Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ từ thực tiễn địa bàn thành phố vinh – nghệ an doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.01 KB, 69 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động giao thơng nói chung và giao thơng vận tải đường bộ nói
riêng chiếm giữ một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Nó đáp ứng
được yêu cầu đi lại; sản xuất, trao đổi, lưu thơng hàng hóa, sản phảm xã hội
ở các khu vực khác nhau; tăng cường sức mạnh quốc phòng, cũng cố an
ninh đất nước; tạo các mối liên hệ giữa các vùng miền, địa phương phản
ánh trình độ phát triển của xã hội thơng qua các phương tiện giao thơng.
Nhưng bên cạnh những lợi ích do hoạt động giao thơng mang lại thì hoạt
động giao thông đường bộ luôn chứa đựng mối nguy hiểm, gây thiệt hại
khơng nhỏ về tài sản, thậm chí là tính mạng con người.
Trước tình hình trên, cơng tác đảm bảo trật tự an tồn giao thơng nói
chung, trong đó có GTĐB giữ vai trò hết sức quan trọng. Trên thực tế, Nhà
nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt VPHC
trong lĩnh vực GTĐB, mà tiêu biểu nhất là Pháp lệnh xử lí VPHC năm
2002 (được sửa đổi bổ, sung năm 2007, 2008); các nghị định về xử phạt
VPHC trong lĩnh vực GTĐB của Chính phủ

như: Nghị định số

146/2007/NĐ-CP ngày 14/9/2007 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC
trong lĩnh vực GTĐB, Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 của
Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB…Trong quá trình
áp dụng pháp luật để xử lí VPHC trong lĩnh vực GTĐB, các cơ quan chức
năng đã đạt được nhiều kết quả khả quan, tác động tính cực như: bảo đảm
trật tự an tồn giao thơng, bảo vệ tính mạng sức khỏe cho người dân. Tuy
nhiên, tình trạng vi phạm giao thơng vẫn thường xun xẩy ra. Một yêu
cầu đặt ra là phải có những biện pháp hạn chế VPHC, lập lại trật tự an tồn
GTĐB. Đặc biệt trong đó việc hồn thiện pháp luật xử lí VPHC trong lĩnh
vực GTĐB là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả


1


cơng tác đấu tranh phịng, chống vi phạm pháp luật GTĐB nói riêng và vi
phạm pháp luật nói chung vì nó là cơ sở để tạo ra những ứng xử chuẩn
mực, khuôn mẫu đúng đắn trong việc tham gia GTĐB của người dân.
Thành phố Vinh (TP Vinh) là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa
của tỉnh Nghệ An. Trên địa bàn có nhiều tuyến đường quốc lộ chạy qua như
quốc lộ 1A, 15A… và mạng lưới giao thông đô thị dày đặc. Do vậy công
tác xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực an tồn giao thơng nhằm đảm
bảo an tồn giao thơng trên địa bàn TP Vinh là đòi hỏi cấp thiết đối với các
cơ quan chức năng
Là sinh viên năm cuối của Khoa Luật,Trường Đại học Vinh, qua thực
tế học tập, nghiên cứu pháp luật về xử lí VPHC trong lĩnh vực GTĐB và
nghiên cứu thực tiễn tại địa phương mình, em chọn đề tài “Pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ - từ thực
tiễn địa bàn Thành phố Vinh – Nghệ An “ cho khóa luận tốt nghiệp của
mình để được tìm hiểu rõ và nhận thức đầy đủ về pháp luật xử phạt VPHC
trong lĩnh vực GTĐB. Qua đó đánh giá những thành tựu, phân tích những
bất cập và nguyên nhân trên cơ sở đó mong được nói lên những suy nghĩ và
góp phần nhỏ bé của mình trong việc khắc phục những hạn chế, kiến nghị
những phương hướng và các giải pháp xây dựng và hồn thiện pháp luật xử
lí VPHC trong lĩnh vực GTĐB ở địa bàn TP Vinh nói riêng cũng như Việt
nam nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua đã có một số cơng trình khoa học liên quan đến
đề tài nghiên cứu của luận văn, tiêu biểu là:
Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện các quy định pháp luật về
các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính” của tác giả Nguyễn Trọng
Bình, Trường Đại học Luật Hà Nội (2000); Luận văn thạc sỹ luật học

2


“Hoàn thiện chế định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính” của tác giả
Nguyễn Thị Thủy, Trường Đại học Luật Hà Nội (2001); Luận văn thạc sỹ
luật học “Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với người
chưa thành niên” của tác giả Nguyễn Ngọc Bích, Trường Đại học Luật Hà
Nội (2003); Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay - Một số
vấn đề lý luận, thực tiễn và phương hướng hoàn thiện” của tác giả Vũ
Thanh Nhàn, Trường Đại học Luật Hà Nội (2009) nghiên cứu thực trạng
pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thơng đường bộ ở
Việt Nam từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực
này.
Ngồi ra, cịn có các bài viết đăng tải trên Tạp chí luật học như:
“Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính” của tác giả Bùi Thị Đào; “Hệ thống
chế tài xử phạt vi phạm hành chính - Những bất cập, hạn chế và phương
hướng hoàn thiện” của tác giả Bùi Xuân Đức; “Một số vấn đề hoàn thiện
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính” của tác giả Lê Vương Long;
“Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính - Thực trạng quy định, thực tiễn
áp dụng và hướng hồn thiện” của tác giả Trần Minh Hương...
Trong các cơng trình nghiên cứu trên đây, trên cơ sở phân tích lý
luận và thực tiễn có liên quan, các tác giả chỉ giới thiệu, phân tích, đánh giá
về pháp luật và thực tiễn hoạt động xử phạt vi phạm hành chính nói chung ,
vi phạm về an tồn giao thơng trên cả nước hoặc ở một số lĩnh vực quản lý
nhà nước khác chứ chưa đề cập chuyên sâu về vấn đề xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở một địa phương nhất định. Do
vậy, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề này nhằm cung cấp các luận
cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm


3


hành chính trong lĩnh vực giao thơng đường bộ nói chung và nâng cao công
tác xử phạt GTĐB trên địa bàn.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
VPHC và pháp luật xử lí VPHC là những vấn đề có nội dung vô
cùng phong phú và phức tạp, nhất là trong điều kiện xây dựng nền kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế như hiện nay. Trong khuôn khổ hạn chế của
đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số
vấn đề lí luận cơ bản và những nét khái quát về thực trạng pháp luật xử lí
VPHC trong lĩnh vực GTĐB ở Thành phố Vinh – Nghệ An hiện nay, từ đó
đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
4. Mục đích, nhiệm vụ của nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài “pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đương bộ - từ thực tiễn địa bàn Thành Phố
Vinh – Nghệ An” là nhằm làm sáng tỏ một số vấn để lí luận, phân tích thực
trạng pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng PL trên địa bàn TP Vinh, từ đó
đưa ra một số phương hướng và giải pháp hồn thiện pháp luật xử lí VPHC
trong lĩnh vực GTĐB ở TP Vinh – Nghệ An hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, khóa luận phải hồn thành các nhiệm vụ:
- Làm rõ một số vấn đề lí luận cơ bản về pháp luật xử phạt VPHC
trong lĩnh vực GTĐB như: khái niệm VPHC; đặc điểm của VPHC trong
lĩnh vực GTĐB; xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB;
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật xử phạt VPHC
trong lĩnh vực GTĐB hiện nay, những bất cập và nguyên nhân của những
bất cập đó.
- Đề xuất những kiên nghị về phương hướng và các giải pháp để
nhằm hoan thiện pháp luật xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB ở Thành
phố Vinh – Nghệ An hiện nay.

4


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách, pháp
luật của Đảng, Nhà nước. Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê,…để làm rõ nội
dung và mục đích nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài nghiên cứu nghiêm túc có hệ thống về pháp luật xử phạt
VPHC trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn Thành phố Vinh – Nghệ An hiện
nay. Do vậy kết quả của việc nghiên cứu sẽ đóng góp về mặt khoa học cho
công tác xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn.
Đề tài không những chỉ ra được bất cập, hạn chế trong quy định của
pháp luật mà còn tìm ra được những hạn chế trong thực tiễn thực hiện pháp
luật,đề xuất nhiều giải pháp hồn thiện có thể góp phần nhỏ, đóng góp ý
kiến cho việc nâng cao hiêu quả cơng tác xử phạt, khắc phục và hồn thiện
hệ thống pháp luật về xử lí VPHC trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn Thành
phố Vinh – Nghệ An hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, ngoài phần mở đầu và kết
luận, nội dung của khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về pháp luật xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
Chương 2. Pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thơng đường bộ

5



Chương 3. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thơng đường bộ.

6


Chương 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT XỬ
PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THƠNG
ĐƯỜNG BỘ
1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thơng đường bộ
1.1.1. Định nghĩa vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã hội, đặc
biệt trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh hội nhập
quốc tế như hiện nay. Với số lượng xảy ra đáng kể, mang tính thường
xuyên, vi phạm hành chính đã và đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích
chung của tồn thể cộng đồng và là ngun nhân làm nảy sinh tình trạng
phạm tội nếu khơng được ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Xây dựng định nghĩa vi phạm hành chính có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn quan trọng. Định nghĩa này giúp chúng ta nhận thức được sự khác biệt
giữa vi phạm hành chính với các loại vi phạm pháp luật khác. Trên cơ sở
đó, có thể xác định chính xác các vi phạm hành chính cụ thể, đánh giá đúng
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi nhằm xử lý nghiêm
minh, triệt để, đúng pháp luật loại vi phạm pháp luật này.
Lý luận về nhà nước và pháp luật đã chỉ rõ vi phạm pháp luật là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, có lỗi và chủ thể thực hiện
phải có năng lực trách nhiệm pháp lý . Vi phạm hành chính là một dạng cụ
thể của vi phạm pháp luật nên trước hết chúng mang đầy đủ các dấu hiệu

cơ bản của một vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, vi phạm hành chính cũng
có những nét đặc thù khác biệt với các loại vi phạm pháp luật khác. So với
tội phạm, vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm thấp hơn cho xã hội và
mức độ nguy hiểm này được đánh giá trên cơ sở tổng hợp của nhiều yếu tố
như thiệt hại gây ra, tính chất và mức độ lỗi, nhân thân người vi phạm...
7


Để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của loại vi
phạm hành chính, đặc biệt là xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính
và tội phạm, tạo cơ sở cần thiết để quy định, xử lý cũng như đấu tranh
phịng, chống có hiệu quả loại vi phạm này, việc đưa ra định nghĩa vi phạm
hành chính trong pháp luật thực định thực sự cần thiết cho nhận thức pháp
luật cũng như giúp cho quá trình áp dụng pháp luật để xử lý các vi phạm
hành chính trong thực tế. Do vậy, định nghĩa về vi phạm hành chính cần
phản ánh được những dấu hiệu đặc trưng thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm
cho xã hội của loại vi phạm này đồng thời cũng phải thể hiện được sự khác
biệt giữa chúng với tội phạm.
Vi phạm hành chính được định nghĩa lần đầu tiên trong Pháp lệnh
Xử phạt vi phạm hành chính năm 1989, theo đó “vi phạm hành chính là
hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
các quy tắc quản lý nhà nước mà khơng phải là tội phạm hình sự và theo
quy định của pháp luật phải bị xử lý hành chính”. Pháp lệnh Xử lý vi phạm
hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) không trực tiếp đưa ra
định nghĩa về vi phạm hành chính mà thơng qua quy định về xử phạt vi
phạm hành chính các nhà làm luật đã gián tiếp nêu ra định nghĩa này.
Khoản 2 Điều 1, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002 quy định “xử
phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức
có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý
nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải

bị xử phạt hành chính”.
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, các quan niệm về vi phạm
hành chính nêu trên đều thống nhất về những dấu hiệu bản chất của loại vi
phạm pháp luật này. Những dấu hiệu bản chất này giúp chúng ta đưa ra
định nghĩa chung về vi phạm hành chính, theo đó, vi phạm hành chính là
hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước của cá nhân, tổ chức, có

8


lỗi, không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
vi phạm hành chính.
Trên cơ sở của định nghĩa chung về vi phạm hành chính nêu trên, có
thể định nghĩa vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATGT là hành vi vi
phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn giao thơng
của cá nhân, tổ chức, có lỗi, khơng phải là tội phạm và theo quy định
của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính
Cũng giống như mọi vi phạm pháp luật khác, vi phạm hành chính
được cấu thành bởi bốn yếu tố, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan và
khách thể.
* Mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là tổng hợp các dấu hiệu
bên ngồi của vi phạm hành chính, bao gồm hành vi trái pháp luật, hậu quả
và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cùng một số dấu hiệu
khác như công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm vi phạm.
Vi phạm hành chính trước hết phải là hành vi, được biểu đạt ra bên
ngoài bằng hành động hoặc khơng hành động. Dù biểu hiện bằng hình thức
nào đi chăng nữa, hành vi đó chỉ bị coi là vi phạm hành chính khi nó là
hành vi trái pháp luật hành chính.

Hậu quả của vi phạm hành chính thể hiện ở việc nó đã xâm hại đến
các quy định pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội. Nói cách khác hậu quả của vi phạm hành chính thể
hiện các quan hệ xã hội được pháp luật hành chính xác lập và bảo vệ đã bị
xâm hại.
Hành vi vi phạm hành chính và hậu quả của vi phạm hành chính có
mối quan hệ nhân quả, theo đó, hành vi vi phạm là tiền đề xuất hiện của
hậu quả mà vi phạm này gây ra. Cần lưu ý rằng hậu quả và thiệt hại xảy ra
không đồng nhất với nhau. Mặt khách quan của đa phần các cấu thành vi

9


phạm hành chính khơng bắt buộc phải có dấu hiệu thiệt hại. Trong một số
trường hợp thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc và trường hợp này nhất thiết phải
xác định mối quan hệ giữa hành vi và thiệt hại mà nó gây ra.
Ngồi ra, mặt khách quan của vi phạm hành chính cũng có thể có
một số yếu tố khác như thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện thực hiện
hành vi vi phạm hành chính. Những dấu hiệu này mặc dù không phổ biến
nhưng trong một số trường hợp đây lại là dấu hiệu bắt buộc để xác định
hành vi đó có phải là vi phạm hành chính hay không.
* Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là dấu hiệu bên trong của vi
phạm hành chính, bao gồm các yếu tố lỗi, mục đích và động cơ, trong đó,
lỗi là dấu hiệu cơ bản trong cấu thành của mọi loại vi phạm hành chính. Lỗi
là thái độ tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với
hành vi vi phạm pháp luật của mình và được phân chia thành hai hình thức,
lỗi cố ý và lỗi vơ ý.
Lỗi cố ý trong vi phạm hành chính thể hiện ở chỗ người thực hiện
hành vi vi phạm nhận thức được tính chất hành vi của mình nhưng vẫn thực

hiện hoặc nhận thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc nhưng lại có ý thức
xem thường, mặc dù họ hồn tồn có khả năng xử sự theo đúng nghĩa vụ đó.
Lỗi vơ ý trong vi phạm hành chính thể hiện ở chỗ người thực hiện
hành vi vi phạm không biết và không nhận thức được hành vi của mình là
trái pháp luật, mặc dù cần phải biết và nhận thức được điều đó, hoặc trường
hợp một người thực hiện hành vi trái pháp luật do vơ tình hoặc thiếu thận
trọng mà khơng thực hiện những nghĩa vụ pháp lý bắt buộc dù họ có khả
năng và điều kiện xử sự theo đúng nghĩa vụ đó.
Khi xác định dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan của vi phạm hành
chính, cịn có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề lỗi của tổ chức. Có ý kiến
cho rằng lỗi chỉ là trạng thái tâm lý của cá nhân trong khi thực hiện hành vi
vi phạm nên không đặt ra vấn đề lỗi đối với tổ chức vi phạm hành chính.
Khi xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức, chỉ cần xác định tổ chức
10


đó có hành vi trái pháp luật hành chính và hành vi đó theo quy định của
pháp luật bị xử phạt bằng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính là đủ.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì tổ chức phải chịu trách
nhiệm về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra và có nghĩa vụ chấp
hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, đồng thời có trách nhiệm xác
định lỗi của người thuộc tổ chức của mình trực tiếp gây ra vi phạm hành
chính trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được giao để truy cứu trách
nhiệm kỷ luật và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Mục đích, động cơ trong vi phạm hành chính khơng phải là dấu hiệu
bắt buộc phải có trong mặt chủ quan của mọi vi phạm hành chính. Mục
đích của vi phạm hành chính là cái “đích” trong ý thức của người vi phạm
hành chính, được đặt ra cho hành vi vi phạm đạt tới. Mục đích của vi phạm
hành chính chỉ có ở trong một số hành vi vi phạm hành chính nhất định, và
những trường hợp này đều có hình thức lỗi cố ý. Động cơ vi phạm hành

chính được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người vi phạm thực hiện
hành vi vi phạm hành chính. Trừ những vi phạm hành chính với lỗi cố ý, có
động cơ, mục đích rõ rệt, cịn phần lớn các vi phạm hành chính có động cơ,
mục đích khơng rõ nét. Trong các trường hợp này, vi phạm hành chính chủ
yếu do thiếu thận trọng, vơ tình hay coi nhẹ các nghĩa vụ pháp lý mà vi
phạm ở mức độ nhỏ và trên thực tế thiệt hại khơng đáng kể. Do vậy, động
cơ, mục đích vi phạm hành chính khơng được coi là dấu hiệu bắt buộc
trong cấu thành của phần lớn các vi phạm hành chính.
* Khách thể
Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội được
pháp luật hành chính bảo vệ và bị các vi phạm hành chính xâm hại. Vi
phạm hành chính là đã xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước
được pháp luật hành chính bảo vệ. Vì vậy, khách thể của vi phạm hành
chính là trật tự quản lý nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội như trật tự an tồn giao thơng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, trật tự
11


quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường… được pháp luật quy
định và bảo vệ.
* Chủ thể
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là các tổ chức, cá
nhân có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật
hành chính.
Cá nhân là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm cơng dân Việt Nam
và người nước ngoài (trừ những người được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ
ngoại giao và lãnh sự) mà thực hiện hành vi vi phạm hành chính trên lãnh
thổ Việt Nam, vùng đặc quyền kinh tế, vùng tiếp giáp lãnh hải. Những
người này phải có năng lực trách nhiệm hành chính (tức là khơng mắc các
bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác đến mức mất khả năng nhận thức hoặc

khả năng điều khiển hành vi của mình) và đạt độ tuổi nhất định theo quy
định của pháp luật (từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính
về mọi hành vi vi phạm hành chính, từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải
chịu trách nhiệm hành chính đối với hành vi vi phạm do cố ý).
Chủ thể vi phạm hành chính là tổ chức bao gồm: các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ
trang nhân dân và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân theo quy định của
pháp luật.
Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính
theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà
Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
1.1.3. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thơng
đường bộ
VPHC trong lĩnh vực GTĐB cũng là một lọai VPHC bên cạnh những
đặc điểm chung của một VPHC nói chung, thì VPHC trong lĩnh vực GTĐB
mang những đặc tính riêng, những dấu hiệu đặc thù của VPHC trong lĩnh
vực GTĐB.

12


+ VPHC trong lĩnh vực GTĐB là một lĩnh vực cụ thể trong quản lí
Nhà nước. Vì vậy VPHC trong lĩnh vực GTĐB không chỉ chịu sự điều
chỉnh của Pháp lệnh xử lí VPHC năm 2002 (sửa đổi bổ sung năm 2007,
2008) mà cịn có hệ thống các văn bản điều chỉnh riêng về xử phạt VPHC
trong lĩnh vực GTĐB như: Nghị định 146/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy
định xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB; Nghị định 34/2010/NĐ-CP
ngày 02/4/2010 của Chính phủ quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực
GTĐB… và nhiều văn bản luật khác có đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều
chỉnh, phương pháp điều chỉnh riêng về VPHC trong lĩnh vực GTĐB.

Nững văn bản được ban hành nhằm đáp ứng nhu cầu quản lí của Nhà nước
trong lĩnh vực GTĐB.
+ Chủ thể của VPHC trong lĩnh vực GTĐB là cá nhân, tổ chức có
năng lực chịu trách nhiệm hành chính, thực hiện hành vi VPHC trong lĩnh
vực GTĐB theo quy định của pháp luật GTĐB. Cá nhân, tổ chức chỉ được
xem là có hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB khi thực hiện các hành vi
thuộc sáu nhóm hành vi vi phạm sau: vi phạm quy tắc GTĐB; vi phạm quy
định về kết cấu hạ tầng GTĐB; vi phạm quy định về phương tiện tham gia
GTĐB; vi phạm quy định về người điều khiển phương tiện tham gia
GTĐB; vi phạm quy định về vận tải đường bộ; các vi phạm khác liên quan
đến GTĐB. Đó là những nhóm hành vi vi phạm được pháp luật GTĐB điều
chỉnh và bị xử phạt VPHC khi các hành vi xẩy ra.
+ VPHC trong lĩnh vực GTĐB được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý
VPHC trong lĩnh vực GTĐB phải là hành vi vi phạm có lỗi thể hiện dưới
hình thức cố ý hoặc vơ ý. Nói cách khác, người thực hiện hành vi này phải
trong trạng thái có đủ khả nảng nhận thức và điều khiển hành vi của mình
nhưng đã vơ tình thiếu thận trọng mà khơng nhận thức được hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội ( lỗi vô ý) hoặc nhận thức được điều đó

13


nhưng vẫn cố tình thục hiện lỗi ( lỗi cố ý). Vấn đề xác định một hành vi vi
phạm trong lĩnh vực GTĐB có phải bị xử phạt VPHC hay khơng thì cần
phải xác định dấu hiệu lỗi trong vi phạm xẩy ra. Nếu hành vi trái pháp luật
được thực hiện một cách khơng có lỗi thì hành vi đó không được coi là
VPHC trong lĩnh vực GTĐB và cũng không bị áp dụng các biện pháp áp
dụng các biện pháp xử phạt hành chính trong lĩnh vực GTĐB đối với cá
nhân, tổ chức.
1.2 Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông

đường bộ
1.2.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Trong xử lí VPHC thì biện pháp xử phạt có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng, bởi lẽ xử phạt hành chính là biện pháp cơ bản, mang tính đặc trưng
và phổ biến của Nhà nước áp dụng cho loại vi phạm pháp luật này. Thông
qua việc xử phạt VPHC nhà nước đảm bảo được trật tự, kỹ cương của xã
hội; quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cộng đồng; ngặn chặn
sự tái diễn của VPHC. Hoạt động xử phạt VPHC phải tuân theo các nguyên
tắc do pháp luật quy định. Đó là sáu nguyên tắc sau [12, tr]:
+ Một là: mọi VPHC phải được phát hiện kịp thời và bị đình chỉ
ngay. Việc xử lí phải được tiến hành nhanh chóng, cơng minh triệt để; mọi
hậu quả do VPHC gây ra phải được khắc phục theo đúng pháp luật;
+ Hai là: Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có hành vi
VPHC do pháp luật quy định;
+ Ba là: Việc xử phạt VPHC phải do người có thẩm quyền tiến hành
theo đúng quy định của pháp luật;
+ Bốn là: Mỗi hành vi VPHC chỉ bị xử phạt một lần. Nhiều người
cùng thực hiện một hành vi VPHC thì mỗi người đều bị xử phạt hành

14


chính. một người thực hiện nhiều hành vi VPHC thì bị xử về từng hành vi
VPHC
+ Năm là: Việc xử phạt VPHC phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi
phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định hình thức, biện
pháp xử lí thích hợp;
+ Sáu là: Không xử phạt VPHC đối với trường hợp thuộc tình thế
cấp thiết, phịng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc VPHC trong khi đang
mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mấ khả năng nhận thức hoặc khả

năng điều khiển hành vi của mình.
Xử phạt VPHC bao gồm các hình thức xử phạt chính và các hình
thức xử phạt bổ sung. Cá nhân, tổ chức đối với mỗi VPHC phải chịu một
hình thức phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền, riêng đố với người nước
ngồi có thể bị xử phạt trục xuất trong hai trường hợp như là hình thức phạt
chính và hình phạt bổ sung. Ngồi các hình thức xử phạt chính và bổ sung
như trên, cá nhân tổ chức vi phạm cịn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều
biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm như buộc khắc phục tình trạng ơ
nhiễm mơi trường, lây lan dịch bệnh do VPHC gây ra.
Trong quản lí Nhà nước về GTĐB, xử phạt VPHC là hoạt động quản
lí của Nhà nước nhằm giải quyết các vụ việc vi phạm pháp luật GTĐB, cụ
thể là những VPHC của các đối tượng là cá nhân, tổ chức thực hiện trên
phạm vi lãnh thổ Việt Nam trong lĩnh vực GTĐB. Người chưa thành niên
thực hiện hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB thì bị xử lí theo quy định
chung tại điều 7 Pháp lệnh xử lí VPHC. Có thể thấy VPHC và xử lí VPHC
trong lĩnh vực GTĐB liên quan đến hai loại hoạt động của Nhà nước thống
nhất với nhau là hoạt động lập pháp và hoạt động áp dụng pháp luật (thuộc
nội dung hoạt động quản lí Nhà nước – hành pháp). Kết quả hoạt động lập
pháp tạo cơ sở (căn cứ) cho hoạt động áp dụng pháp luật (ở đây là xử lí

15


VPHC). Ngược lại, hoạt động áp dụng pháp luật có chức năng hiện thực
hóa kết quả của hoạt động lập pháp, làm cho pháp luật có hiệu lực và giá trị
trên thực tế đời sống xã hội.
1.2.3. Đặc thù của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thơng đường bộ.
Thứ nhất, Với đặc thù là một hệ thống văn bản pháp luật trong hệ
thống pháp luật Việt nam nên chịu sự quản lí của nhà nước.Vì vậy pháp

luật xử lí VPHC trong lĩnh vực GTĐB vừa mang tính đặc thù của pháp luật
xử lí VPHC nói chung vừa mang những đặc thù ở lĩnh vực quản lý nhà
nước. Nói cách khác, xử phạt VPHC trong hệ thống GTĐB khơng phải là
một hệ thơng quy tắc riêng, hồn tồn biệt lập mà nó là tổng thể thống nhất
giữa các quy phạm chung và quy phạm riêng về các VPHC trong lĩnh vực
GTĐB. Vì vậy nói đến xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB bao gồm các
quy phạm phần chung và các quy phạm cụ thể áp dụng riêng đối với lĩnh
vực GTĐB.
Xử phạt VPHC nói chung và xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB
nói riêng do các chủ thẻ có thẩm quyền ban hành, như: Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ. Ví dụ: Quốc hội
ban hành Luật GTĐB để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hoạt động
GTĐB trong đó quy định các quy tắc GTĐB; kết cấu hạ tầng GTĐB;
phương tiện và người tham gia GTĐB;... Ủy ban thường vụ Quốc hội ban
hành pháp lệnh xử lí VPHC năm 2002 (đã được sửa đổi bổ sung một số
điều năm 2007, 2008). pháp lệnh là cơ sở cho việc quy định chi tiết cụ thể
hóa đối việc xử lí VPHC ở mỗi lĩnh vực chuyên ngành quản lí nhà nước,
trong đó có GTĐB.

16


Thứ hai, Nhìn tổng thể, xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB có một
số đặc thù riêng theo yêu cầu của quản lí Nhà nước trong việc đấu tranh
chống và phịng ngừa VPHC trong lĩnh vực này.
+ Ngồi hình thức cảnh cáo, phạt tiền, các hình thức phạt bổ sung và
biện pháp khắc phục hậu quả VPHC theo quy định chung, các hình thức
phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả VPHC trong lĩnh vực GTĐB
đều có nét đặc thù riêng. Chẳng hạn, các hình thức phạt bổ sung như tịch
thu còi, cờ, đèn sử dụng trái quy định; tước quyền sử dụng giấy phép lái xe

có thời hạn, không thời hạn; tước quyền sử dụng chứng chỉ bồi dưỡng kiến
thức pháp luật về GTĐB; tịch thu giấy phép lái xe khơng do cơ quan có
thầm quyền cấp, giấy phép lái xe bị tẩy xóa; tịch thu phương tiện tham gia
GTĐB; đình chỉ hoạt động buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam…Các biện
pháp khắc phục hậu quả như buộc phải dỡ phần hàng hóa vượt quá giới hạn
hoặc phải xếp lại hàng hóa theo đúng quy định; buộc phải tháo dỡ cơng
trình trái phép, tháo dỡ dây, các vật cản; thu dọn vật liêu, rác thải, đồ vật
chiếm dụng mặt đường; thu dọn đinh vật sắc nhọn và khơi phục laị tình
trạng ban đầu đã bị thay đổi do VPHC gây ra… Bên cạnh việc áp dụng
hình thức xử phạt chính, việc áp dụng các hình phạt bổ sung cũng như biện
pháp khắc phục hậu quả vi phạm nêu trên đối với cá nhân, tổ chức VPHC
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm thể hiện rõ những đặc điểm riêng của
hoạt động xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB theo yêu cầu của quản lí
Nhà nước và công cuộc đấu tranh chống, khắc phục hậu quả, phòng ngừa
VPHC trong lĩnh vưc GTĐB ở nước ta hiện nay.
+ Về thầm quyền xử phạt: Trước hết cần xác định các chủ thể có
thẩm quyền xử phạt VPHC, tức là những chức danh, cơ quan có thẩm
quyền áp dụng các quy định của pháp luật về hình thức xử phạt, mức phạt
và các biện pháp khắc phục hậu quả VPHC. Vấn đề đặt ra tiếp theo là phân

17


định thẩm quyền xử phạt giữa các cơ quan, người có thẩm quyền theo
phạm vi lãnh thổ và loại vụ việc VPHC đồng thời xác định cụ thể thẩm
quyền áp dụng hình thức xử phạt, mức phạt của từng cơ quan, chức danh.
Theo đó, Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp, trưởng công an các cấp (trừ
công an viên các xã) có thẩm quyền xử phạt đối với các VPHC trong lĩnh
vực GTĐB xẩy ra trong phạm vi quản lí của địa phương mình. Đối với các
VPHC trong lĩnh vực GTĐB của người và phương tiện tham gia giao thơng

trên đường bộ thì cảnh sát giao thơng có thẩm quyền xử phạt. Đối với một
số loại VPHC khác trong lĩnh vực GTĐB, thẩm quyền xử phạt thuộc về các
lực lượng và chức danh theo quy định cụ thể của pháp luật như cảnh sát trật
tự, cảnh sát phản ứng nhanh, cảnh sát cơ động, cảnh sát quản lý hành chính
về thật tự xã hội, trưởng cơng an cấp xã; Thanh tra đường bộ. Thẩm quyền
xử phạt VPHC (vể hình thức phạt, mức phạt) trong lĩnh vực GTĐB cũng
được phân định rõ cho chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp (từ cấp xã đến cấp
tỉnh); lực lượng công an nhân dân (chiến sĩ công an nhân dân đang thi hành
công vụ; đội trưởng, trạm trưởng; trưởng công an cấp xã, trưởng cơng an
cấp huyện; trưởng phịng cảnh sát giao thơng, trưởng phịng cảnh sát trật tự,
trưởng phịng cảnh sát quản lý hành chính về thật tự xã hội thuộc công an
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thủ trưởng đơn vị cảnh sát cơ động
từ cấp đại đội trở lên; giám đốc công an cấp tỉnh; Cục trưởng Cục cảnh sát
GTĐB và đường sắt, Cục trưởng Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự
xã hội); thanh tra đường bộ (thanh tra viên đang thi hành công vụ; Chánh
thanh tra sở giao thông vận tải, Chánh thanh tra Tổng cục đường bộ Việt
Nam; Chánh thanh tra Bộ giao thông vận tải).
+ Về thủ tục xử phạt VPHC: Trong lĩnh vực GTĐB, việc xử lý các
VPHC cũng phải tuân theo quy định chung gồm thủ tục ra quyết định xử
phạt tại chỗ, thủ tục lập biên bản VPHC, ra quyết định xử phạt VPHC, thủ
tục thi hành quyết định xử phạt VPHC; thời hiệu, thời hạn xử phạt VPHC.
18


Ngồi ra, những yếu tố có tính đặc thù của VPHC ở lĩnh vực GTĐB cũng
được tính đến khi xác định thủ tục xử phạt VPHC ở lĩnh vực này. Đó là các
yếu tố như chủ phương tiện vi phạm quy định liên quan đến GTĐB có mặt
hay khơng có mặt tại nơi xảy ra hành vi vi phạm; giấy tờ, phương tiện của
người điều khiển phương tiện vi phạm bị tạm giữ; VPHC bị phát hiện từ
việc sử dụng các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ (ghi lại hình ảnh

phương tiện và biển số đăng ký của phương tiện vi phạm).
Việc nhận thức đúng những đặc thù của xử phạt VPHC trong lĩnh
vực GTĐB được thể hiện qua các quy định về hành vi vi phạm, hình thức
xử phạt chính, bổ sung; các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm; thẩm
quyền xử phạt, thủ tục xử phạt;... có ý nghĩa định hướng cho hoạt động xây
dựng hoàn thiện việc xử phạt VPHC được đúng đắn, phù hợp với yêu cầu
quản lí Nhà nước trong lĩnh vực GTĐB.
1.2.4. Yêu cầu đối với pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thơng đường bộ
Do yều cầu của cơng tác đấu tranh, phịng chống các loại VPHC
trong lĩnh vực GTĐB và đảm bảo trật tự an toàn xã hội, pháp luật về xử
phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB phải được thực hiện trên các cơ sở một
số yêu cầu sau:
* Yêu cầu đối với việc tạo khung pháp luật cho hoạt động quản lí
Nhà nước trong lĩnh vực GTĐB
Trong quản lí xã hội của Nhà nước, pháp luật giữ vai trị rất quan
trọng, nó là phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành
của xã hội. Pháp luật là cơ sở để thiết lập, cũng cố và tăng cường quyền lực
Nhà nước, là phương tiện để Nhà nước quản lí mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới và tạo môi trường
ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia. Là
19


một bộ phận của pháp luật nói chung, pháp luật xử lí VPHC trong lĩnh vực
GTĐB cũng phải đảm bảo yêu câù của pháp luật nhằm tham gia hoạt động
quản lí chung của Nhà nước, góp phần ổn định, xác lập trật tự xã hội.
Trước hết, pháp luật xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB là cơ sở để
thiết lập, cũng cố và tăng cường quyền lực Nhà nước, là phương tiện điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực GTĐB. Pháp luật xử phạt VPHC
trong lĩnh vực GTĐB được Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện dựa

trên các điều kiện kinh tế - xã hội khách quan. Nguyên tắc của Nhà nước
pháp quyền là cơ quan, cán bộ công chức Nhà nước chỉ được làm những gì
mà pháp luật cho phép. Do vậy để quản lí xã hội, cần phải tạo khung pháp
luật trong đó cần xác định rõ phạm vi hợp pháp của hoạt động Nhà nước.
Đối với hoạt động xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB cũng vậy, cán bộ
cơng chức, người có thẩm quyền chỉ được xử phạt theo trình tự, thủ tục quy
định để khơng xâm phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Pháp luật xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB cũng là phương tiện
để Nhà nước hình thành và định hướng các hành vi ứng xử của người tham
gia GTĐB, việc bảo đảm an toàn GTĐB; thủ tục, quy trình xử phạt người
VPHC trong lĩnh vực GTĐB. Để quản lí lĩnh vực GTĐB, Nhà nước cần
thực hiện nhiều biện pháp như ban hành chính sách, pháp luật, đề ra các kế
hoạch, quy hoạch phát triển mang tính định hướng, xây dựng cơ sở hạ
tầng…nhưng pháp luật là phương tiện có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Pháp luật về GTĐB phải được thể chế hóa bằng các chính sách về xây
dựng cơ sở hạ tầng, văn hóa giao thơng…thành những quy định có hiệu lực
bắt buộc mọi người tuân theo. Với điều kiện kinh tế - xã hội cịn nhiều khó
khăn, cơ sở hạ tầng giao thơng cịn yếu kém, ý thức pháp luật cịn thấp thì
pháp luật xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB là một yêu cầu đặt ra không
thể thiếu trong việc ngăn ngừa, trừng trị kịp thời các hành vi vi phạm, bảo

20


vệ các quan hệ xã hội đúng đắn trong GTĐB. Góp phần phần hình thành
ứng xử văn hóa, văn minh của người dân trong GTĐB. Bằng việc đặt ra các
quy định về hành vi vi phạm có thể bị xử phạt, pháp luật xử phạt VPHC
giúp cho cá nhân, tổ chức có thể xây dựng những hành vi đúng để không bị
xử phạt nhằm bảo đảm GTĐB thông suốt, trật tự, an tồn, hiệu quả, góp
phần phát triễn kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ

môi trường.
* Yêu cầu phải đảm bảo các quyền của cá nhân, tổ chức trong lĩnh
vực GTĐB
Hoạt động xử phạt VPHC liên quan trực tiếp đến các quyền con
người, quyền công dân. Việt nam đang đẩy mạnh công tác cải cách hành
chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền, pháp luật xử phạt VPHC trong lĩnh
vực GTĐB không những phải tạo cơ sở pháp lí vững chắc để nâng cao hiệu
quả quản lí Nhà nước ở lĩnh vực này mà cịn phải đảm bảo tơn trọng các
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động liên quan
đến lĩnh vực GTĐB. Do vây, pháp luật xử phạt VPHC trong lĩnh vực
GTĐB cịn phải là cơng cụ để cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của mình. Căn cứ vào quy định của
pháp luật, người dân nhận thấy được quyền và nghĩa vụ của mình đến đâu,
thẩm quyền của cơ quan Nhà nước thế nào để chấp hành, thực hiện cho
đúng và có thể tự bảo vệ mình trước hành vi vi phạm từ mọi phía, kể cả cán
bộ cơng chức, cơ quan có thẩm quyền.
Liên quan đến lĩnh vực hoạt động GTĐB có nhiều quyền, lơi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức cần được pháp luật bảo đảm. Đó là các quyền tự
do đi lai, tham gia giao thông, quyền tự do kinh doanh (vận tải hành khách,
hàng hóa…) và các quyền tự do khác. Việc đặt ra yêu cầu cho người thi
hành pháp luật phải thực hiện đúng nội dung các quy định, giới hạn, thảm

21


quyền, phạm vi mà pháp luật đã định ra là nghĩa vụ của cơ quan, người có
thẩm quyền nhưng đó cũng chính là quyền yêu cầu của cá nhân, tổ chức
tham gia hoạt động GTĐB. Yêu cầu đặt ra ở đây là hiệu lực quản lí Nhà
nước phải được đảm bảo, các VPHC được ngăn chặn, xử lí kịp thời,
nghiêm minh, trật tự, an tồn giao thơng được duy trì nhưng đồng thời các

quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức cũng phải được bảo đảm, khong vì việc
xử phạt mà xâm phạm các quyền con người, quyền công dân. Pháp luật xử
phạt VPHC phải đảm bảo kết hợp hài hịa các quyền và lợi ích của Nhà
nước, cộng đồng, cá nhân, tổ chức, qua đó nhằm thúc đẩy sự phát triễn kinh
tế - xã hội nói chung cũng như trong lĩnh vực GTĐB nói riêng.

22


Chương 2
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
2.1. Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thơng đường bộ
2.1.1 Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ.
Hiện nay, các hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB được quy định
trong Nghị định số 34 gồm sáu nhóm hành vi vi phạm là [21]:
- Vi phạm quy tắc giao thông:
Các quy tắc GTĐB bao gồm tổng thể các quy tắc chung và các quy
tắc về hệ thống báo hiệu đường bộ, chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ;
tốc độ; sử dụng làn đường; vượt xe; chuyển hướng xe; lùi xe; tránh xe đi
ngược chiều; dừng, đỗ trên đường bộ; dừng, đỗ trên đường phố; xếp hàng
hóa trên phương tiện GTĐB; Quyền ưu tiên của một số loại xe; qua phà,
qua cầu phao;...sử dụng đường phố và các hoạt động khác trên đường phố...
[5, chương II]
- Vi phạm về kết cấu hạ tầng GTĐB:
Quy định về kết cấu hạ tầng GTĐB gồm các quy định về phân loại
đường bộ; đặt tên, số hiệu đường bộ; tiêu chuẩn kĩ thuật đường bộ; quỹ đất

giành cho kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; pham vi đất giành cho
đường bộ; bến xe, bãi đỗ xe, trạm dừng nghĩ, trạm kiễm tra trọng tải xe,
trạm thu phí đường bộ;… bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ [5,
chương III]

23


- Vi phạm quy định về phương tiện tham gia GTĐB:
Các quy định về phương tiện tham gia GTĐB bao gồm: Điều kiện
tham gia giao thông của xe cơ giới; cấp, thu hồi đăng kí và biển số xe cơ
giới; điểu khiển tham gia giao thông của xe thô sơ; điều kiện tham gia giao
thông của xe máy chuyên dùng [5, chương IV]
- Vi phạm quy định về người điều kiển phương tiện tham gia GTĐB:
Các quy định cửa pháp luật về người điều khiển phương tiện tham
gia giao thông bao gồm các quy định về điều kiện của người lái xe tham gia
giao thông; giấy phép lái xe; tuổi, sức khỏe của người lái xe; đào tạo lái xe,
sát hạch để cấp giấy phép lái xe; điều kiện của người điều khiển xe máy
chuyên dùng tham gia giao thông; điều kiện của người điều khiển xe thô sơ
tham gia giao thông [5, chương V]
- Vi phạm quy định về vận tải đường bộ:
Các quy định của pháp luật về vận tải đường bộ bao gồm các quy
định về hoạt động vận tải đường bộ và hoạt động hỗ trợ đường bộ. Hoạt
động kinh doanh vận tải đường bộ phải tuân theo các quy định chung và
quy định về thời gian làm việc của người lái xe ô tô; điều kiện kinh doanh
vận tải bằng ô tô; vận tải hành khách bằng ô tô, nghĩa vụ của người kinh
doanh vận tải hành khách bằng ô tô; vận chuyển hành khách, hàng hóa
bằng xe thơ sơ, xe gắn máy, xe mơ tô hai bánh, xe mô tô ba bánh và các
loại xe tương tự; vận tải đa phương thức [5, chương VI]
- Vi phạm khác liên khác liên quan đến GTĐB:

Những VPHC này trái với quy định của pháp luật có liên quan đến
GTĐB hoặc xâm phạm các điều cấm của pháp luật GTĐB. Đó là các hành
vi như sản xuất, lắp ráp trái phép phương tiện giao thông cơ giới đường bộ;
vi phạm quy định về đào tạo, sát hạch lái xe…vi phạm quy định về hoạt

24


động kiểm định an toàn kĩ thuật và bảo vệ mơi trường xe cơ giới [21, Điều
32- 42]
Có thể nói căn cứ vào Luật GTĐB năm 2008, Nghị định số 34 khắc
phục những bất cập của Nghi định 146 đã liệt kê tương đối đầy đủ các hành
vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB. Những quy định về hành vi VPHC trong
lĩnh vực GTĐB được áp dụng và phát huy hiệu quả trên thực tế. Tuy nhiên,
quy định của Nghị định số 34 về xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB vẫn
chưa phản ánh được tình hình phát triển của xã hội hiện nay. Đặc biệt là các
hành vi vi phạm về GTĐB ngày càng diễn ra phức tạp, khó có thể kiểm
sốt hết được.
2.1.2 Hình thức xử phạt
Theo quy định của điều 5, Nghị định số 34 và điều 12 Pháp lệnh xử
lí VPHC năm 2002 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2008), thì
trong lĩnh vực GTĐB có các hình thức xử phạt sau:
 Hình thức xử phạt chính: cảnh cáo, phạt tiền
- Cảnh cáo: được áp dụng đối với cá nlhân, tổ chức VPHC nhỏ, lần
đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi VPHC do người chưa
thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết
định bằng văn bản.
- Hình thức phạt tiền:
Trong lĩnh vực GTĐB, phạt tiền được áp dụng với mức thấp nhất là
40.000 đồng, mức cao nhất là 40.000.000 đồng. Khắc phục những bất cập

của Nghị định 146, Nghị định 34 đã quy định mức phạt tương đối cao và
phù hợp với thực tại.
 Các hình thức phạt bổ sung

25


×