Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN văn học - bi kịch con người trí thức trong tác phẩm “cơ hội của chúa”của nguyễn việt hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.05 KB, 17 trang )

1

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................2
1. Lý do lựa chọn đề tài ......................................................................................2
2. Ý nghĩa đề tài..................................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................3
4. Cấu trúc đề tài.................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG...............................................................................................4
I. Khái quát chung.............................................................................................4
.1 Lý luận tiếp nhận văn học................................................................................4
a. Khái niệm .................................................................................................4
b. Các loại hình tiếp nhận..............................................................................4
b.1 Lý luận tiếp nhận văn học trong truyền thống.....................................4
b.2 Lý luận tiếp nhận hiện đại...................................................................5
b.3 Lý luận phản tiếp nhận........................................................................6
c. Các nhân tố tác động đến quá trình tiếp nhận...........................................7
.2 Sơ lược về tác giả và tác phẩm.........................................................................7
a. Tác giả Nguyễn Việt Hà............................................................................7
b. “Cơ hội của Chúa” - một tác phẩm gây nhiều tiếng vang........................7
II. Tiếp nhận tác phẩm “Cơ hội của Chúa” - Nguyễn Việt Hà .......................8
1. Hình tượng người trí thức trong giai đoạn đổi mới..........................................8
a. Kiểu trí thức bất đắc chí ...........................................................................8
b. Kiểu trí thức tức thời.................................................................................10
c. Kiểu trí thức nhu nhược trước những biến thiên của cuộc đời..................11
d. Kiểu trí thức biến chất trong giai đoạn giao thời của đất nước .................12
2. Nghệ thuật khắc hoạ hình tượng nhân vật độc đáo .........................................13
KẾT LUẬN..........................................................................................................16
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................17



2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Vấn đề tiếp nhận văn học khơng cịn là một hướng tiếp cận hồn tồn mới mẻ
trên thế giới, khi nó đã có bề dày lịch sử hơn nửa thế kỷ; tuy nhiên, tính thời sự của
vấn đề khơng phải vì thế mà suy giảm, thậm chí cịn nóng hổi hơn bao giờ, khi tại thời
điểm hiện nay, chủ nghĩa hậu hiện đại đang ở thế thượng phong với những cách tân
nghệ thuật đang diễn ra theo hướng gia tăng tối đa vai trò của người đọc. Vấn đề đặt ra
là tiếp nhận một tác phẩm văn học mới như thế nào cũng đồng thời là một yếu tố then
chốt, có ý nghĩa bao trùm của lý luận văn học.
Vài năm trở lại đây, trên văn đàn, hiện tượng một vài cuốn sách sau khi ra đời
nhanh chóng được ca ngợi hết lời rồi nhanh chóng chìm vào qn lãng đang trở nên
phổ biến. Hiện tượng này thường xảy ra với những cuốn sách có điều gì đó giật gân.
Cách khen ngợi này thường chỉ chú ý tới nội dung, kích thích sự tò mò, làm nên những
cuốn sách bán chạy, tạo ra những hiện tượng văn học chưa đến độ. Cho nên nhiều
người háo hức tìm đọc rồi thất vọng, rơi vào tâm trạng của người bị lừa dối. Biểu
dương một cuốn sách trước hết cần nhìn nhận những thành tựu của nó trong sự thống
nhất giữa các yếu tố tư tưởng với nghệ thuật và phải trả lời được câu hỏi: “đã mang
lại cái gì cho cuộc sống?”. Cịn biểu dương một cuốn sách chỉ vì nó phù hợp với thị
hiếu, nhu cầu thuần tuý cá nhân hay một số người thì nên thận trọng, nếu khơng rất dễ
gây nhiễu loạn thị hiếu thẩm mỹ của số đông công chúng. Nhất là trong lúc này, thị
hiếu thẩm mỹ vốn đang ở trong tình trạng phức tạp. Biểu dương thành cơng kết hợp
với chỉ ra hạn chế là phương cách tốt nhất để hướng dẫn thị hiếu cho người đọc đồng
thời đóng góp với tác giả để họ ngày càng hồn thiện hơn. Đối với “Cơ hội của
Chúa”, nhiều bài báo đã được đăng tải, giữa những lời khen ngợi đã có tác giả nhận
xét cái giọng trí thức bụi bình dân cao cấp nhiều lắm cũng chỉ tạo nổi thứ văn chương
hạng nhì (đạo diễn Lê Hồng) - vậy đâu là hướng tiếp nhận gần với giá trị tác phẩm
nhất? Với Nguyễn Việt Hà, mọi việc cịn ở phía trước, qua “Cơ hội của Chúa”anh đã

chứng tỏ một tiềm năng, nhất là ở một số yếu tố kỹ thuật của thể loại. Trong tác phẩm
có những khái qt mang tính triết lý, hơ hào nhưng trên thực tế có giúp người đọc
hình dung và suy nghĩ về những thực trạng của xã hội, những vấn đề và những gì thực
sự đương diễn ra trong xã hội thời kỳ đổi mới, dĩ nhiên khơng thể địi hỏi tác giả bao
qt mọi thực trạng, đề cập đến mọi vấn đề, phải nhận rằng những mảnh đời sống,
những thực trạng xã hội, những loại người, mẫu người được trình bày trong tác phẩm
tác giả khá am hiểu, có sự cảm nhận tinh tế, có cả sự vơ tư của tác giả - một xã hội hậu
chiến đầy những rào cản hữu hình và vơ hình giữa người với người. Nguyễn Việt Hà
đã có những tiền đề để bạn đọc hy vọng vào các giá trị của cuộc sống và một nền văn
học Việt Nam “dám viết” , và hiện vẫn cịn đó khơng ít vấn đề chưa được nghiên cứu,
luận giải một cách thấu đáo.
Với những tranh cãi quá nhiều quanh tác phẩm, vậy đâu là cách nhìn nhận biện
chứng đánh giá đúng giá trị tác phẩm “Cơ hội của Chúa”? Với vai trị một độc giả có
nhiều thiện cảm với tác phẩm, chúng tôi đưa ra hướng tiếp nhận riêng của cá nhân về
tác phẩm theo hướng : “Bi kịch con người trí thức trong tác phẩm “Cơ hội của
Chúa”của Nguyễn Việt Hà”. Đây cũng là lý do chính để tơi chọn đề tài này.


3
2. ý nghĩa của đề tài :
Việc nghiên cứu đề tài “Bi kịch con người trí thức trong tác phẩm “Cơ hội của
Chúa”của Nguyễn Việt Hà” vừa mang ý nghĩa khoa học, vừa mang ý nghĩa khoa học,
vừa mang ý nghĩa thực tiễn :
- Qua đề tài, chúng tôi cũng muốn gợi ý một cách tiếp cận tác phẩm “Cơ hội
của Chúa”.
- Thông qua tiểu luận, chúng tôi mong sẽ có một cách nhìn đầy đủ hơn về
những con người trí thức trong thời kì đất nước đổi mới.
- Cũng qua việc nghiên cứu giúp chúng tơi một cách nhìn biện chứng hơn về
tác phẩm này, qua đó, rèn luyện cho chúng tôi kĩ năng và kinh nghiệm tiếp nhận tác
phẩm một cách khoa học hơn.

3. Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp đọc tài liệu
Phương pháp phân tích: phân tích số phận những con người trí thức trong tiểu
thuyết “Cơ hội của Chúa”.
Phương pháp đối chiếu, so sánh: trong đề tài này chúng tơi có tiến hành đối
chiếu, so sánh bi kịch của người trí thức trong tác phẩm này với những tác phẩm khác
trong nền văn học Việt Nam.
Phương pháp tổng hợp.
4. Cấu trúc đề tài :
Đề tài được chia làm 3 phần :
- Phần mở đầu : giới thiệu chung về tiểu luận.
- Phần nội dung :
+ Khái quát chung.
+ Bi kịch người trí thức trong tác phẩm “Cơ hội của Chúa”.
- Kết luận : sơ kết vai trò của tác phẩm trong nền văn học Việt Nam và những
đánh giá cá nhân của chúng tôi.


4

PHẦN NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG
1. Lý luận tiếp nhận văn học :
a. Các khái niệm:
- Tác phẩm văn học : theo quan điểm của Lê Tiến Dũng : “tác phẩm văn học là
một chỉnh thể nghệ thuật độc đáo, là đơn vị sáng tạo của nhà văn, là đối tượng thưởng
thức, tiếp nhận của người đọc, là chỉnh thể trung tâm của hoạt động văn học”.
- Tiếp nhận tác phẩm văn học : Theo định nghĩa trong sách giáo khoa lớp 12
chương trình khơng phân ban (xuất bản năm 2004) : “Tiếp nhận văn học hay cảm thụ
văn học là sống với tác phẩm văn chương, rung động với nó, vừa đắm chìm trong thế

giới nghệ thuật của nhà văn vừa tỉnh táo lắng nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức
cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo”. Vậy, tiếp nhận văn học là một
lĩnh vực nghiên cứu của khoa học về văn học, có thể nói đó là cuộc đối thoại giữa
người đọc với tác giả thơng qua tác phẩm, sau đó là của người đọc với người đọc về và
từ tác phẩm đó. Ở đó, thể hiện nhu cầu giao tiếp, chia sẻ, trao đổi, giãi bày giữa người
với người. Dù sợi dây liên hệ là gián tiếp, nhưng nó lại mang tính giao diện rất cao, thể
hiện 1 phần chức năng văn học. Một tác phẩm lúc này chỉ còn là phương tiện giao tiếp
giữa nhà văn với nhiều loại độc giả khác nhau, mà với mỗi loại độc giả là 1 cuộc nói
chuyện cũng rất khác nhau. Đó là cuộc giao tiếp đa chiều và đa dạng: người đọc giao
tiếp với tác giả, với nhân vật và hình tượng trong tác phẩm và với nhau. Đó là cuộc
giao tiếp trong ko gian: giữa các dân tộc và nền văn hóa, và thời gian : giữa các thế hệ
và thời đại khác nhau.
b. Các loại hình tiếp nhận :
Có nhiều tác giả đưa ra cách phân loại loại hình tiếp nhận, dưới đây, chúng tôi
dựa theo quan niệm của T.S Nguyễn Khắc Sính bởi theo chúng tơi, quan niệm này hợp
lý và khách quan hơn cả.
b.1 Lý luận tiếp nhận văn học trong truyền thống :
Xưa nay chúng ta quan niệm hoạt động văn học được vận hành qua 4 khâu liên
quan chặt chẽ với nhau, có thể sơ đồ hố nó như sau :
Hiện
thực

Nhà
văn

Tác
phẩm

Bạn
đọc


Nhìn vào sơ đồ ta thấy các mối quan hệ (ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp,
tồn diện hay chỉ vài khía cạnh...) giữa tác phẩm với hiện thực, giữa tác phẩm với nhà
văn và, cũng vậy, giữa tác phẩm với bạn đọc.
Quan niệm tri âm cho rằng nhiệm vụ của tiếp nhận là cảm và hiểu cuộc sống
được gợi lên trong tác phẩm như chính tác giả, nghĩa là đòi hỏi người đọc khi tiếp
nhận tác phẩm phải tiếp nhận được hết đều tác giả muốn nói bằng hình tượng. Điều
này rất khó nếu khơng muốn nói đấy là số phận bi kịch của tri âm.
Thông thường, người đọc vẫn hiểu được điều tác giả “nói” ở một mức độ nào
đó (nếu khơng như thế thì sự giao tiếp văn học, đồng cảm nghệ thuật đã không diễn
ra). Trong khát vọng giao tiếp này, người đọc tiến tới “dụng ý”, “tâm sự”, “tấc lòng”


5
của tác giả. Các nhà ngữ văn học cổ điển cũng tìm tịi, thưởng thức tác phẩm theo
hướng đó. Nhưng từ đây đặt ra vấn đề: thế nào là hiểu đúng tác phẩm? (Tác giả chưa
chắc đã hiểu hết, nhà văn phát biểu về tác phẩm của mình chưa chắc đã là tiêu chuẩn
để đánh giá sự đúng đắn của tiếp nhận, trường hợp “đọc lầm” tác phẩm của người đọc
và cả của nhà phê bình vẫn thường diễn ra...).
Quan niệm ký thác dựa trên ngun tắc “người nói khơng có ý ấy nhưng người
nghe có lịng”, nghĩa là người đọc có thể xem tác phẩm như phương tiện thể hiện nỗi
lịng, dụng tâm của mình, là nơi gửi gắm tư tưởng, tình cảm của mình, cao nhất là gặp
gỡ với tác giả ở một điểm nào đó.
Như vậy, lý luận tiếp nhận trong truyền thống chủ yếu quan tâm tới sự gặp gỡ
của hai chủ thể cá nhân (tác giả và người đọc), của hai “thế giới nội tâm”, của ý thức
(và vô thức) tác giả với ý thức (và vô thức) người đọc mà chưa quan tâm tới tính quy
định văn hố lịch sử đối với sự gặp gỡ kia. Vì vậy, tất yếu phải bổ sung lý luận khác.
b.2 Lý luận tiếp nhận hiện đại :
Nửa cuối thế kỷ XX, vấn đề người đọc nổi lên như là một vấn đề trung tâm
trong mối quan hệ tay ba: tác giả - tác phẩm - người đọc. Do đó cần phải vẽ lại sơ đồ

dưới ánh sáng của quan niệm mới:
Tác giả
(Người
phát
ngơn)

Văn bản
(Thơng
điệp được
mã hố)

Độc giả
(Người
thụ ngơn
)

Tác phẩm
(Thơng
điệp được
giả mã)
Một tác phẩm văn học có thể có sự tiếp nhận khác nhau từ phía độc giả, tùy
theo trình độ, gu thẩm mĩ, quan niệm, sở thích của người đọc, tác phẩm văn học là 1
hệ mở, người đọc là chủ thể tiếp nhận khi tiếp cận tác phẩm đã đánh thức từ trong tác
phẩm những con chữ bẹp dí thức dậy, chính thế giới tâm hồn và sự tưởng tượng của
độc giả đã thổi linh hồn vào ngôn từ trong tác phẩm. Cho nên, dù những gì viết trong
tác phẩm là do nhà văn sáng tạo và gửi trao tư tưởng, suy ngẫm của mình vào đó thì
cái cách hấp thụ văn chương của mỗi loại độc giả là khác nhau, cũng cần lưu ý, người
đọc phải là người có trình độ, có văn hóa mới có thể cảm nhận được cái hay của tác
phẩm văn học đích thực, những truyện kiểu như Thuốc, AQ chính truyện của Lỗ Tấn
tính trí tuệ, tính ẩn dụ rất cao mà ko hiểu được thì ko thể thấy cái ý nghĩa sâu sắc và

bút pháp thần tình của tác giả. Tác phẩm văn học được tiếp nhận thế nào cũng ko chỉ
phụ thuộc vào tâm lý tính cách trình độ cá nhân mà cịn phụ thuộc vào mơi trường, xã
hội, văn hóa trong thời kỳ mà nó sinh ra, những nhân tố khách quan ấy cũng tác động
đến tiến trình văn học, đồng thời biểu hiện cách tiếp nhận văn học ở mỗi 1 giai đoạn
khác nhau. Cứ thế hệ sau lại đắp thêm cho tác phẩm 1 tấm áo mới, 1 lớp nghĩa mới


6
cho dù chính nhà văn cũng ko nghĩ tới khi cầm bút viết... Đây là 1 cuộc đối thoại giữa
nhà văn và độc giả, mà phương tiện trung gian giữa mối liên hệ tương hỗ ấy chính là
tác phẩm. Quyết định số phận sáng tác mỗi thời là tầm đón nhận của người đọc, của
thế hệ người đọc quy định. Tầm đón nhận là một khái niệm do nhà triết học và xã hội
học người Đức Các Manhêim nêu ra và được Jauss vận dụng. Tầm đón nhận này đặc
trưng cho từng thời đại, thế hệ người đọc và quy định sự tiếp nhận của tác phẩm, thể
hiện ở:
+ Sự hứng thú và địi hỏi đối với hình thức, phong cách, thi pháp của tác phẩm.
+ Năng lực cảm nhận, trình độ lý giải gắn với mơi trường lịch sử văn học cụ
thể.
+ Sự đối lập của tưởng tượng và thực tại, của các chức năng thực tế và chức
năng của ngơn ngữ.
Tầm đón nhận có hai mặt: Tầm đón nhận thẩm mỹ là đối tượng của nghiên cứu
thẩm mỹ, và Tầm đón nhận đời sống là đối tượng của nghiên cứu xã hội học. Một
thời gian dài trong lý luận văn học ở nước ta nghiêng về tầm đón nhận đời sống trong
tiếp nhận văn học (xem đề tài của tác phẩm ấy nói cái gì, chủ đề tư tưởng ra sao, bài
học rút ra từ tác phẩm, ý nghĩa giá trị của tác phẩm đối với đời sống...). Thực ra, trong
tiếp nhận văn học, cả hai cách tiếp cận này đều cần phát triển trong mối liên hệ tự
nhiên của chúng.
Với tính chất mở có từ hai phía, văn bản và người đọc vừa tự khẳng định mình
trong hành vi đối thoại, nhưng đồng thời cũng là sự chuyển hóa, thẩm thấu vào nhau.
Đời sống cụ thể của tác phẩm chỉ được xác lập ở ranh giới giao thoa, chuyển hoá giữa

văn bản và người đọc tại thời điểm đọc. Ý nghĩa của tác phẩm là nghĩa tiềm tại của
văn bản được chuyển hoá bởi kinh nghiệm của người đọc để tạo ra một ý nghĩa mới
trong người đọc. Đối tượng thẩm mỹ mà người đọc đã tạo ra cho chính mình từ văn
bản - đó là tác phẩm văn học. Tác phẩm vì vậy ln ln là một thế giới đang được
hình thành trong những người đọc khác nhau, tính đa nghĩa vì thế mà được nhân lên
theo mỗi người đọc. Sự tương tác, đối thoại giữa văn bản và người đọc chỉ diễn ra
thuận lợi khi có sự tương thích giữa mã của người gửi với mã của người nhận. Tuy
nhiên, trong thực tế tiếp nhận, sự khơng tương thích có thể xẩy ra với hai tình huống:
1. Khi người nhận dùng một bộ mã khác lạ để giải mã văn bản, khi đó ý nghĩa mà
người đọc nhận được đối lập với nghĩa chủ ý của nhà văn, đó được gọi là hiện tượng
“phản tiếp nhận”; 2. Khi người gửi dùng một bộ mã khác lạ để mã hóa văn bản, khi đó,
người đọc sẽ bị “dị ứng” nghệ thuật, đòi hỏi họ phải điều chỉnh mã tiếp nhận cho
tương thích.
b.3 Lý luận phản tiếp nhận :
Lý luận tiếp nhận truyền thống chủ yếu chỉ nhấn mạnh đến sự tiếp nhận tương
đồng, thuận chiều. Với sự phát hiện ra tầm đón nhận đã cho phép nhận ra rất nhiều
kiến thức và mức độ tiếp nhận trong truyền thống chỉ là một sự “tiếp nhận sai”, một sự
“hiểu lầm” một cách không cần thiết!
Đặc trưng của phản tiếp nhận là tìm thấy tư tưởng của tác phẩm ngược chiều
với khuynh hướng tư tưởng của tác giả, cắt nghĩa ngược lại với khuynh huớng của tác
giả, hay nói cách khác là sáng tạo ra một tư tưởng mới mà ngun tác khơng có.
Như vậy phản tiếp nhận là một hiện tượng văn hoá, biểu hiện yêu cầu đổi mới,
đi ngược với truyền thống của thế hệ mới so với người đi trước, thường xảy ra trong
các thời đại có bước ngoặt lịch sử hoặc tiếp xúc với một nền văn hoá khác.


7
Phản tiếp nhận là một cách tiếp nhận tác phẩm dưới dạng một hệ hình mới,
một hiện tượng quy luật của những thời đại đang biến đổi.
c. Các nhân tố tác động đến q trình tiếp nhận :

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận một tác phẩm văn học,
nhưng nhìn chung, có những nhân tố cơ bản sau :
- Nhân tố khách quan : bao gồm những yếu tố tác động từ bên ngoài như tầm
ảnh hưởng của dư luận, lối sống của tác giả, bối cảnh xã hội lúc tác phẩm xuất
hiện ...
- Nhân tố chủ quan : trình độ tiếp nhận của người đọc, đời sống thực của người
đọc, tâm trạng của người đọc ...
2. Sơ lược về tác giả và tác phẩm :
a. Tác giả Nguyễn Việt Hà :
Nguyễn Việt Hà sinh năm 1962, tự nhận mình là người cơng giáo. Sau khi học đại
học Kinh tế quốc dân, anh làm việc cho một ngân hàng. Hiện nay, Việt Hà đã quyết
định trở thành nhà văn chuyên nghiệp. Ngoài tiểu thuyết, anh viết truyện ngắn và tiểu
luận cho các báo Tuổi Trẻ và Tiền Phong. Tiểu thuyết đầu tay của anh, “Cơ hội của
Chúa”(1999) gây nhiều tranh cãi, sau là “Khải huyền muộn” (2003). Tập truyện “Của
rơi” (2004) cũng gặt hái nhiều thành cơng, và đang trong giai đoạn dựng thành kịch.
Ngồi ra cịn có tạp văn : “Mặt của đàn ơng” và “nhà văn thì chơi với ai”.
b. “Cơ hội của Chúa” - một tác phẩm gây nhiều tiếng vang :
Nguyễn Việt Hà - gây sốc ngay cuốn tiểu thuyết đầu tay “Cơ hội của Chúa”.
Dưới ngòi bút của anh, những mặt trái chiều của cuộc sống được miêu tả rất chân thực
mà sâu sắc. Đặc biệt là những trang viết về người trí thức, về Hà Nội, về cuộc sống
quanh ta trong mọi bộn bề của hôm nay. “Sự cùng quẫn cuối cùng của con người, đấy
là Cơ hội của Chúa”– đó là lời tựa cho cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà. Đến
nay “Cơ hội của Chúa” là cuốn sách được đơng đảo độc giả u thích vì tính hiện
thực, triết lý và sâu sắc của nó. Tác giả đã đem đến cho bạn đọc bức tranh sống động
cùng những cảm nhận mới về giới trí thức Việt Nam thời kì mở cửa. Thời đại cơng
nghiệp thật mn màu và con người bươn chải trong đó cũng mn vẻ, khơng ai giống
ai, và cơ hội mỗi người mỗi khác. Nguyễn Việt Hà đã dựng nên những nhân vật mang
tính khá điển hình như Hồng, Bình, Tâm, Lâm, Sáng, Nhã…Mỗi người được khắc
hoạ đầy đủ về tính cách, thế giới nội tâm đặc biệt là chí hướng. Mỗi người có quan
điểm sống riêng. Người thì xu thời, người ngay thẳng, người sống bằng lý trí, người

sống bằng tình cảm… tất cả góp phần tạo nên bản chất, hiện thực của đa số giới trẻ
ngày nay.
Không chỉ ở sự phong phú của các chủ đề - tình yêu tình bạn tình anh em, các
lĩnh vực - tơn giáo chính trị kinh tế văn hóa, các tầng lớp xã hội - thị dân cơng chức
lãnh đạo trí thức bn lậu. Khơng chỉ ở chất ngổn ngang của dĩ vãng, hiện tại, tương
lai. Không chỉ ở sự chồng chéo của những Hà Nội, Hải Phòng, Đồ Sơn, Sài Gòn, Huế,
Berlin, Dresden, Ba Lan, Tiệp. Mà “Cơ hội của Chúa” với những khái quát tài tình, là
sự khẳng định chân giá trị cuộc sống thời đại mới. Biết bao bon chen, kỳ thị, cùng biết
bao ước mơ khát vọng cao đẹp được bày tỏ nhưng cái tài của nhà văn là đằng sau
những sự kiện, những éo le của số phận, khơng thấy sự bình phẩm của tác giả mà
Nguyễn Việt Hà dành khoảng lặng ấy cho chính độc giả.


8

II. TIẾP NHẬN TÁC PHẨM “CƠ HỘI CỦA CHÚA” CỦA
NGUYỄN VIỆT HÀ
Bằng một lối viết hoạt và nhiều suy tưởng, tác giả “Cơ hội của Chúa”dựng lại
một thời đoạn lịch sử nhiều biến động của đất nước, ở nơi mà các nhân vật - thị dân
của anh vật vã đi tìm lẽ sống bên những chai rượu Tây, những cú áp-phe, và đơi ba
mối tình lãng mạn pha chút hiện đại. Thuở giao thời giữa hai cơ chế đã tạo ra nhiều,
rất nhiều nguy cơ đẩy sự tha hóa của con người. Là những trí thức, các nhân vật trong
“Cơ hội của Chúa” loay hoay lựa chọn, rồi cuộc đời đưa họ đến những số phận - bi
kịch khác nhau. Trong đề tài này, chúng tôi tiếp nhận tác phẩm theo hướng : “Bi kịch
con người trí thức trong tác phẩm “Cơ hội của Chúa”của Nguyễn Việt Hà”.
1. Hình tượng người trí thức trong giai đoạn đổi mới :
Có những con người cứ như họ chơn sâu trong lịng một tình u vơ bờ với
nhân loại, một nhân loại mà họ đau xót, đơi lúc khinh ghét, nhưng khơng bao giờ
ngi ngoai một tình thương xa xót. Có những người cứ như họ nuôi mãi một mối căm
hờn với nơi chốn sinh ra, căm hờn vì họ trót là người Việt, giận dữ vì thân phận nhược

tiểu, để rồi thốt lên những lời lẽ cay độc nhất và cũng ngu ngốc nhất. Ta bắt gặp những
kiểu người như vậy, buồn lịng thay, đó chính lại là người trí thức trong giai đoạn
chuyển mình của đất nước được thể hiện rõ qua hình tượng các nhân vật trong tác
phâm “Cơ hội của Chúa” của Nguyễn Việt Hà.
a. Kiểu trí thức bất đắc chí :
Văn chương đích thực là văn chương để lại dấu ấn trong lòng người đọc. Và với
lối viết mới - để tự nhân vật bộc lộ mình, đặc biệt là nội tâm, nhân cách, nhà văn đã
khiến cho những vấn đề tưởng như khô khan, những sự kiện tưởng như rời rạc trở nên
sống động, có hồn. Đằng sau đó vẫn là ý nghĩa nhân văn, là tình yêu cuộc sống, khát
vọng sống chân chính mà nhân vật Hồng đã được nhà văn gửi gắm khơng ít ý tưởng.
Một trong những phẩm chất của người trí thức là rất nhạy cảm và có khả năng đối
thoại với im lặng, đối mặt với sự cô đơn. Bản chất của nhân vật Hoàng trong ”Cơ hội
của Chúa” là trong trắng, nhưng khi anh ta phải đối diện với cuộc đời nhiều hoen ố và
tệ bạc thì bị ăn địn.
Hồng - nhân vật quán xuyến từ đầu tới cuối cuốn sách - sống vật vờ bên lề
cuộc sống như một trí thức bất đắc chí. Tuy nhiên, đây là nhân vật được tác giả ưu ái
nhất : Hồng có mặt ở cảnh đầu và cảnh cuối, những cuộc trùng phùng - với em trai và
bạn gái - đầy xúc động. Rất nhiều khi cái nhìn của người-kể-chuyện trùng với cái nhìn
của Hồng. Những trang mở đầu khi Hồng ra đón Tâm tại sân bay chúng minh điều
đó: “Hồng uống lơ đãng nhìn, người ngồi cạnh xoay lại. Một trung niên mặc áo đại
cán, cổ áo cáu bẩn (…) Ông ta đứng lên, hóa ra hơi lùn, lon ton chạy về phía đầu
hành lang”. Tương tự, những bức họa hấp dẫn, sắc sảo, dài hàng chục trang về Hải
Phòng và Sài Gòn được tả bằng giọng của người-kể-chuyện nhưng qua con mắt của
Hồng: “Hồng đến Hải Phịng vào khống chín giờ (…) Hải Phịng là thành phố trẻ,
nó loay hoay đương lớn (…) Các thiếu nữ trơng thơ, nói giọng hơi đục…”, “Bầu trời
Sài Gịn thống cao và ít mây, về chiều nắng nhạt nhanh (…) Hoàng đi bộ từ Bưu điện
thành phố”.
Về cuộc sống nội tâm, Hoàng cũng là một sáng tạo lớn của Nguyễn Việt Hà.
Thay vì hành động, Hồng uống rượu, chiêm nghiệm và lặng lẽ ngắm nhìn thế giới
xung quanh. Hồng thu hút ta vì những ám ảnh, trực cảm tơn giáo của anh, nhất là tính



9
ngờ vực: tín đồ của Jésus, nhưng Hồng ln hồi nghi về Thiên chúa giáo, đồng thời
anh tìm hiểu Thiền giáo, Phật giáo. Bế tắc cùng quẫn nhưng không bao giờ dứt, Hoàng
khác một số nhân vật của Nguyễn Việt Hà, Vọng trong mãi không tới núi chẳng hạn những kẻ tìm thấy trong tơn giáo nơi ẩn náu giữa cuộc đời trần tục. Không hoang
mang, không mộng mị nhờ quan niệm thực dụng và duy vật đó, họ đến với đạo bằng
một niềm tin vững chắc, mù quáng. Nhưng Hồng khơng vậy. Ở anh dường như tri
thức vẫn thắng đức tin: “Ở mức độ nào đó tơi là người đọc sách. Có những thơng điệp
của Thiên Chúa tơi địi thực chứng”.
Ln đứng trước “sự đã rồi”, Hồng để mọi việc và mọi người quyết định thay
mình. Trong khi gần như bất cứ ai cũng có quyền định đoạt cuộc sống của mình,
Hồng bất lực trước cả ý định tự tử - “Tơi là một tín đồ cơ đốc giáo và giáo lý không
cho phép tôi tự hủy hoại” . Cứ như vậy, Hoàng tham dự vào những thất bại của đời
mình, chấp nhận hiện tại và khơng dự tính tương lai. Lột tả tinh tế và sâu sắc tính cách
nhân vật, được viết với tiết tấu và ngữ điệu rất riêng của Nguyễn Việt Hà, lời suy ngẫm
của Hoàng ở gần cuối tiểu thuyết là một trong những tứ văn đẹp nhất trong “Cơ hội
của Chúa” - “Mai cậu định làm gì, ừ nhỉ, mai tơi phải làm gì. Tôi vẩn vơ đi bộ trên
vỉa hè ngân ngấn những vệt nước của trận mưa vừa tạnh. Đã nhiều lần tơi khơng biết
ngày mai sẽ làm gì” . Nhân vật phản anh hùng lớn nhất trong lịch sử văn học Việt
Nam, Hoàng của Nguyễn Việt Hà đánh dấu đỉnh cao của một nền văn học thời bình.
Hồng cịn là biểu tượng của một thẩm mỹ mới, không kém dũng cảm trong khi phần
lớn độc giả Việt quá quen với các nhân vật văn học, dù ác hay thiện, đều phải có hành
động và mục đích rõ ràng: ngay Chí Phèo của Nam Cao, ở nấc thang cuối của xã hội,
sống cuộc đời dở người dở ngợm, cịn có ham muốn báo thù. Trong khi Tâm, Nhã,
Thủy chắc chắn sẽ đi tìm khát vọng mới sau những cú sốc đầu tiên, Hoàng lại tiếp tục
một cuộc sống mãi mãi là dang dở, không tốt không xấu, không bi quan không lạc
quan, một cuộc sống như nó vốn thế.
Nguyễn Việt Hà cịn cho Hoàng đi xa nhất, so với các nhân vật khác, trong lĩnh
vực viết: khơng chỉ độc thoại, Hồng cịn là nhà văn. Và đó cũng là nơi duy nhất

Hồng không thất bại, cứ như thể những thua thiệt trong tình u là điều kiện thành
cơng trong nghệ thuật. Rõ ràng văn học đã góp phần đào sâu thêm khoảng cách giữa
Hồng và Thủy, là điều mà cặp tình nhân này khơng chia sẻ được với nhau. “- Anh có
viết truyện ngắn à. - Lâu rồi. - Sao anh không đưa em xem. - Em chẳng thích đâu (…)
- Anh không yêu em”, Thủy viết trong nhật ký trước khi kết luận: “Tự nhiên tôi buồn
bực. Lúc ấy tôi không hiểu nhưng về sau thì tơi biết. Hồng chưa hồn tồn là của tơi,
chưa bao giờ. Ban nhạc tiếp tục chơi. Mặt Hồng khơng rõ nét. Xa xơi. Lờ mờ” .
Hồng đã khơng tìm được sự giải thốt của cuộc đời trong tình u với Thuỷ, Nhã
từng nói “Hồng mới là gã cô đơn tội nghiệp, cô đơn cả trong tình yêu”. “Cơ hội của
Chúa” dành nhiều trang để đăng lại bản thảo hai truyện ngắn, trong đó bằng giọng
điệu lúc thì hài hước châm chọc, lúc lại dịu dàng và có hậu, Hồng phác thảo chân
dung các triết gia - Trang Tử, Huệ Tử, Tuệ Trung Thượng Sĩ. Dường như qua hai tác
phẩm của Hoàng, Nguyễn Việt Hà muốn mở rộng những quan điểm rất riêng của anh
về tôn giáo, về mối quan hệ của người trí thức với thế sự và cuộc đời. Qua Nhã, Lâm,
Thủy, chúng ta được biết thêm về số phận các sáng tác của anh. Trước hết, Hoàng
thường viết - và viết tay - vào những lúc “chán”, “buồn đến nỗi không uống được cả
rượu”, sau đó bỏ xó hoặc đốt đi, nhưng đơi khi gửi đăng. Nhã là người đánh máy lại tập truyện ngắn đầu tiên của Hoàng “chừng mười hai cái”, là do Nhã nhặt lại từ các
“tuần báo”. Người đọc cịn hay rằng truyện ngắn duy nhất Nhã thích được giải


10
“truyện ngắn hay trong tháng” của báo Sơng Hương, Hồng lấy bút danh Phương
Nhã.
Tuy nhiên, Hồng cịn những hạn chế khơng thể nào tránh khỏi. Nói về Hồng,
người khác khen anh có tài, nhưng ngồi tài chơi ghita và viết vài truyện ngắn do tác
giả gán vào, người đọc không rõ anh cịn có tài năng gì khác! Hồng học giỏi hay
không khi Du - một người bạn thân của Hồng đã nói “điểm số của mày (Hồng) tỷ lệ
thuận với những lần viếng thăm nhà riêng (của giáo viên)” ? Anh đệ tử Lưu Linh nhấn
chìm mình trong rượu, tự làm bạc nhược mình bằng mớ lý thuyết hiện sinh quá đát:
“Mọi thứ từ từ mủn. Cuộc sống lặt vặt chưa đủ mạnh để tạo áp suất ép vỡ bất cứ cái

gì. Mọi người loay hoay trong sự lờ đờ. Và cũng chán lắm rồi, chán cả những cái gọi
là sắc sảo nhất”. Đâu đó trong con người, Hồng có một lương tâm trong sáng, nhưng
anh thiếu một ý chí. Cịn căn cứ vào hành động thì Hồng là sự cộng hưởng đơi khi
đến nghịch lý giữa một trí thức với một gã bụi đời. Hồng có thể đứng ra bênh vực kẻ
yếu và cũng có thể xịt ngọn lửa ga vào mặt kẻ Hồng khơng ưa rồi thản nhiên bỏ đi!
Hoàng vừa đáng thương vừa đáng giận. Chỉ có điều trong khi để Hồng dị dẫm vào
thế giới của Tân ước, Thiền luận… tác giả đã biến suy tư của Hoàng thành “bản thu
hoạch” của tác giả sau khi đã nghiên cứu phần nhập môn vào Kitô, Suzuki, Trang Tử,
Kinh Dịch! Rồi từ cái mớ hổ lốn sống sít ấy, tác giả để cho Hồng nhìn đời, nhìn đồng
loại với con mắt kẻ cả, mỉa mai của người tình cờ ngộ ra chân lý từ những bữa rượu
đến tàn canh. Tác giả khéo léo xây dựng hình tượng Hồng với đầy đủ những phẩm
chất đáng q. Và tác giả có hơi tham lam khi xây dựng một hình tượng như Hồng và
nó đã phản tác dụng. Chẳng có gì đáng trách khi một tín độ Thiên Chúa tin kính Ngài ,
nhưng như vậy liệu có đủ chưa? hay chính do sự nhu nhược của Hồng đã đẩy Thủy
vào con thuyền không đáy mà bên kia bờ là một chuỗi dài buồn bà và thiếu vắng tình
yêu. Chúa đã nhiều lần có cơ hội, Hồng phi chấp nhận sự ban ơn của Chúa cũng như
chính anh đã phụ lịng Ngài. Nguyễn Việt Hà cho mọi người thấy bộ mặt thật của xã
hội nhưng chưa cho chúng ta thấy Nhã nhìn Hồng ở góc cạnh nào. Vì tính chân thật
ư? Liệu Hồng có thật sự chân thật, một người khó được đánh giá là chân thật khi đó
là người “hay khen”, chính Nhã cũng đã từng nhận xét như vậy.
Xây dựng một nhân vật như Hoàng là điểm chung của nhiều tiểu thuyết Việt
gần đây, báo hiệu một hiện tượng của văn học Việt Nam đương đại. Đầu tiên phải kể
đến “Nỗi buồn chiến tranh” - Bảo Ninh (1991). Chính trong cuộc lần về quá khứ mà
Kiên của Bảo Ninh tìm thấy “thiên mệnh” văn học của mình: ra khỏi chiến tranh, bị
ám ảnh bởi những kỷ niệm đau thương, Kiên trở thành nhà văn và dự định viết tiểu
thuyết đầu tay kể về cuộc chiến như chính anh đã sống - Kiên quết định kể hết, cả
những “khoảng khuất khúc mà trí nhớ do dự mỗi khi buộc lịng phải chạm đến”. Nhờ
vậy, chúng ta tham dự vào những khoảnh khắc tuyệt vời của sáng tạo với nhiều phút
“thần hứng”, thúc bách, thăng hoa, nhưng khơng ít ngờ vực và nhiều băn khoăn, chậm
chí đau đớn, một tâm trạng mà Bảo Ninh gọi là “mấp mé bờ vực”. Còn Nguyễn Việt

Hà thì cho rằng đó là “những đam mê và khát vọng lớn dần dần thui chột khi liên tục
bị vây bởi những điều tủn mủn”.
b. Kiểu trí thức tức thời :
Nếu Hồng là nhân vật trung tâm thì tác giả đã thất bại vì cái trục xuyên suốt
của tác phẩm đã khơng gánh nổi những gì được tác giả chất lên vai. Nghĩa là do quá
chăm chút gửi gắm, do dồn quá nhiều tâm sức vào Hoàng, tác giả làm cho nhân vật trở


11
nên xộc xệch, giảm thiểu tính biểu cảm. Trong hồn cảnh đó, một vài nhân vật khác
nổi trội hơn dù không được tác giả chú ý nhiều, mà Tâm và Nhã là một ví dụ.
Tâm - một thanh niên đang học cuối năm thứ tư ban Kinh tế kế hoạch, bỏ học
để đi lao động hợp tác ở Đông Đức, nhưng kỳ thực là để buôn lậu. Về nước, Tâm xây
nhà, cưới vợ và lập công ty sản xuất hàng nhựa, nhưng những khát vọng lớn và sự lanh
lẹ, liều lĩnh cũng không thể trụ đỡ trong một đất nước trong buổi chập choạng đổi
mới : “Công ty ký được ba hợp đồng có lãi, cường độ sản xuất cao mà cung vẫn chưa
đủ cầu. Nhưng cái gì đến phải đến. Khơng khí lạc quan phủ đầy ba tháng rồi tắt ngấm
(...). Vấn đề đầu tiên vấp phải khá cổ điển: Nguồn vốn (...). Cú vấp thứ hai mang tính
quyết định là mặt trái của nền kinh tế thị trường, 93% các công ty tư doanh chọn sự
lừa đảo làm kim chỉ nam của hoạt động nghiệp vụ. Khoảng hai năm sau bằng sự dốt
nát thượng thặng của các quan chức ngân hàng, hệ thống hợp tác xã tín dụng nhân
dân ra đời. Nó chết yểu một cách logic để lại danh thơm là vụ bể bạc lớn nhất thế kỷ
của nền tài chính. Nó xứng đáng là cú song phi cước, liên doanh giữa Ngân hàng và
Quỹ tín dụng, đá đúng vào trung tâm dưới của các cụ về hưu. Các công ty, đặc biệt là
những công ty hay làm từ thiện, lộ rõ bộ mặt bất thiện”.
Còn Nhã, một người đàn bà sắc sảo lại là con một quan chức cao cấp trong
ngành ngoại giao. Vậy mà số phận đã quăng nàng ra giữa đời sau cú lừa của người u
- người thầy đầy tơn kính. Cũng vì có cá tính và bản lĩnh, cơ lao vào thế giới ngầm và
trở thành “bà trùm”.
Nhã và Tâm dù hai con thiêu thân trong cuộc chạy đua theo đồng tiền, cùng coi

Hoàng là thần tượng, cùng say mê áp-phe, nhưng người đàn bà thích bn lậu cịn
người đàn ơng mộng làm giầu chân chính. Nhưng khác với những loại người suy đồi
đạo đức, Tâm và Nhã vẫn giữ được trong mình những yếu tố cơ bản của đạo đức làm
người.
Hai nhân vật này chính là kiểu trí thức tức thời, vận động theo thời cuộc và sau
này chắc sẽ trở thành những doanh nhân lớn của đất nước với những mánh mung và
những giới hạn đạo đức tự đặt ra cho mình.
c. Kiểu trí thức nhu nhược trước những biến thiên của cuộc đời :
Đây là một đoạn Thủy viết: “Tơi đã hai mươi mốt tuổi và cịn hai tháng nữa tôi
tốt nghiệp đại học. Tôi đã yêu ba năm, đã có nhiều hạnh phúc, đã có nhiều kỷ niệm.
Tơi nhìn mọi sự chậm rãi hơn và đã có một vài điều hư vơ quấy rầy trí óc (…) Tại sao
liên miên những ngày tháng này tôi thấy trống rỗng”. Đây là Nhã nhìn Thủy ở hai thời
điểm khác nhau: “Tơi trơng Thủy cũng dễ mến, có vài nét phù phiếm (…) nơng nổi” ,
và “Ở trong sâu, Thủy có tố chất của người kinh doanh. Thời gian sẽ cho thêm bản
lĩnh. Có lẽ nửa năm nữa cơ bé sẽ có chút tiền và chắc chắn sẽ hết dịu dàng” .
Ta có thể nhận thấy giữa Nhã và Thủy là hai mảng đối lập của tính cách. Hai
người đàn bà, hai vẻ đẹp, hai sắc thái, một lão luyện một trong trắng, nhưng cả hai đều
liên tiếp thất bại trong tình u. Thuỷ cịn trẻ, và cơ mong đợi nhiều thứ thiết thực hơn
trong cuộc đời ngồi tình u. Trong tình u, Thuỷ ln muốn “đạt đến chân lý một
cách minh bạch khúc chiết”, trong khi người Hoàng lại là người nhìn mọi sự với con
mắt hồi nghi. Để cuối cùng, số phận của Thuỷ bơ vơ bên xứ người “Em chưa qua
hẳn được sông, vẫn loay hoay trên con thuyền đang cháy. Chỉ mong là mình đừng
chìm ở giữa dịng”. Cơ là mẫu phụ nữ bình thường với những mong ước giản đơn, và
những tính tốn đã đẩy cơ vào sự cô độc lạnh lẽo, trong bức thư gởi cho Nhã, cô viết


12
“bờ bên kia là thiên đường hay địa ngục em đâu có quan tâm. Nhưng em biết ở đó,
mình vĩnh viễn khơng hạnh phúc”.
Thuỷ là kiểu phụ nữ bình thường ta luôn bắt gặp trong cuộc sống thường nhật.

Cuộc đời cơ sẽ ra sao? Điều đó phụ thuộc vào Thuỷ mà thơi.
d. Kiểu trí thức biến chất trong giai đoạn giao thời của đất nước :
Trong con người có tính thiện (“nhân chi sơ tính bản thiện”), nhưng khi phải
đối mặt với hiện thực nghiệt ngã của xã hội, không ít người đánh mất mình. Nếu để ý,
trong nhân vật Nhã và Tâm dù có trượt ngã đến thế nào, người ta sẽ thấy một chút gì
đó của những day dứt, trăn trở. Cịn một số nhân vật trí thức phụ khác, họ cũng lao
vịng quay chóng mặt của cuộc sống, và họ đánh mất mình. Nhiều người vẫn ơm trong
mình nhiều khát vọng nhưng khi va đập với cuộc sống, vơ tình nó bị tầm thường hố.
Lâm, Bình, Sáng, không xuất hiện với tần số lớn trong tác phẩm, đời sống tinh
thần của họ không làm tác giả chú ý, có lẽ nó khơng có gì phức tạp hay bất ngờ.
Nhưng đây chính là loại trí thức biến chất của thời đại mới.
Trần Bình là một người có thể nói là dẫn dắt cho Tâm vào thương trường với
đầy đủ tố chất : con sếp lớn, “chơi đẹp”, hào phóng, và đặc biệt là rất “khơn ngoan”.
Nhưng khi để Bình bộc lộ mình, Nguyễn Việt Hà đã đặt nhân vật này vào tình u.
Bình có u say đắm khơng ? Cái đó khơng phải là vấn đề, nhưng với những thói quen
trên thương trường, Bình đã khơng ngần ngại bất chấp mọi thủ đoạn để đoạt được
Thuỷ. Mọi hành động của Bình đều dùng xảo thuật. Bình yêu, nhưng những bức thư
của Bình khơng thành thật, chúng chỉ nằm trong chiến lược thu phục Thủy. Chỉ xem
Bình hiện ra như một “phiên bản các tài tử nam đóng vai chính trong những phim
lãng mạn Hồng Kơng. Trắng trẻo. Sống mũi thẳng rất hợp với kính Tây Đức”, người
đọc đủ đốn được những gì có thể xảy ra ở bên trong của cái bề ngoài này. Với
Nguyễn Việt Hà, cách thể hiện Bình rõ nhất là cho anh ta vào vai một vở kịch tồi với
“Chàng”, “Nàng” và “vài ba phiên bản của Picasso và Henry Matisse”. Điều đó đã
lột tả rõ nhất bản chất của Bình.
Lâm lại hiện ra là một con người “khuôn mặt đẹp, đa cảm và có tri thức (...)
Qua cặp kính trắng, hắn cố tạo ra cái nhìn thẳng thắn. Sự giận dữ chính trực rất đúng
lúc, đúng chỗ (...) tất nhiên nhà phải có đàn piano. Tất nhiên trên tường phải treo hoạ
Phẩm Étranger de la famme”. Với một bức tranh toàn cảnh như vậy, Lâm trở thành
“thằng đểu lỗi lạc”. Một người vô học đểu, đó là điều dễ nhận thấy. Một thằng có tri
thức đểu, đó là một thằng khốn nạn của đời. Chỉ vì danh vọng, vì học hàm phó tiến sĩ,

Lâm sẵn sàng bán đứt tình yêu và đứa con cịn hồi thai, bán đứt những giá trị nhân
phẩm cuối cùng của mình để đổi lấy “một hơn nhân phẳng phiu, chuẩn mực”. Sự tha
hoá ấy đã bị quả báo. Cả cuộc đời cịn lại của Lâm chìm trong sự hối hận triền miên.
Đặc biệt Sáng, một thanh niên con nhà đầy quyền lực, tri thức và tiền bạc, chỉ
được kể qua nhật ký của Hoàng và Nhã. Cuộc tồn tại văn học của anh ta cũng rất ngắn:
xuất hiện muộn trong tác phẩm, Sáng nhanh chóng ra khỏi trái tim Nhã với chiếc mặt
nạ cầm tay.
Ngoài 3 nhân vật được nhắc đến nhiều là Trần Bình, Lâm, Sáng; trong tác phẩm
còn lướt qua rất nhiều nhân vật mà qua đó, ta nhận rõ hơn sự biến chất của trí thức
Việt Nam trong xã hội đương thời. Đó là những vị quan chức cấp cao lẫn cấp thấp; từ
ngoại giao, tỉnh uỷ, hải quan, công an cho đến nhân viên văn phịng qn; từ doanh
nhân đến những người làm chính trị ... Đó là ba của Trần Bình, của cơ ca sĩ Cam Ly,
của Nhã ... Tất cả bọn họ đều bốc mùi tiền và danh vọng. Họ bất chấp mọi thứ để đạt


13
được điều mình muốn. Một đoạn văn ngắn viết về ba của Trần Bình nhưng đã hoạ nên
được một vị trí thức - quan chức cấp cao đã bốc mùi thối rữa vì tiền : “hộ chiếu đỏ che
chở những đồng tiền xanh. Quan chức mà giàu kể cũng phải. Báo chí thì vạch vịi chửi
bới. Dư luận xã hội thì bì tị rủa xả, ở mức độ nào đó là bất công. Mọi người phải hiểu
và nên thông cảm với những nhọc nhằn, cực khổ của con đường làm quan. Hoạn lộ có
những tiêu chuẩn của nó. Tài đức có thể khơng cần lắm nhưng nếm mật nằm gai, kiên
trì chịu nhục là điều kiện tiên quyết. Đây là thiên bẩm khơng phải ai cũng có” . Hay
đoạn viết về ba của Cam Ly đã lột tả được toàn bộ những mưu mẹo và quá trình biến
chất của một người bộ đội từng chiến đấu vì lý tưởng cũng như sự đổi chiều của dư
luận xã hội : “Tiền và hàng qua tay ông nhiều quá. Ba năm sau, ơng phó giám đốc bị
các đồng chí mình bắt vì tội tham ô. Hai tháng điều tra nghiêm túc, Viện kiểm sát
khơng thể truy tố được vì cả ban lãnh đạo tỉnh đều là bạn nhậu của ông. Trắng tội,
nhưng cựu nhân viên phịng thuế thấy chán lắm. Ơng làm giàu bằng cách khác, buôn
lậu. Với kinh nghiệm chống buôn lậu sẵn có cộng thêm tài năng đương độ chín, trong

vịng mười sáu tháng ơng đã chi phối tồn bộ hệ thống giá cả những mặt hàng chính
yếu trong tỉnh. Trước khi đột tử, ông đã kịp làm hỏng một Phó Bí thư Tỉnh uỷ, ba thiếu
tá Cơng an và hai mươi mốt quan chức lớn nhỏ trong các ngành cơng thương nghiệp.
Nếu khơng có sự tranh giành tài sản của bốn bà vợ ở ba miền và khoảng một tá bồ nhí
suốt dọc chiều dài đất nước thì người ta không làm sao rõ được những hoạt động mờ
của ông. Sở Văn hóa đốt bánh pháo ba mét ăn mừng vì st nữa duyệt kế hoạch dựng
tượng ơng”.
Ít nhất Nguyễn Việt Hà qua cuốn “Cơ hội của Chúa”đã diễn tả một phần cuộc
sống ở Hà Nội vào cuối thập niên 80 và đầu 90, với cái bức xúc, sôi động, quay cuồng
của một xã hội đang trải qua cơn sốt vỡ da. Trong một xã hội xuống dốc, đạo đức vắng
bóng và khủng hoảng lý tưởng đó, dĩ nhiên tiền được phong thần, lên ngôi. Nguyễn
Việt Hà viết thẳng thừng, khơng rào đón : “Muốn biết rõ về ai nên nhúng người ấy
nhiều lần vào tiền. Cái thứ dung dịch siêu thặng này làm trôi đi tất cả những màu mè
bọc ngoài. Đạo mạo trở nên hau háu lỗ mãng. Dịu dàng trở nên chua ngoa cướp giật.
Lịch sử nhân loại chứng kiến số người tự tử vì tiền gấp mười tám lần số người tự tử vì
tình. Có phải thế chăng mà đến thời kinh tế thị trường nền văn minh của chúng ta chết
sạch những nhà đạo đức thật”. Đây là nhóm trí thức khơng dám chấp nhận dấn thân
hoặc đã chấp nhận dấn thân. Họ trở thành những trí thức tham lam, ham hố danh lợi.
Họ đáng sợ hơn đáng trọng. Cho tới trang cuối cùng, những nhân vật của cuốn tiểu
thuyết vẫn chễm chệ hoặc lơ lửng giữa cuộc sống u ám, nặng nề. Mọi khả năng cịn để
ngỏ và nếu họ khơng làm cho mình tốt lên thì Chúa cũng khơng giúp được gì cho họ.
2. Nghệ thuật khắc hoạ hình tượng nhân vật độc đáo :
“Cơ hội của Chúa” cuốn hút chúng ta trên hết bởi nghệ thuật của nó. Tiểu
thuyết của Nguyễn Việt Hà là một lò thử nghiệm văn phong khổng lồ trong đó ta gặp
lối kể chuyện ở ngơi thứ ba, thể loại tự sự ở ngôi thứ nhất, văn nhái, truyện lồng
truyện, tiểu luận. Đặc biệt, bằng những hình thức rất khác nhau như đối thoại, độc
thoại, nhật ký, thư, sáng tạo văn học, các nhân vật không ngừng lĩnh chiếm sân khấu
“Cơ hội của Chúa”, gạt người kể chuyện sang bên, để tự bày tỏ cái “tôi” của mình. Đó
là những trích đoạn tự sự hay nhật ký, đăng rải rác trong tiểu thuyết, của bốn nhân vật
chính - Hoàng, Tâm, Nhã, Thủy. Độ dài của chúng mỗi lần đều trên dưới hai mươi

trang - tổng cộng lên đến gần hai trăm trang - và càng về cuối truyện, tần số xuất hiện
càng lớn. Dường như đó là lý do tại sao tác giả ít chú ý đến hình thức các nhân vật, mà


14
chỉ chăm chút những “chân dung nội tâm” này. Nếu như trước sau ta chỉ biết rằng Nhã
là “một thiếu phụ xấp xỉ ba mươi. Vẻ đẹp đầy sắc sảo tri thức”, ta lại được đọc đến
sáu mươi trang viết của cô. Không cho độc giả thấy Tâm cao hay thấp, béo hay gầy,
tóc tai quần áo ra sao, nhưng Nguyễn Việt Hà sẽ cho ta đọc liền hai mươi bảy trang tự
sự của anh.
Việc những trích đoạn này nhằm mục đích gì? Cụ thể hơn: thử nghiệm của
Nguyễn Việt Hà dẫn đến những hệ quả nghệ thuật nào cho tác phẩm của anh?
Viết nhật ký hay độc thoại nội tâm khơng là thói quen và nhu cầu của bất cứ ai.
Nó chỉ có ở những người đạt đến một trình độ văn hóa nào đó, có ý thức về cá nhân,
lại ưa tâm sự, không phải với người khác mà với chính bản thân. Hồng, Tâm, Nhã,
Thủy, bốn nhân vật chính của Nguyễn Việt Hà, giữa những lo toan vật chất, đều ngối
lại phía sau gặng hỏi dĩ vãng nhưng cũng muốn hướng tới một cái gì khác, chưa hẳn là
Lý Tưởng, có lẽ là một vẻ đẹp tinh thần. Những khoảnh khắc đó là những dấu lặng
trong tâm hồn họ, những ốc đảo trong cuộc sống đời thường. Điều này dễ hiểu với
Hoàng và Thủy, những type người “lãng mạn” đã đành. Nhưng nó lại có ở Tâm và
Nhã, những con người của hành động, càng làm nổi rõ tính cách thật của hai nhân vật
này.
Giống như những tác phẩm viết ở ngôi thứ nhất, “Cơ hội của Chúa”, qua nhật
ký hay độc thoại của các nhân vật, đưa chúng ta đi thẳng vào thế giới bên trong mà
không cần qua trung gian của người kể chuyện.
Tuy nhiên, lối kể chuyện này của Nguyễn Việt Hà khác xa với “Thiên sứ” hay
“Tướng về hưu”, là những tác phẩm viết thuần tuý ở ngôi thứ nhất. Trước tiên ở văn
phong: đó là những nét bút tự nhiên khơng mài giũa, đôi khi chỉ ghi lại một cảm xúc
mờ nhạt, một tình cảm khơng rõ nét, trong khi “Thiên sứ” với một cái “tôi” chạy suốt
tác phẩm, buộc phải khúc chiết, thuyết phục, được cấu trúc cơng phu. Sau đó ở nội

dung: nhật ký hay tự sự bao giờ cũng xốy vào cá nhân người viết, tự phân tích, tự tìm
hiểu, phiêu lưu trong tâm hồn của chính mình, trong khi “Tướng về hưu” là lời của
người con kể về người cha. Hơn nữa “Cơ hội của Chúa” là sự tồn tại song song của
ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, như thế nó cho phép người ta nhìn ở những góc độ khác
nhau. Đi từ “anh ấy”, “chị ấy” sang “tơi”, người đọc hóa thân vào nhân vật, sống cuộc
sống của nhân vật và khám phá thế giới qua con mắt của nhân vật. Ngược lại, đi từ
“tôi” sang “anh ấy”, “chị ấy”, ta bất ngờ đứng về phía người-kể-chuyện, thường chỉ
dừng lại bên ngoài, để đánh giá nhân vật một cách khách quan hơn. Việc “Cơ hội của
Chúa” chép lại nhật ký và độc thoại của bốn nhân vật khác nhau càng cho chúng ta
một cái nhìn tinh tế, ít đơn điệu: một nhân vật sẽ được nhìn ở ba cấp độ khác nhau, để
có những chân dung đa dạng, đơi khi trái ngược nhau.
Đây là Hồng qua con mắt người kể chuyện: “Hồng ấn chng ngơi nhà hai
tầng…”. Qua con mắt Thủy: “Ở anh có cái gì là lạ. một nét yếm thế của những kẻ duy
tâm (…) Ở Hoàng thiếu dũng mãnh”. Qua con mắt Tâm: “Tơi và anh trai nhiều sở
thích khác biệt. Nhưng từ cấp I đến cấp III đối với riêng tơi Hồng luôn là thần tượng.
Đến tận giờ người tuyệt vời là thông minh và nhân hậu duy nhất tôi được gặp vẫn là
Hoàng” . Qua con mắt Nhã: “Sự hiện diện của Hồng trên cõi đời này đối với tơi là
một điều kỳ dị. Nếu thật đúng ra cậu ta phải chết yểu. Tơi chưa bao giờ thấy Hồng
dối trá” . Qua con mắt của chính Hồng: “Người tơi lem nhem một nỗi buồn chán. Tôi
loay hoay và tôi làm phiền nhiều người. Tại sao lại thế”.
Để thấy tính xảo diệu trong lối kể chuyện của Nguyễn Việt Hà, cần nhớ rằng
trong “Tướng về hưu”, ta chỉ được nhìn ơng tướng qua mắt con trai - một con mắt


15
chân thành, yêu thương nhưng đôi lần giễu cợt - mà không bao giờ được nghe ông thổ
lộ riêng những suy nghĩ hay tình cảm thầm kín của mình.
Khơng chỉ các nhân vật mà các sự việc trong “Cơ hội của Chúa” cũng được
nhìn ở nhiều góc độ khác nhau. Các thông tin đến từ người-kể-chuyện hay độc thoại,
nhật ký các nhân vật sẽ bổ sung nhau, đối chiếu nhau. Buổi gặp gỡ tình cờ trong quán

rượu ngày mới quen chỉ được Thủy tả trong vài hàng, sẽ được Hoàng kể trong nhiều
trang. Bằng cách này, Nguyễn Việt Hà phá bỏ lối diễn đạt thời gian đơn chiều thường
có trong các tác phẩm viết theo truyền thống.
Mặt khác, trong “Cơ hội của Chúa”, quá khứ được tái hiện lại không theo trình
tự trước-sau, mà hồn tồn theo trí tưởng tượng chủ quan của nhân vật. Trong dòng tự
sự của Thủy, ký ức và hiện tại miên man chảy, không một từ nối, không một lời
chuyển tiếp. Thực tế một quan bar ở Hải Phòng đột ngột đứng giữa hai kỷ niệm về
Hồng ở hai thời điểm khác nhau: “Khơng có chuyện gì tơi trách Hồng cả đặc biệt là
chuyện tiền nong. Nhưng cứ kéo dài như vậy mãi ư hả anh, anh của em. Gã trai ở bàn
bên cạnh mạnh dạn đi sang mời tôi nhảy. Duy nhất một lần Hồng có rủ tơi ra vũ
trường. Sàn nhảy ấy là bạn của Hoàng đấu thầu”. Tùy theo nội dung của độc thoại mà
tác giả quyết định chiều thời gian.
Thời gian trong “Cơ hội của Chúa” vì vậy tan ra từng mảnh, hết dừng, lại lùi,
rồi tiến, cứ thế trong một điệu quay vô tận. Không gian cũng chỉ là những địa điểm
xếp cạnh nhau mà không theo một quy luật nào hết. Đi từ nhật ký này sang nhật ký
khác, độc giả như lạc vào mê cung. Cuộc sống, theo Nguyễn Việt Hà, không phải là
một sợi dây thẳng tắp hay sự tiếp diễn của các sự kiện theo luật nhân quả, mà là tập
hợp những mảng vỡ, những khoảng trống, những âm hưởng. Các nhân vật của anh tạo
cảm giác khơng làm chủ bản thân lẫn tình huống: cách diễn đạt ở ngơi thứ nhất dẫn
đến những cái nhìn giới hạn, họ chỉ kể cho ta nghe những gì trực tiếp chứng kiến hay
nghe nói. Những cái nhìn mang dấu ấn chủ quan của những cái “tôi” khác nhau trong
“Cơ hội của Chúa” cho phép Nguyễn Việt Hà thể hiện một thế giới khơng thuần nhất
mà mn hình vạn trạng, không khép mà mở, không xác thực mà đầy bí hiểm, bất ổn,
hồi nghi.


16

KẾT LUẬN
Nguyễn Việt Hà, nhà văn trẻ đã cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay với nhan đề

thật ấn tượng: “Cơ hội của Chúa” - một tác phẩm gây xôn xao dư luận một thời. Kẻ
khen cũng nhiều, người chê cũng không thiếu. Khi đọc xong “Cơ hội của Chúa”,
chúng tơi có cảm tưởng : xã hội, cuộc sống, con người, văn hóa, đạo đức, nhân sinh,
kể cả niềm tin tôn giáo của dân tọc Việt Nam đã và đang bị đảo lộn tất cả. Mọi giá trị,
mọi lĩnh vực cuộc sống đều được tác giả đem ra mổ xẻ một cách thẳng thắn, đôi khi
đến trắng trợn, khiến độc giả phải cật vấn chính mình và đặt lại giá trị cho cuộc sống
mình trong thời buổi kinh tế thị trường và xu hướng tồn cầu hóa hơm nay. Nhất là
cuộc sống của giới trẻ, dường như họ bị mất phương hướng, mất hết ý nghĩa cuộc đời,
đánh mất tình cảm thiêng liêng, và cả cái nền tảng đạo đức tâm linh thăm thẳm. Cuộc
sống con người chỉ còn là những tháng ngày trống rỗng buông trôi, hoặc cuống cuồng
chạy theo cái bát nháo xô bồ của một xã hội hưởng thụ và tiêu thụ, của nền văn minh
vật chất đổi trao thời mở cửa. Một khi vật chất được lên ngơi, thì mọi thứ đều được
đem ra trao đổi, ngay cả tình yêu và những giá trị tinh thần cao quý nhất cũng được
đánh giá qua nhãn quan vật chất rẻ tiền. Mãnh lực của đồng tiền có thể thay trắng đổi
đen, và chân lý cũng có thể bị lật ngược, nền văn hóa hưởng thụ có thể làm đảo lộn
mọi thứ, như tác giả nhận định: “Ở thời gọi là kinh tế thị trường, cái xấu cái tốt đều
hiện hữu bằng khuôn mặt rất thực”. Ngay cả nhân phẩm, đạo đức của một con người
cũng được cân đong qua giá trị của đồng tiền: “Muốn biết rõ về ai nên nhúng người ấy
nhiều lần vào tiền, cái dung dịch siêu thượng này làm trôi đi tất cả những màu mè bọc
ngoài. Ðạo mạo trở nên hau háu lỗ mãng. Dịu dàng trở nên chua ngoa cướp giật.
Lịch sử nhân loại chứng kiến số người tự tử vì tiền gấp mười tám lần số người tự tử vì
tình”. Người ta chê “Cơ hội của Chúa” có quá nhiều cái tơi ở trong đó, nhưng liệu
trước Nguyễn Việt Hà có ai dám xưng tơi, dám xổ ra những triết lý này nọ... Trước đó,
chỉ có chúng ta, chỉ có nhân dân, khơng có con người như một cá nhân. Nguyên Ngọc
là người đầu tiên nhận ra điều này, khi cho rằng, tới Nỗi Buồn Chiến Tranh, “chúng ta”
mới có tiểu thuyết. Với “Cơ hội của Chúa”, chúng ta có cơ hội của những con người,
và những nỗi buồn vui của họ.
Nguyễn Việt Hà đã viết : “Con người tồn tại cùng những thói quen. Ðó là những
mảnh của chính mình bị chắt lọc qua phễu thời gian, đóng cặn lại. Nhiều khi biết là
dở là xấu nhưng khó bỏ”. Đây cũng là điều tác giả chờ đợi ở một thế hệ trí thức trẻ

hơn, hiểu biết và dám nghĩ, dám sống hơn với cuộc đời và cũng dám từ bỏ những khối
ung nhọt của chính mình. “Cơ hội của Chúa” cho ta thấy một cách viết khác, phổ biến
hơn trong những người viết trẻ, đó là viết như trong lịng họ có một nỗi khát khao
khơng được giải thốt đối với những cái phù phiếm của cuộc đời, khát khao vì những
gì họ thèm muốn nhưng chưa bao giờ có được trong cuộc đời thực. Từ một trí thức bất
đắc chí như Hồng, đến một kết cục đầy chua chát của Phượng đều phản ánh chung
thực bộ mặt con người lẫn xã hội thời đầu thập niên chín mươi nhập nhống ấy. Và nó
cịn vẫn cịn mang tính thời sự nhức nhói. Hài hước, dí dỏm trong từng câu chữ, có
những đoạn văn, những câu văn sẽ khiến độc giả tủm tỉm cười nhưng sau đó sẽ là
những trăn trở, day dứt về xã hội, về những người trí thức, về những người sống quanh
ta…


17

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Tiến Dũng (1991), “Tìm hiểu tác phẩm văn học”, nxb Tổng hợp sơng Bé.
2. Nguyễn Việt Hà (1999), “Cơ hội của Chúa”, nxb Văn Học.
3. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hồ,
Thành Thế Thái Bình (2006), “Lý luận văn học”, nxb Giáo Dục.
4. Nguyễn Khắc Sính, giáo trình “Lý luận văn học III, phân mơn Sáng tác và tiếp
nhận văn học”.
5. Nhiều tác giả (2001), “Hợp tuyển cơng trình nghiên cứu”, nxb Giáo Dục.
6. Cùng một số bài báo phỏng vấn tác giả Nguyễn Việt Hà.



×