với chế độ tư bản chủ nghĩa, công bằng xã hội đâu phải là mục tiêu, mà chỉ là
phương tiện bắt buộc họ sử dụng để đạt được mục tiêu khác, đó là lợi nhuận. Chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới phấn đấu cho mục tiêu công bằng xã hội và công bằng xã hội chỉ là mục
tiêu riêng của chủ nghĩa xã hội mà thôi. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, sau sự sụp đổ của mô
hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, cuộc khủng hoảng về kinh tế cho
phương thức quản lý phân phối bình quân theo đầu người (đồng nhất công bằng với bình
quân đầu người) ở Liên Xô và nước ta, nhiều người đã hoài nghi về học thuyết Mác - Lênin
và không khỏi tự hỏi “Chủ nghĩa xã hội có những tiến bộ hơn chủ nghĩa tư bản về công
bằng xã hội được thể hiện ở điều đó chăng”. Chắc chắn là không, tất cả sự sụp đổ của mô
hình ở Liên Xô, Đông Âu và khủng hoảng kinh tế (đúng hơn là chậm phát triển có xu thế
thụt lùi) ở Việt Nam hoàn toàn gánh chịu những sai lầm trong quản lý Nhà nước của các
nhà lãnh đạo khi áp dụng học thuyết Mác - Lê nin. Sự khác biệt của chủ nghĩa xã hội hay
đúng hơn là sự tiến bộ hơn của chủ nghĩa xã hội là coi con người là chủ thể phát triển của
xã hội, mọi hoạt động trong xã hội đều hướng tới vì hạnh phúc của con người. Còn chủ
nghĩa tư bản ngày nay thì sự quan tâm đến con người đâu phải là vì con người mà vì con
người là một yếu tố sinh lợi, đặc biệt là trong thời đại ngày nay, chất xám chiếm tỷ trọng

ngày càng cao trong giá trị hàng hoá, cũng như lợi nhuận của nhà tư bản. Cái khác nhau chỉ
là sự đảo ngược mục tiêu và phương tiện, chủ thể và khách thể trong sắp đặt vị trí của con
người mà bản chất của hai chế độ hoàn toàn khác nhau. Đối với chủ nghĩa tư bản, việc đảm
bảo công bằng xã hội là kế sách, là phương tiện cho mục tiêu khác nên trong chủ nghĩa tư
bản nó thường được thực hiện một cách bị động, và Ngân sách của nó luôn có nguy cơ
chuyển sang các hoạt động khác như chi phí tăng thêm cho quân sự, bị các quan chức
chiếm đoạt, do đó sự phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc, cùng với sự giàu lên nhanh
chóng của một lớp người trong một quốc gia, sự bần cùng hoá số đông lớp người nghèo
dưới xã hội. Sự tập trung hoá ngày càng gia tăng của tư bản Công ty làm tăng thêm sự bất
bình đẳng và trong khi cơ cấu xã hội bị tàn phá, nó cũng gây tác động nguy hại lên tất cả
nhân loại. Sự tăng trưởng sức mạnh không gì kiểm soát nổi của các Công ty độc quyền là
nguyên nhân kinh tế ngày càng gây nhiều lo ngại cho các nước tư bản. Thật vậy, ta có thể
đưa ra một dẫn chứng ở một nước tư bản mà nền kinh tế, chính trị hùng mạnh nhất thế giới
về công bằng xã hội được thực hiện như thế nào.
Như đã phân tích về xu thế chung của chủ nghĩa tư bản, Mỹ là một nước điển hình
cho hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại. Thế nhưng ở đây, người lao động,
không nói là không có công bằng xã hội giữa người với người, không được hưởng sự công
bằng về xã hội: mức sống, thu nhập, quyền tự do sinh hoạt. ở đây, cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế của một siều cường, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc,
số người giàu ngày càng giàu có, số người nghèo đi, thất nghiệp ngày càng tăng lên. Năm
1964, tỷ lệ tiền lương, tiền công trong thu nhập quốc dân giảm 10%, trong khi tỷ lệ lãi suất
từ tư bản lại tăng gấp đôi. Năm 1983, khi nền kinh tế suy thoái thì tổng lợi nhuận ròng của
400 người giàu có nhất nước Mỹ tăng vọt 28%. Số người thất nghiệp trên 16%. Nạn thất
nghiệp trong thanh niên da đen trên 40% hơn 60% những công nhân được hỏi qua điều tra,
tiền công không đủ duy trì mức sống xứng đáng, 30% sống dưới mức nghèo khổ. Theo
thống kế của sở lao động Mỹ thì dân số sống dưới mức nghèo đói tăng từ 24 triệu người
năm 1977 tăng 35 triệu năm 1986 và hiện nay con số này còn tăng nữa. Cứ 4 người Mỹ thì
có 1 người phải ở trong điều kiện dưới dưới mức không thể chấp nhận được. Hơn thế nữa,
ở Mỹ hiện nay: “vấn đề chủng tộc và sự giàu nghèo ngày càng sâu sắc”. Sự tha hoá trong
lao động, sự tha hoá trong toàn bộ đời sống xã hội của con người đang diễn ra mạnh mẽ.

Không ít học giả tư sản đã lên án tình trạng này. Bên cạnh đó, ở Mỹ, tình trạng kiện tụng
tràn lan, tội ác và bạo lực lan tràn trở thành, sự ồ ạt ngày càng nhiều của tệ nạn ma tuý, tình
trạng quá nhiều giấy phép mại dâm khiến cho mại dâm trở thành lối sống bao trùm đang đe
doạ cơ sở gia đình. Sự truyền bá ồ ạt đồi truỵ tinh thần dưới chiêu bài giải trí, thực tế nó
khuyến khích tình dục và bạo lực. Tình trạng lan tràn tâm lý tuyệt vọng trong xã hội, điều
này trở thành cách nhìn bình thường không chỉ của những người nghèo, những người vô
gia cư và đặc biệt là của nhiều người da đen ở thành thị. Nước Mỹ là nước có tỷ lệ giết
người cao nhất so với bất kỳ một nước văn minh nào trên thế giới. Mỗi năm có từ 23 nghìn
đến 24 nghìn vụ giết người. Trong những năm hiện nay số vụ tự tử của thanh niên tăng
300% so với năm 1950. Hàng năm, nói chung có từ 25 nghìn đến 27 nghìn người Mỹ tự kết
liễu đời mình. Do vậy, ngay cả trong điều kiện chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay vẫn
đang tồn tại sự bất công trong xã hội.
Đối với chế độ chủ nghĩa, công bằng xã hội là mục tiêu, là bản chất của xã hội không
có nghĩa là cứ đi theo con đường xã hội chủ nghĩa thì đương nhiên là có công bằng xã hội.
Công bằng trong chủ nghĩa xã hội không phải là thứ công bằng lạnh lùng, không tình nghĩa
của nền kinh tế thị trường tự do, cũng không phải công bằng kiểu Nhà nước phúc lợi không
tưởng của xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế còn nghèo, việc
xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, tức là thừa nhận còn tồn tại các thành phân
kinh tế khác ngoài kinh tế quốc doanh là chủ trương đúng đắn. Tuy nhiên cũng vì thế, sẽ
vẫn còn những hiện tượng chưa công bằng. Soi tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào
thực tiễn hiện nay, các nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa (Việt Nam ta) mới đang trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì chúng ta không nên phủ nhận sạch trơn những văn
minh, tinh hoa, thành tựu khoa học kỹ thuật trong tư bản chủ nghĩa mà chúng ta phải tiếp
thu những tinh hoa đó của nhân loại. Do vậy, chủ trương đưa nền kinh tế theo kiểu kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần dưới sự quản lý của Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn. Tuy
nhiên, chấp nhận nền kinh tế thị trường tự do tức là chấp nhận sự chưa xoá bỏ hết những
bất công trong xã hội. Chẳng hạn phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối của chủ
nghĩa xã hội để đảm bảo công bằng xã hội, nhưng trong thời kỳ quá độ vẫn còn phải chấp
nhận các kiểu phân khác như phân phối theo vốn, theo tài sản... Điều quan trọng khó khăn,
cấp bách đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay là vừa làm sao tăng trưởng được kinh

tế, vừa đảm bảo công bằng xã hội, làm sao cho nguyên tắc phân phối theo lao động chiếm
ưu thế, Nhà nước phải đảm bảo quyền thu nhập chính đáng bằng lao động, đồng thời vừa
chấp nhận vừa điều tiết dần dần những thu nhập không phải do lao động như lợi tức, địa tô,
ngăn cản những thu nhập bất chính để không gây ra những bất công quá mức. Trong thực
tế chưa phải những nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa đều đã giải quyết ngay những
khó khăn trên. Ta có thể đưa ra một dẫn chứng, Trung Quốc là một nước hội tụ đầy đủ
những tinh hoa của nhân loại và đang xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa
tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa khắc phục được tình trạng bất công bằng trong xã hội, nguyên
nhân chính có thể do nền kinh tế phát triển quá nóng, tập trung cao cho phát triển kinh tế:
“hiện đại hoá”, “nhảy vọt”, chưa chú ý đúng mức đến các vấn đề xã hội. Theo tư liệu của
Uỷ ban kế hoạch Nhà nước Trung Quốc thì hiện tượng phân tầng xã hội, phân hoá giàu
nghèo đã đến mức báo động. Hiện nay, Trung Quốc có khoảng 4 triệu người giàu và vẫn có
70 triệu người sống dưới mức nghèo khổ, khoảng 2% số người giàu nhất thế giới đã chiếm
30% tổng thu nhập của toàn bộ dân cư. 80% số người giàu là do làm giàu bất chính. Hiện
nay Trung Quốc đang phải tập trung nhiều giải pháp để khắc phục những hiện tượng bất
bình đẳng trong xã hội.
ở Việt Nam ta, trong thời kỳ quá độ chập chững đi lên xã hội chúng ta đã mắc phải
một sai lầm cơ bản: đã chồng chất công bằng xã hội với bình quân, chúng ta đã quá say sưa
với mục tiêu công bằng xã hội trong khi nền kinh tế còn nghèo, lý thuyết quản lý kinh tế -
chính trị xã hội xa rời thực tiễn, cơ chế quan liêu bao cấp làm nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội
dẫn đền Ngân sách quốc gia thâm hụt làm cho đời sống xã hội của người dân ngày càng
khó khăn, đưa đất nước vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo đã đưa đất nước ta đi lên xây
dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng văn minh”. Chỉ mới 10 năm đổi mới, chúng ta đã đạt tốc độ bình quân tăng
trưởng kinh tế cao và liên tục (GDP bình quân tăng 8% /năm) kinh tế phát triển không
ngừng nên xã hội có điều kiện bảo đảm đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho nhân dân
ngày một tốt hơn. Hàng năm số người giàu tăng lên 3 - 5%, tỷ lệ người nghèo tuyệt đối
cũng giảm 3-5%. Ngày nay, chính sách kinh tế, chính trị, văn hoá... ngày càng được thay

đổi phù hợp với sinh hoạt đời sống của nhân dân tạo điều kiện cho người dân tự nâng cao
mức sống của mình. Những chính sách xoá đói giảm nghèo ngày càng sâu đến mọi người
dân vùng sâu, vùng xa, giúp cho người dân có điều kiện sinh hoạt tốt hơn, do đó, có thể
nói, tỷ lệ người nghèo giảm đi rõ rệt, số người giàu tăng lên nhanh chóng làm cho đời sống
xã hội ngày một ổn định.
Tuy nhiên, chúng ta còn đang trong thời kỳ nền kinh tế thị trường chưa định hình rõ,
cơ chế thị trường chưa thành thục, nên bộc lộ không ít những nhược điểm có ảnh hưởng
xấu đến việc đảm bảo công bằng xã hội. Nguyên nhân do quản lý kém, nên mức độ tiết
kiệm để tích luỹ vốn trong nội bộ nền kinh tế còn thấp, gây lãng phí nhiều. Mặt khác, để có
vốn đầu tư phát triển, ta phải vay khá nhiều vốn của nước ngoài do đó trong một mức độ
nào đó, vay vốn nước ngoài mà không đủ vốn trong nước để đối ứng thì tăng trưởng kinh
tế sẽ không ổn định. Hơn nữa, việc sử dụng vốn vay kém hiệu quả sẽ lâm vào tình trạng nợ
nần, đó là một nguy cơ đe doạ sự tăng trưởng kinh tế.
Hiện tượng phân tầng xã hội ngày càng tăng, mặc dù về so sánh tuyệt đối thì người
nghèo đã bớt nghèo hơn trước nhưng mức chênh lệch giàu nghèo càng lớn, nếu không được
giải quyết kịp thời sẽ dẫn đến sự bất bình trong dân chúng. ở nông thôn mức chênh lệch
giàu nghèo theo thống kê từ năm 1976 - 1980 cách nhau 3 - 4lần, thời kỳ 1981 - 1989 là 5 -
6 lần, 1990 - 1994 là 15 - 20 lần.
Thêm vào đó, là tình trạng thất nghiệp vẫn còn cao, môi trường đang bị tàn phá, các

×