Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.56 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THƠNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN
VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021


MỤC LỤC
ĐỀ MỤC

Tran

Dẫn nhập..........................................................................................................................................1
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN
DÂN, VÌ NHÂN DÂN......................................................................................................................2
1.1. Nhà nước của nhân dân.......................................................................................................2
1.2. Nhà nước do nhân dân.........................................................................................................4
1.3. Nhà nước vì nhân dân..........................................................................................................5
Chương 2: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN
DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI........................................................................................................................7
2.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời thời kỳ đổi mới....................................7
2.1.1. Những thành tựu đã đạt được........................................................................................7


2.1.2. Những vấn đề còn tồn đọng, hạn chế..........................................................................10
2.2. Phương hướng vận dụng hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới...................11
Kết luận..........................................................................................................................................14
Danh mục tài liệu tham khảo........................................................................................................15


Dẫn nhập
“Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” 1. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
cách đây mấy mươi năm về trước, dù phải trải qua thêm bao nhiêu thăng trầm và
biến cố lịch sử nữa thì nó vẫn giữ ngun tính đúng đắn trường kỳ của mình, thể
hiện sức mạnh to lớn của nhân dân đối với công cuộc giữ nước và dựng nước.
Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Hồ Chí Minh khi ấy
đã khẳng định: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì làm cho đến nơi, nghĩa là
làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một
bọn ít người, thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại, Hồ Chí Minh dựa trên những
nghiên cứu, khảo sát kết hợp với thực tiễn tổ chức, hoạt động đã có những cống
hiến to lớn, vượt bậc trong việc tạo ra tiền đề xây dựng một nhà nước kiểu mới chưa
từng có trong lịch sử dân tộc ta: nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân là khơng thể phủ nhận, mang ý nghĩa chỉ đạo đối với sự nghiệp đổi mới,
xây dựng đất nước của Đảng hiện nay. Đứng trước diễn biến đa chiều của tình hình
thế giới và Việt Nam, nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, “diễn biến hịa
bình”, các thế lực thù địch chống phá Đảng, việc vận dụng những tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân liệu có bị ảnh hưởng?
Hiện trạng và những giải pháp để vận dụng hiệu quả, đúng đắn tư tưởng của Người
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước? Để giải đáp những vấn đề trên và
mong muốn tìm ra cái nhìn chân thực nhất, chính xác nhất về sự vận dụng của Đảng

Cộng sản Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân để từ đó hiểu hơn về các chính sách của Đảng, nhà nước, tơi đã
quyết định chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1 Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.8, tr.276

1


Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN,
DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN
1.1. Nhà nước của nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định bản chất dân chủ của nhà nước ta: “Nước ta
là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc là cơng việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử
ra. Đồn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân” 2. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ ràng giữa “nhà nước dân
chủ” và “nhà nước toàn dân” do ý nghĩa hoàn toàn khác nhau của chúng. “Nhà nước
toàn dân”, hiểu theo nghĩa là nhà nước phi giai cấp, trong khi đó, nhà nước ở bất kỳ
nơi nào trên thế giới, ở bất kỳ bối cảnh lịch sử nào cũng mang bản chất của một giai
cấp nhất định. Một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân theo tư
tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là nhà nước chung chung phi giai cấp. Vì vậy nhà
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng khơng ngoại lệ, là một nhà nước
mang bản chất của giai cấp cơng nhân - giai cấp mang tính dân tộc và đại diện cho
lợi ích dân tộc.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân nghĩa là
nhà nước mà trong đó, tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và xã hội đều được xác
lập thuộc về nhân dân. Người đã khẳng định: “Trong Nhà nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hoà của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân” 3. Nhà nước của
dân tức là “dân là chủ”. Nguyên lý “dân là chủ” khẳng định nhân dân có địa vị là
chủ thể tối cao của mọi quyền lực.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực của mình thơng qua hai
hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là hình thức dân
chủ mà nhân dân trực tiếp quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh của quốc
gia, dân tộc và quyền lợi của mình bằng cách bỏ phiếu trực tiếp nhằm thơng qua
2 Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t,6, tr. 232.
3 Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t,8, tr.262.

2


luật pháp của quốc gia đó thay vì bầu ra các đại diện để chấp thuận các luật đó.
Hình thức dân chủ trực tiếp ln được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng bởi tính
hồn thiện và tồn diện nhất đối với một hình thức dân chủ.
Cùng với dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp (dân chủ đại diện) là hình thức
dân chủ được sử dụng một cách phổ biến nhằm thực thi quyền lực của nhân dân.
Dân chủ gián tiếp, như tên gọi của nó, là hình thức dân chủ mà nhân dân gián tiếp
thực thi quyền lực của mình thơng qua các đại diện mà họ tin tưởng lựa chọn, bầu ra
và những thiết chế quyền lực mà họ lập nên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra 3 quan
điểm lớn trong hình thức dân chủ gián tiếp:
Thứ nhất, quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân. Quyền lực
của nhà nước là do nhân dân ủy thác mà có được chứ khơng phải tự bản thân nhà
nước khi sinh ra đã có. Do đó, các cơ quan quyền lực nhà nước cùng với đội ngũ
cán bộ của nó đều là “cơng bộc” của nhân dân, nghĩa là “gánh vác việc chung cho
dân, chứ khơng phải để đè đầu dân”4. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ ràng vị
thế và mối quan hệ giữa nhân dân với cán bộ nhà nước trên cơ sở chủ thể nắm giữ
mọi quyền lực là nhân dân. Theo Người: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ
trưởng, uỷ viên này uỷ viên khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân,

chứ khơng phải là làm quan cách mạng” 5. Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán những
cán bộ nhà nước thoái hóa, biến chất, từ chỗ là đày tớ, cơng bộc của dân trở thành
“quan cách mạng”, tự cho mình cao hơn nhân dân, cậy thế cậy quyền nhũng nhiễu
nhân dân, quên mất nhiệm vụ của mình là người đày tớ trung thành của nhân dân,
hết mình phục vụ lợi ích nhân dân.
Thứ hai, nhân dân có quyền kiểm sốt, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn
những đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế
quyền lực mà họ đã lập nên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “nhân dân có
quyền , bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại
biểu ấy tỏ ra khơng xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân” 6. Đây là quan điểm
rõ ràng, kiên quyết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm đảm bảo nhân dân ln nắm
4 Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4, tr.64-65.
5 Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.10, tr.572.
6 Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.12, tr.375.

3


trong tay mọi quyền lực, trong đó có quyền lực nhà nước. Một nhà nước thực sự của
nhân dân, nghĩa là nhân dân cần thiết phải phát huy quyền làm chủ của mình, kiểm
sốt, đơn đốc người đại biểu mà mình đã tin tưởng giao phó để họ thực sự trở thành
“người đày tớ trung thành của nhân dân”.
Thứ ba, luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân. Luật pháp
trong nhà nước Việt Nam phản ánh ý nguyện và bảo vệ quyền lợi của dân chúng.
Đây là sự khác biệt căn bản đối với luật pháp của các chế độ tư sản, chỉ bảo vệ sự
thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp tư sản. Luật pháp trong nhà nước Việt
Nam là của nhân dân, là công cụ thực thi quyền lực của nhân dân đồng thời là
phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước.
1.2. Nhà nước do nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do

nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Dựa trên nền tảng pháp lý của một chế độ
dân chủ và theo các trình tự dân chủ, nhân dân tổ chức nên nhà nước dân chủ, tức là
nhà nước do nhân dân lập nên.
Nhà nước do nhân dân còn mang ý nghĩa “dân làm chủ”. Hồ Chí Minh khẳng
định rõ: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ” 7. Một
khi xác định vị thế “dân là chủ”, quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân được xác lập
với tư cách là người chủ. Nhân dân làm chủ đất nước, trực tiếp hoặc gián tiếp định
đoạt vận mệnh đất nước. Quan điểm của Hồ Chí Minh khẳng định rằng, “nhân dân
có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm trịn bổn phận công dân, giữ đúng
đạo đức công dân”8. Nhân dân làm chủ dĩ nhiên khơng phải dân muốn làm gì thì
làm. Quyền lực luôn phải đi cùng với nghĩa vụ và trách nhiệm. Nghĩa vụ của nhân
dân là phải tuân theo pháp luật của Nhà nước, giữ gìn trật tự chung, đóng thuế theo
quy định của pháp luật, hăng hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công, bảo
vệ Tổ quốc, ...

7 Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.9, tr.81.
8 Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.7, tr.434.

4


Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, Hiến pháp và pháp luật đã quy định rõ
ràng về quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân. Vì thế, nhà nước phải tạo mọi điều
kiện để nhân dân được thực thi những quyền lực và làm tròn nghĩa vụ làm chủ của
mình. Quyền làm chủ của nhân dân cũng phải được các cán bộ đảng viên hết sức
coi trọng.
Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân
dân cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của
mình. Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà.

Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ” 9 . Khi nói về nhà nước do nhân
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng không chỉ tuyên bố quyền làm chủ của nhân
dân, mà còn chuẩn bị và động viên nhân dân chuẩn bị tốt năng lực làm chủ của
mình. Đây là quan điểm thể hiện tư tưởng dân chủ triệt để của Người.
1.3. Nhà nước vì nhân dân
Trong nhà nước vì dân, mục tiêu của nhà nước là bảo vệ lợi ích chính đáng
của nhân dân, tất cả đều vì lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, ngồi ra khơng có
bất kỳ một lợi ích nào khác. Khơng có chỗ cho bất kỳ đặc quyền đặc lợi nào chống
lại lợi ích của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các cơ quan, các cán bộ nhà
nước đều phải vì nhân dân phục vụ, xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Người nói: “Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết
thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh” 10. Hồ Chí
Minh cũng đặt vấn đề với cán bộ Nhà nước phải “làm sao cho được lòng dân, dân
tin, dân mến, dân yêu”, đồng thời chỉ rõ: “muốn được dân yêu, muốn được lòng
dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một
tinh thần chí công vô tư”11. Thước đo sự vững mạnh của nhà nước vì nhân dân
chính là lịng dân. Nguyễn Trãi từng nói: “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là
dân”, mn đời nay đã vậy, nhìn vào tư tưởng Hồ Chí Minh lại càng đúng đắn.
Nhiệm vụ của một người cán bộ mang hai trọng trách lớn, vừa là đày tớ,
nhưng đồng thời phải vừa là người lãnh đạo nhân dân. Thoạt nghe hai địi hỏi này là
9 Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4, tr.21.
10 Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4, tr.21.
11 Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4, tr. 52.

5


mâu thuẫn, song đây lại là hai phẩm chất mà người cán bộ cần phải có. Là đày tớ thì
phải nhất mực trung thành, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, mưu sự thì phải lo
trước thiên hạ, thành sự thì vui sau thiên hạ. Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ

hơn người, nhìn xa trơng rộng, gần gũi nhân dân, sáng suốt trọng dụng hiền tài,
không vì chữ vinh mà bán rẻ đồng bào.
Như vậy, để làm người đại diện quyền lực cho nhân dân không phải đơn giản.
Một người phải quy tụ đủ cả đức và tài, phải vừa hiền vừa minh. Con người ấy
chẳng những phải làm những việc lợi cho dân, mà đôi khi làm những việc thoạt
nhìn tưởng hại dân nhưng thực chất cũng là vì đại cục, vì mục đích duy nhất là phục
vụ lợi ích lâu dài của nhân dân.

6


Chương 2: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời thời kỳ đổi mới
2.1.1. Những thành tựu đã đạt được
Các quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam được phát triển dựa
trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân, do
dân, vì dân dưới yêu cầu của thực tế xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh
thay đổi của tình hình trong nước và quốc tế.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng), Đảng ta đã
khẳng định lại tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân như sau: “...xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức làm nền tảng, do đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền
dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành
động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”. Điều này một lần nữa khẳng
định tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới được Đảng ta vận dụng

đúng đắn, nhất quán và phù hợp với thời đại. Đảng ta luôn lấy tư tưởng Hồ Chí
Minh làm kim chỉ nam cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong cương
lĩnh này, trải qua thực tiễn cách mạng với những khuyết điểm sai lầm, Đảng ta đã
rút ra bài học lớn “...sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của
Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh
của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân
dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”.
Đây là điểm chứng tỏ dù trong hoàn cảnh thực tiễn cách mạng nào thì Đảng Cộng
sản Việt Nam cũng ln giữ vững đường lối chính trị của mình, xây dựng nhà nước
dân chủ đúng nghĩa với mục tiêu hết mình phục vụ cho lợi ích nhân dân.

7


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011, hay còn gọi là Cương lĩnh 2011) của Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục phát triển nhận thức trước đây, đồng thời khắc họa đậm nét và
toàn diên những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân như: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân với nền tảng là liên minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và đội
ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Nhà nước ban hành pháp luật;
tổ chức và quản lý xã hội bằng pháp luật; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa;
Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đẩy đủ quyền
làm chủ của nhân dân; Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân
dân đều bị nghiêm trị; Giữ nghiêm kỷ cương xã hội, có cơ chế và biện pháp kiểm
soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vơ trách nhiệm, lạm
quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân, xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và
của nhân dân; Tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, có sự phân cơng, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất

của Trung ương”12. Điểm mới trong Cương lĩnh 2011 là bổ sung yếu tố kiểm soát
quyền lực giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
đồng thời thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa nhà nước với nhân dân và quyền dân
chủ của nhân dân được đảm bảo thực thi.
Thể chế hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, bảo đảm sự gắn bó mật thiết
giữa nhà nước với nhân dân từng bước được tiến hành một cách đồng bộ, toàn diện.
Trong gần 35 năm đổi mới, Chính phủ đã tập trung đổi mới, cải cách thể chế, bộ
máy cơng chức, tài chính cơng theo hướng dân chủ, ngày càng khoa học, hiện đại,
chuyên nghiệp. Nguyên tắc nhân dân là chủ thể nắm giữ mọi quyền lực đã được
khẳng định một cách nhất quán và liên tục qua các bản Hiến pháp. Hiến pháp năm
2013 đã thể hiện sâu sắc hơn nữa bản chất dân chủ của nhà nước ta, khẳng định
ngay trong Lời nói đầu rằng nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ bản
Hiến pháp này. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã
hội được tiếp tục khẳng định và phát triển. Hiến pháp 2013 ngoài kế thừa những nội
12 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia,
tr. 85-86

8


dung các bản Hiến pháp trước, mà còn đặt ra quy định mới nhằm đề cao quyền lực
của nhân dân: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ
Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về
những quyết định của mình” . Quốc hội, đại biểu Quốc hội trở thành cầu nối gắn kết
13

chặt chẽ mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân. Vấn đề đảm bảo sự tham gia của
nhân dân vào công việc quản lý của Nhà nước không chỉ được khẳng định trong
Hiến pháp mà cịn được cụ thể hóa trong các luật, các văn bản quy phạm pháp luật
đã được ban hành. Bên cạnh đó, Chính phủ với tư cách cơ quan “thực hiện quyền

hành pháp”, cơ quan hành chính cấp cao nhất đã chú trọng đề cao tính dân chủ và
tính pháp quyền nhằm hướng đến xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, thống
nhất, trong sạch, vững mạnh, đề cao trách nhiệm phục vụ lợi ích nhân dân.
Sự tham gia của nhân dân vào đời sống chính trị và quản lý nhà nước ngày
càng gia tăng. Trên cơ sở triển khai thực hiện Cương lĩnh 2011 và Hiến pháp năm
2013, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã tổ chức vận
động nhân dân tham gia tích cực vào việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật . Bên
cạnh đó, việc nhân dân tham gia xây dựng Đảng, nhà nước thông qua giám sát,
phản biện xã hội cũng được chú trọng bằng cách áp dụng các nội dung, phương
thức thực hiện khác nhau. Thông qua Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, ngày
11/5/1998, của Chính phủ “Về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã”;
Nghị định số 71/1998/NĐ-CP, ngày 08/9/1998, của Chính phủ về “Ban hành Quy
chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan”, các cơ sở pháp lý đã được bổ
sung thêm để phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đi vào thực
tiễn cuộc sống. Như vậy, thông qua các thể chế pháp luật và các hoạt động của các
tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân ngày càng thể hiện quyền làm chủ của mình,
tích cực, chủ động tham gia vào công viện quản lý nhà nước, đóng góp trí lực, tài
lực vào sự nghiệp chung. Từ đó mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa nhà nước với
nhân dân ngày càng được củng cố.
Đảng ta đang xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có sự phát triển
đồng bộ cả về năng lực và phẩm chất, góp phần quan trọng vào xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ là cái gốc của mọi
13 Quốc Hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khoản 2 điều 4, tr. 2

9


cơng việc. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức có đủ năng
lực và phẩm chất tham gia vào bộ máy quản lý nhà nước trong thời kỳ đổi mới đã
được Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm. Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên

chức gần đây đã được sửa đổi, bổ sung nhằm làm rõ trách nhiệm của cán bộ, công
chức và viên chức trong việc thực hành công vụ, cụ thể như: tăng cường kỷ luật đối
với công chức, viên chức; xóa bỏ quan niệm “hạ cánh an tồn” nhằm nghiêm khắc
xử lý những cán bộ mắc sai lầm, khuyết điểm trước đó, tham nhũng lợi dụng việc
về hưu để giảm án, trắng án; chế độ “biên chế suốt đời” với viên chức cũng bị xóa
bỏ nhằm nâng cao trách nhiệm của người cán bộ, sai phạm tái diễn sẽ buộc sa thải;
kết quả đánh giá cán bộ, công chức được công khai tại nơi làm việc...
2.1.2. Những vấn đề còn tồn đọng, hạn chế
Các cơ quan trong hệ thống chính trị, đặc biệt là các cơ quan nhà nước, mặc
dù được thiết kế khoa học và tập trung hơn, nhưng trong quá trình vận hành vẫn
chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc pháp quyền, dân chủ. Điều này khiến
nhận thức về vai trò, địa vị của nhân dân trong thời kỳ đổi mới vẫn chưa đầy đủ và
tồn diện. Quyền tiếp cận thơng tin của nhân dân đã được luật hoá, tuy nhiên trong
nhiều lĩnh vực hoạt động của cơ quan nhà nước, vấn đề minh bạch hóa thơng tin
chưa thực sự bảo đảm. Quyền làm chủ của nhân dân sẽ bị hạn chế bởi sự cản trở
tiếp cận các thông tin, nhất là trong công tác thi tuyển, bổ nhiệm cán bộ, minh bạch
hóa tài sản và thu nhập cá nhân, quản lý tài nguyên mơi trường, quản lý tài chính
cơng, cơng khai hóa đấu thầu các dự án công,... Các buổi tiếp xúc cử tri được tổ
chức định kỳ, song trách nhiệm giải trình và xử lý sau giải trình thơng qua các kỳ
họp Quốc hội và hội đồng nhân dân chưa thỏa đáng nguyện vọng của nhân dân.
Ngoài ra, các phương thức thực hiện quyền làm chủ trực tiếp còn hạn chế. Vấn đề
“bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết
định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân” cịn bất cập.
Khoảng cách giữa việc ban hành luật pháp và thực hiện luật pháp chưa được
rút ngắn. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật chưa cao, số lượng văn bản quy
phạm pháp luật được ban hành rất lớn, với nhiều hình thức văn bản với cấp độ hiệu
lực khác nhau khiến hệ thống pháp luật vẫn rất phức tạp, cồng kềnh. Điều này làm

10



nhân dân chưa nhận thức rõ được vai trò và tác động của từng văn bản quy phạm
pháp luật liên quan trực tiếp đến cuộc sống của họ. Một số văn bản quy phạm pháp
luật vẫn cịn mang tính tun ngơn chung, những “điểm khuyết”, “điểm mờ” vẫn
cịn tồn tại. Việc chồng chéo chức trách và quyền hạn giữa các cơ quan liên ngành
gây khó khăn cho nhân dân.
Việc thực hành dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật còn nhiều bất
cập. Việc thực hành dân chủ ở nhiều nơi cịn mang tính hình thức; pháp luật, kỷ
cương thực hiện khơng nghiêm. Pháp luật vẫn cịn thiếu một số chế tài bảo đảm
thực thi dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật.
2.2. Phương hướng vận dụng hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới
Thứ nhất, Đảng cần nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân
dân. Cần sáng suốt lựa chọn và thực thi những cơ chế, hình thức dân chủ hữu hiệu
để nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình. Dựa trên thực tiễn đã chỉ rõ, chỉ khi
nào nhà nước tạo đủ điều kiện để nhân dân thực hiện phát huy quyền làm chủ của
mình, khơng để xảy ra dân chủ cực đoan, dân chủ q trớn, thì chừng đó quyền lực
nhà nước mới được củng cố, quyền làm chủ của nhân dân mới được thực hiện triệt
để. Nội dung này có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhất là trong bối cảnh các thế lực
thù địch trong và ngoài nước đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ” và “nhân quyền”
cũng như các thủ đoạn tinh vi khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ dân chủ, kích động
nhân dân chống phá nhà nước ta. Vì vậy, phải nâng cao dân trí, động viên, giáo dục
và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân sử dụng quyền làm chủ, quyền lực của mình
để cùng Đảng ta tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Thứ hai, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với nhà nước dân chủ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
nhằm đáp ứng địi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa thời kỳ mới. Từ thực tiễn đã chỉ rõ: sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết

định để bảo đảm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của

11


dân, do dân, vì dân, vượt qua nguy cơ thách thức, vững vàng đi theo con đường
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, cần tiếp tục nghiên cứu và quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cần khẳng định đây là một tài sản có giá trị
lý luận và thực tiễn to lớn cần được nghiêm túc học tập, vận dụng và triển khai
trong toàn bộ hoạt động vận hành, quản lý của cơ quan nhà nước. Điều này sẽ tạo
động lực tinh thần mạnh mẽ để xây dựng, phát triển bền vững đất nước.
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam cần tiếp tục cụ thể hóa, hồn thiện thể chế
thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013. Các
hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ ở cơ sở theo phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” cần
được thực hiện, đánh giá một cách hiệu quả và triệt để. Quán triệt quan điểm của
Đảng trong xử lý các vi phạm pháp luật theo ngun tắc mọi cơng dân đều bình
đẳng trước pháp luật, khơng có trường hợp ngoại lệ, khơng bao che, không chạy tội.
Chủ trương thực hành dân chủ phải thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả trong thực
tế, các quy trình tiến hành một cách đồng bộ và tồn diện. Bên cạnh đó, Đảng ta cần
có những chủ trương phát huy tinh thần tích cực, chủ động của nhân dân trong việc
tham gia thực hành dân chủ, sao cho nhân dân ai cũng đồng lòng cùng tham gia xây
dựng bộ máy nhà nước liêm khiết, hiệu lực, hiệu quả.
Thứ năm, Đảng ta cần duy trì chỉ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác
lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Bởi
Quốc hội, Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện nhân dân, được ủy quyền của
nhân dân đứng ra quản lý nhà nước. Bên cạnh đó cần tăng cường sự gắn kết của các

hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp với kiểm tra, giám
sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát của nhân
dân. Các hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát trong các hoạt động của Chính phủ
cũng cần được chú trọng, đảm bảo tính chính xác, minh bạch, đúng người đúng tội.
Trong thời đại số phát triển mạnh mẽ hiện nay, rất nhiều nước trên thế giới đã ứng

12


dụng thành cơng chính quyền điện tử (Phần Lan, Đức, Anh,...). Nước ta cũng cần
nhanh chóng ứng dụng những tiến bộ cơng nghệ thơng tin để xây dựng chính quyền
điện tử, cắt bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, khắc phục tối đa các khoảng
trống dẫn đến tham nhũng, sách nhiễu nhân dân. Xây dựng thành cơng chính quyền
điện tử, công việc quản lý nhà nước sẽ đơn giản, chính xác và hiệu quả hơn. Đảng
và nhà nước ta đã có bước đầu tiên trong việc chuyển đổi phương thức quản lý
bằng việc cấp mới căn cước công dân gắn chip, hứa hẹn trong tương lai sẽ đem lại
nhiều hiệu quả thiết thực.
Thứ sáu, Đảng ta cần đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức liêm chính, vừa có bản lĩnh chính trị, vừa có phẩm chất đạo đức. Những người
cán bộ cách mạng thực sự có năng lực, uy tín, tác phong chun nghiệp cao, tận tụy
phục vụ nhân dân. Chuẩn hóa năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo
hướng chuyên nghiệp, hiện đại, trách nhiệm, phát huy dân chủ gắn liền với siết chặt
kỷ cương, kỷ luật. Ngoài ra, Đảng cần khuyến khích đội ngũ cán bộ đổi mới, sáng
tạo, có khát vọng cống hiến vì lợi ích chung của nhân dân, của đất nước. Cải thiện
mơi trường làm việc, chính sách tiền lương tương xứng với năng lực, chính sách hỗ
trợ nhà ở, phúc lợi xã hội để đội ngũ cán bộ yên tâm thể hiện hết năng lực của mình .
Nhanh chóng, kịp thời ghi nhận, biểu dương những thành tựu của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức. Kiên quyết loại bỏ những phần tử thối hóa, biến chất ra khỏi
bộ máy nhà nước. Xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm, khơng nể tình riêng
mà can thiệp vào việc công. Đồng thời cần tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh – tấm gương sáng ngời, mẫu mực
về đạo đức cách mạng.

13


Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân là một trong những nội dung cơ bản, đặc biệt quan trọng của hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh. Suốt chặng đường hoạt động cách mạng vĩ đại, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã lĩnh hội , vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào vấn đề thực tiễn
của dân tộc Việt Nam, xây dựng một nhà nước dân chủ kiểu mới, do nhân dân làm
chủ, phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam mang bản chất giai cấp cơng nhân chính là quả ngọt của tư tưởng vĩ đại ấy. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ln mang
trong mình ý nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc. Ngày nay, trước yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới và hội nhập, Đảng ta tiếp tục kế thừa tư tưởng của Người để xây
dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là điều vơ
cùng cần thiết và đúng đắn. Dựa vào đó, Đảng và nhà nước hoạch định nên những
đường lối, chính sách, xây dựng pháp luật phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của đất
nước.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong những năm
qua, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn và linh hoạt tư tưởng Hồ Chí Minh ứng với
từng bối cảnh thực tiễn. Quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được củng cố, mối
quan hệ giữa nhà nước với nhân dân ngày càng bền chặt. Tuy nhiên, trong thời kỳ
đổi mới hiện nay, vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ của
Đảng vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Đó là vấn đề vận hành bộ máy quản lý
nhà nước chưa hiệu quả, các vấn đề ban hành, thực thi của pháp luật,... Để bảo đảm
cho việc vận dụng hiệu quả tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh , Đảng và nhà nước
ta cần có những chính sách đồng bộ hơn, chuẩn xác hơn về để giải quyết các thực

trạng còn tồn đọng. Và quan trọng hơn hết là sự tham gia của toàn thể nhân dân,
mỗi người dân cần có ý thức và trách nhiệm đối với quyền làm chủ đất nước của
mình. Bác Hồ đã từng căn dặn “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân
liệu cũng xong”, tồn thể nhân dân Việt Nam cùng nhau đồn kết một lịng, chung
tay cùng với Đảng xây dựng và phát triển nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ta thịnh vượng, tươi đẹp và hạnh phúc.

14


15


Danh mục tài liệu tham khảo
1)

Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2)
Bùi Trường Giang, (04/10/2020), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và
yêu cầu củng cố mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trong giai đoạn hiện nay,
[Truy cập ngày 03/07/2021]
3)
Vũ Thị Hiên (12/5/2020), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, [Truy cập ngày 01/07/2021]
4) Ngơ Thị Thu Hồi - Phan Thị Thanh Lý - Đỗ Thị Ngọc Lệ (đồng tác giả),
2020, Tập bài giảng tư tưởng Hồ Chí Minh, (ĐH GTVT Thành phố Hồ Chí Minh lưu hành nội bộ), Thành phố Hồ Chí Minh.
5)
L.T.L (31/10/2014), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do

dân, vì dân và một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện nay,
[Truy cập ngày 02/07/2021]
6) Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7) Quốc Hội, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thơng
qua ngày 28 tháng 11 năm 2013.
8)
Đặng Công Thành, (6/3/2021), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, [Truy cập
ngày 04/07/2021]

16



×