Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Nội dung thuyết trình về quan hệ giữa vợ và chồng - Chế độ tài sản của vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.28 KB, 18 trang )

Chương III: QUAN HỆ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
3.1 Quyền và nghĩa vụ về nhân thân
• Khái niệm:
Quyền nhân thân giữa vợ và chồng là những quyền liên quan đến lợi ích
tinh thần gắn liền với nhân thân của vợ chồng trong quan hệ vợ chồng, khơng
có nội dung kinh tế, khơng định giá được bằng tiền và khơng thể chuyển giao
cho người khác.
• Đặc điểm:
Quyền nhân thân giữa vợ và chồng phát sinh trên cơ sở kết hôn, gắn liền
với quan hệ vợ chồng trong suốt thời kì hơn nhân. Các quyền và nghĩa vụ này
chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm dứt. Tức là, quan hệ nhân thân giữa vợ
và chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ được bắt đầu bằng việc đăng ký kết hơn.
Theo đó, vợ và chồng sẽ có thêm các quyền về hơn nhân gia đình theo quy
định của pháp luật. Còn sau khi quyết định, bản án của Tịa án giải quyết ly
hơn có hiệu lực hoặc khi một trong hai bên bị tuyên bố là đã chết thì quan hệ
nhân thân giữa vợ và chồng chấm dứt.
Quyền nhân thân là quyền gắn liền với cá nhân và không thể là đối tượng
chuyển dịch cho người khác, quyền này có tính độc lập, cá biệt hố cá nhân
này với cá nhân khác, không thể trộn lẫn. Vì vậy, quyền nhân thân của vợ
chồng khơng thể chuyển giao cho người khác, không thể do người khác thực
hiện thay mà chỉ phụ thuộc giữa vợ chồng.
3.1.1 Quyền và nghĩa vụ mang tính chất tình cảm, riêng tư giữa vợ và
chồng
Vợ chồng phải chung thủy với nhau


Quan hệ vợ chồng không đơn thuần chỉ là một nghĩa vụ pháp lý thuần
túy, mà trước hết đó là tình nghĩa giữa hai người. Do đó, sự chung thủy là nền
tảng của hạnh phúc.
Vợ chồng phải thương yêu, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng
chia sẻ, thực hiện các cơng việc trong gia đình


Thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ này sẽ ngăn chặn được những quan hệ
bất chính đồng thời xóa bỏ được rào cản – sự bất bình đẳng trong quan hệ vợ
chồng.
3.1.2 Quyền và nghĩa vụ mang tính chất tự do, dân chủ
Quyền lựa chọn nơi cư trú
“Việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận, không bị
ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính.” (Điều 20 Luật
HN&GĐ 2014)
Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên
sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc tạm trú.
Như vậy, chỗ ở của vợ chồng do vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ với nhau, tạo lập
kinh tế chung, thuận tiện cho việc thăm nom, chăm sóc và giáo dục con
chung. Nếu xảy ra trường hợp mỗi bên vợ chồng có chỗ ở riêng thì điều này
cũng không ảnh hưởng đến chế độ tài sản cũng như trách nhiệm, quyền lợi,
nghĩa vụ của họ đối với nhau và đối với con chung.
Quyền, nghĩa vụ về học tập, làm việc, tham gia hoạt động chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội
“Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ tạo điều kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề nghiệp;
học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chun mơn, nghiệp vụ; tham gia hoạt
động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.” (Điều 23 Luật HN&GĐ 2014)


Trong quá khứ, người chồng luôn là người tham gia vào những công việc
xã hội, người vợ chỉ làm những cơng việc trong gia đình, cuộc sống của người
vợ thường là một vịng khép kín. Do đó, đây là quy định nhằm đảm bảo sự
bình đẳng giữa vợ và chồng. Mặt khác, tạo điều kiện để các bên vợ, chồng cớ
thể đóng góp trí tuệ, sức lực của mình cho đất nước.
Tơn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng
“Vợ, chồng có nghĩa vụ tơn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy

tín cho nhau.” (Điều 21 Luật HN&GĐ 2014)
Tôn trọng nhau là yêu cầu cần thiết trong quan hệ vợ chồng, là chìa khóa
của sự hạnh phúc và bền vững của hôn nhân.
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của vợ, chồng
“Vợ, chồng có nghĩa vụ tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau”
(Điều 22 Luật HN&GĐ 2014)
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo không ai
được xâm phạm quyền tự do ấy. Và những ai có tín ngưỡng, tơn giáo khác
nhau phải tơn trọng tín ngưỡng, tơn giáo của người khác.

3.2 Chế độ tài sản của vợ chồng
Một trong những điểm mới của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 so
với trước đây là ngoài việc ghi nhận chế độ tài sản theo luật định, còn thừa
nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận.
Trường hợp họ không lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận,
hoặc những thỏa thuận này bị Tịa án tun là vơ hiệu thì chế độ tài sản theo
luật định sẽ được áp dụng.
Khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề
chưa được vợ chồng thỏa thuận, hoặc thỏa thuận khơng rõ ràng thì chế độ tài
sản theo luật định sẽ được áp dụng.


3.2.1 Nguyên tắc chung trong chế độ tài sản của vợ chồng
Việc áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc theo chế độ luật định
đều phải tuân thủ theo các nguyên tắc sau:
- Đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng
Bình đẳng trong tài sản được thể hiện như việc vợ chồng có nghĩa vụ
như nhau trong việc tạo lập và bảo vệ khối tài sản chung. Khoản 1 Điều 29
Luật Hơn nhân và gia đình 2014 quy định: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau về
quyền và nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản

chung, không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu
nhập.” Quy định này ghi nhận việc tạo lập và sự đóng góp cơng sức của mỗi
bên trong các hoạt động làm nên khối tài sản chung của vợ chồng.
- Đảm bảo lợi ích chung của gia đình
Theo quy định tại Điều 30 Luật HN & GĐ 2014 Quyền, nghĩa vụ của
vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình được quy định
như sau:
Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của gia đình.Trong trường hợp vợ chồng khơng có tài sản chung
hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ,
chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên.
Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở
duy nhất của vợ chồng có thể là tài sản chung của vợ chồng, không phải tài
sản riêng của vợ / chồng như: nhà th… thì cần có sự thỏa thuận đồng ý của
vợ và chồng.
Trừ trường hợp, nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở
hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó,
khơng cần sự đồng ý của bên còn lại nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ
chồng.


- Đảm bảo quyền lợi của người thứ ba ngay tình
Bảo vệ người thứ ba ngay tình trong các giao dịch liên quan đến tài
khoản ngân hàng, tài khoản chứng khốn và động sản khác mà khơng phải
đăng ký quyền sở hữu và quyền sử dụng là tài sản chung vợ chồng.
Giao dịch dân sự chính là cơng cụ hữu hiệu để các chủ thể tìm kiếm và
trao đổi lợi ích với nhau. Nhưng thực tế cho thấy, đôi khi chủ thể đã xác lập,
thực hiện một giao dịch dân sự nhưng lại khơng đạt được lợi ích mà mình
mong muốn mặc dù họ hồn tồn thiện chí và ngay thẳng khi tham gia vào
giao dịch đó. Và pháp luật xem những chủ thể này là người thứ ba ngay tình.

3.2.2 Chế độ tài sản theo thỏa tḥn
Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định chế độ tài sản theo thỏa
thuận giúp cho các cặp vợ chồng có thêm sự lựa chọn phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh của gia đình và bản thân, đồng thời đảm bảo sự hài hịa với sự đa
dạng trong đời sống hơn nhân và gia đình, giữ sự ổn định và phát triển của gia
đình, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình. Phù
hợp với nguyên tắc cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp và Pháp luật
Dân sự.
Chế độ tài sản theo thỏa thuận được quy định tại các Điều 47, 48, 49,
50 và 59 của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014, với các nội dung sau:
Điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
+ Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản thì thỏa
thuận này phải được lập trước khi kết hơn, bằng hình thức văn bản có cơng
chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được
xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn. Như vậy, nếu trước khi xác lập hôn nhân,
vợ chồng không thỏa thuận xác lập chế độ tài sản theo thỏa thuận, thì sau khi
xác lập hơn nhân, họ khơng có quyền thỏa thuận để xác lập chế độ tài sản này.
Cũng như vậy, nếu có loại thỏa thuận xác lập chế độ tài sản theo thỏa thuận,


nhưng họ lại không xác lập hôn nhân, thỏa thuận này sẽ khơng có giá trị pháp
lý bởi lẽ thỏa thuận chỉ có giá trị pháp lý khi họ trở thành vợ chồng của nhau.
+ Thỏa thuận không vi phạm các nguyên tắc chung đối với chế độ tài sản
của vợ chồng. Cụ thể là không được xâm phạm đến quyền bình đẳng giữa vợ
và chồng ,khơng xâm phạm đến lợi ích chung của gia đình cũng như quyền
lợi của người thứ ba.
+ Vợ chồng có quyền thỏa thuận sửa đổi, bổ sung, thay đổi chế độ tài sản
theo thỏa thuận của họ bất kỳ lúc nào sau khi kết hôn. Tuy nhiên việc sửa đổi,
bổ sung, thêm chế độ tài sản của vợ chồng phải theo những quy định chung về
sử dụng giống như khi xác lập thỏa thuận. Họ có quyền thỏa thuận, sửa đổi,

bổ sung một phần hoặc tồn bộ nội dung của thỏa thuận hoặc có thể áp dụng
chế độ tài sản theo luật định. Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ
tài sản của vợ chồng có hiệu lực kể từ ngày được cơng chứng hoặc chứng
thực.
+ Vợ chồng có nghĩa vụ thơng báo cho những người có quyền và lợi ích
liên quan biết về thỏa thuận sửa đổi, bổ sung của mình. Quy định này tạo ra
một cơ chế giám sát để đảm bảo những thỏa thuận của vợ chồng không xâm
hại tới lợi ích chung của gia đình và những người khác có liên quan, bởi
những người này có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận của vợ chồng
vô hiệu theo các căn cứ luật định.
+ Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng không chỉ có hiệu lực đối
với vợ chồng mà cịn có thể phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba, do vậy
khi xác lập, thực hiện giao dịch vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho người
thứ ba biết về những thông tin liên quan . Nếu vợ, chồng vi phạm nghĩa vụ
này thì người thứ ba được coi là ngay tình và được bảo vệ quyền lợi theo qui
định của bộ luật dân sự.
+ Tuy nhiên đối với giao dịch liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài
khoản chứng khoán,động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải


đăng ký quyền sở hữu mà đã được vợ, chồng cung cấp thông tin liên quan đến
việc thỏa thuận tài sản nhưng bên thứ ba vẫn xác lập, thực hiện giao dịch trái
với những thơng tin đó hoặc vợ, chồng đã công khai thỏa thuận theo quy định
của pháp luật có liên quan đến việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản và
người thứ ba biết hoặc phải biết nhưng vẫn xác lập giao dịch trái với thỏa
thuận của vợ chồng, thì người thứ ba trong giao dịch khơng được pháp luật
bảo vệ, vì họ khơng được xem là người thứ ba ngay tình.
Nợi dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
+Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng là quyền của vợ chồng, do
vậy nội dung của thỏa thuận dựa vào ý chí của vợ chồng, tuy nhiên trong văn

bản thỏa thuận phải đảm bảo các nội dung cơ bản về: Tài sản được xác định là
tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; Quyền nghĩa vụ của vợ, chồng đối
với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; Tài sản để đảm bảo
nhu cầu thiết yếu của gia đình; Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài
sản khi chấm dứt chế độ tài sản. Đây là những nội dung cần thiết phải có
trong một thỏa thuận, có như vậy tài sản chung, tài sản riêng cũng như nghĩa
vụ, quyền lợi của các bên vợ, chồng mới được xác định rõ ràng tạo điều kiện
thuận lợi để vợ, chồng thực hiện đầy đủ cam kết cũng như thực hiện nghĩa vụ
và quyền của họ đối với gia đình, giúp cơ quan nhà nước thuận lợi hơn khi
giải quyết yêu cầu tính chất của vợ chồng với nhau và với người thứ ba.
Thẩm quyền và căn cứ để tuyên bố thỏa thuận về chế đợ tài sản của vợ
chờng bị vơ hiệu
Tịa án là cơ quan có thẩm quyền tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản
của vợ chồng bị vô hiệu khi có yêu cầu của những người có quyền và lợi ích
liên quan dựa trên những căn cứ sau:
 Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng không tuân thủ điều kiện có
hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật có
khác có liên quan. Thỏa thuận của vợ chồng là một giao dịch, vì thế


phải tuân thủ quy định của pháp luật về những điều kiện có hiệu lực
của giao dịch theo quy định tại Khoản 1, Điều 122 Bộ luật dân sự:
Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; Mục đích và nội
dung của giao dịch khơng vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
với đạo đức xã hội; Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
 Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vi phạm các nguyên tắc
chung của chế độ tài sản: Đó là xâm phạm đến quyền bình đẳng của vợ
chồng, quyền lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình cũng
như quyền lợi của người thứ ba.
3.2.3 Chế độ tài sản theo luật định

3.2.3.1 Tài sản chung của vợ chồng
Các loại tài sản chung của vợ chồng
Tài sản chung của vợ chồng được quy định tại Điều 33 Luật HN&GĐ 2014,
bao gồm:
 Tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh
Đây là nhóm tài sản chủ yếu của vợ chồng. Duy trì, phát triển tài sản chung,
chăm lo đời sống chung của gia đình. Tài sản để xác định là trong khối tài sản
chung vợ chồng là tài sản mà vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân. Và
hiện nay Luật HN&GĐ 2014 xác định tài sản hình thành từ tài sản riêng là tài
sản riêng.
 Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng
Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là sản vật tự nhiên mà vợ,
chồng có được từ tài sản riêng của mình. Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của
vợ, chồng là khoản lợi mà vợ, chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng
của mình.


Nếu hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng có được trong
thời gian vợ, chồng chưa hoặc không phân chia tài sản chung, là tài sản chung
của vợ chồng; nếu hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng có
được sau khi họ đã chia tài sản chung, thì đây lại là tài sản riêng của vợ,
chồng có tài sản, trừ khi họ có thỏa thuận khác.
 Các khoản thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kì hơn
nhân
Thu nhập khác ở đây được hiểu là những khoản thu nhập khơng thuộc nhóm
tài sản thứ nhất vừa nêu.
Ví dụ: Tiền mà vợ, chồng trúng xổ số, tiền thưởng của vợ, chồng, tiền trợ cấp
của vợ, chồng,...
 Tài sản mà vợ, chồng được tặng cho, thừa kế chung

Đây là những tài sản mà vợ, chồng được chủ sở hữu thể hiện ý chí chuyển
giao lại quyền sở hữu cho cả hai vợ chồng. Pháp luật xác định đây là tài sản
chung vợ chồng.
 Tài sản mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản chung
Theo đó, trường hợp nhập tài sản riêng của một bên vào khối tài sản chung
của vợ chồng mà vi phạm các nguyên tắc chung của chế độ tài sản, sẽ bị vô
hiệu. Chẳng hạn như nhập tài sản riêng và tài sản chung để trốn tránh theo
quy định tại Khoản 2 Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như: Nghĩa vụ
ni dưỡng cấp dưỡng người khác theo quy định của pháp luật, nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại, nghĩa vụ thanh tốn khi bị Tịa án tuyên bố phá sản, nghĩa vụ
trả nợ cho người khác,...
 Tài sản mà vợ chồng khơng có chứng minh là tài sản riêng khi có tranh
chấp, cũng được xác định là tài sản chung của vợ chồng
Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung


Theo quy định của Luật HN&GĐ 2014 thì vợ, chồng có quyền và nghĩa
vụ ngang nhau trong việc tạo lập, duy trì khối tài sản chung và đồng thời
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Điều này có thể được
thể hiện qua nội dung sau:
“Vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc quản lý tài sản mà pháp luật quy
định phải đăng ký điều sở hữu, quyền sử dụng, thì trong giấy chứng nhận
quyền sở hữu, quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ
chồng có thỏa thuận khác” (Khoản 1 Điều 34 Luật HN&GĐ 2014)
“Việc định đoạt tài sản chung là Bất động sản, động sản mà theo quy định của
pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; tài sản đang là nguồn thu nhập chủ yếu
của gia đình thì phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng”
Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
• Nghĩa vụ phát sinh giao dịch do vợ hoặc chồng thực hiện
 Giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu cần thiết của gia đình

Về nguyên tắc khi thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung cần có sự
đồng ý của vợ, chồng, tuy nhiên trong một số trường hợp cần thiết của các
thành viên trong gia đình thì việc thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản
chung có thể một bên thực hiện, phía bên kia dù biết hay không đồng ý vẫn
phải chịu liên đới trách nhiệm. Đó là các giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của gia đình như: ăn mặc, ở, khám bệnh,...
 Giao dịch với tư cách người đại diện
Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới với giao dịch do một bên thực hiện quy
định tại khoản 1 điều 30 luật Hôn nhân và gia đình 2014 hoặc giao dịch khác
phù hợp với quy định tại các điều 24, 25, 26 của luật này.


Theo quy định tại các khoản 2,3 điều 24 và khoản 2 điều 25 Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2014 đại diện giữa vợ và có thể là đại diện ủy quyền
hoặc theo pháp luật:
Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao
dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên
quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên
kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp
luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó
phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan.


Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thực hiện.

Sự thống nhất ý chí của vợ, chồng trong giao dịch là cơ sở phat sinh nghĩa vụ
chung của vợ chồng. Những thỏa thuận này có thể được thực hiện bằng lời
nói, văn bản, cơng chứng, chứng thực. Tuy nhiên nghĩa vụ giao dịch của vợ,

chồng cần được xem xét theo thỏa thuận của vợ , chồng với người thứ ba
trong giao dịch. Bởi lẻ nếu người tham gia giao dịch thỏa thuận lấy tài sản
riêng của một bên vợ, chồng để thực hiện giao dịch thì người vợ, chồng phải
thực hện giao dich đó.
• Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng
phải chịu trách nhiệm.
 Thiệt hại do vợ chồng cùng thực hiện
Hành vi gây thiệt hại của vợ, chồng có thể là hành vi do vợ, chồng cùng thực
hiện gây ra thiệt hại cho người thứ ba, hành vi đó thể hiện ý chí thống nhất
của vợ, chồng. Về mặt chủ quan hành vi này có thể là cố ý hoặc vô ý. Vợ
chồng cũng phải liên đới bồi thường thiệt hại do mình gây ra.


 Thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của BLDS thì cha mẹ phải
bồi thường
Theo quy định của BLDS cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con của họ gây
ra trong ra các trường hợp:
Khi con dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại.
Khi con từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại nếu
khơng đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu
bằng tài sản của mình.
Khi cha mẹ là người giám hộ cho con gây thiệt hại nếu tài sản của con không
đủ thực hiện nghĩa vụ và cha khơng chính minh được mình khơng có lỗi.
 Thiệt hại do tài sản chung gây ra
Nguồn nguy hiểm cao độ là tài sản chung của vợ, chồng như: phương tiện
giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, vũ khí, chất cháy nổ... do pháp
luật quy định gây thiệt hại thì vợ, chồng với tư cách là chủ sở hữu thì phải
chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị hại.
• Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản chung:
chẳng hạn như nghĩa vụ phát sinh từ việc tu bổ, nâng cấp, sửa chữa,

cải tạo tài sản chung.


Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển
khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia
đình.

Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 xác định rõ: hoa lợi, lợi tức phát sinh
trên tài sản chung của vợ, chồng là tài sản chung.
Quyền của vợ, chồng trong việc yêu cầu phân chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân


Theo quy định tại Điều 38 Luật HN&GĐ 2014 vợ chồng có quyền phân chia
một phần hoặc tồn bộ tài sản miễn là việc phân chia này không gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình, quyền và lợi ích hợp pháp của
con và khơng nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ về tài sản.
3.2.3.2 Tài sản riêng của vợ, chồng
Các loại tài sản riêng của vợ, chồng
Theo quy định tài điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tài sản riêng
của vợ, chồng bao gồm:
 Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hơn; tài sản được thừa kế
riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia
riêng cho vợ, chồng; Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng
và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng
của vợ, chồng.
 Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản
riêng của vợ, chồng. hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong
thời kỳ hôn nhân.
Tài sản riêng khác của vợ, chồng được quy định tại Điều 11 Nghị định

126/2014/NĐ-CP bao gồm:
 Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp
luật sở hữu trí tuệ;
 Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết
định của Tịa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác;
 Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của
pháp luật về ưu đãi người có cơng với cách mạng; quyền tài sản khác
gắn liền với nhân thân của vợ, chồng.


Như vậy, những tài sản mà vợ chồng được cho, tặng, thừa kế riêng trong thời
kỳ hơn nhân, có bằng chứng hợp pháp, thơng qua hợp đồng tặng cho, có
chứng từ về phân chia di sản thừa kế, giấy chứng nhận đăng ký quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu đối với tài sản, và trước đó khơng có thỏa thuận để
được coi là tài sản chung thì sẽ được coi là tài sản riêng khi có tranh chấp, khi
ly hơn hoặc khi cần xác định tài sản riêng.
Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng
Vợ, chồng có quyền quyết định nhập hoặc khơng nhập tài sản riêng của
mình vào khối tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên với tài sản riêng khi
tham gia giao dịch, phải luật yêu cầu với tuân theo hình thức nhất định, thì vợ,
chồng cũng phải tn theo hình thức đó khi nhập tài sản chung mà xâm phạm
đến lợi ích gia đình hoặc nhằm trốn tránh các nghĩa vụ về tài sản sẽ khơng
được pháp luật thừa nhận.
Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng theo ý
chí của mình, miễn khơng làm thiệt hại hoặc ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước,
lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Tuy nhiên, xuất
phát từ lợi ích chung của gia đình, do đó trong trường hợp tài sản chung
khơng đủ để đáp ứng nhu cầu chung trong gia đình thì vợ, chồng phải dung tài
sản riêng của mình để đáp ứng nhu cầu đó. Đối với các tài sản mà vợ, chồng
đã chi dùng cho gia đình và khơng cịn nữa, vợ, chồng khơng có quyền địi lại.

Tài sản riêng của các bên vợ, chồng do tự họ quản lý; trong trường hợp
vợ hoặc chồng khơng thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy
quyền cho người khác quản lý, pháp luật dành cho người chồng hoặc người
vợ của họ có quyền quản lý tài sản đó.
Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng được qui định cụ thể tại Điều 45
Luật HN&GĐ năm 2014, gồm các nghĩa vụ sau:
 Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi hết hôn.


Tài sản mà vợ chồng có được trước khi kết hôn xác định là tài sản riêng
của người vợ, chồng đó. Họ có tồn quyền sở hữu đối với khối tài sản này.
Với qui định như vậy của Luật HN&GĐ, các khoản nợ hình thành trước khi
kết hơn là nghĩa vụ riêng của các bên vợ chồng. Bởi lẽ lúc này họ chưa phải là
vợ chồng của nhau, do vậy khơng thể đặt vấn đề có sự đồng ý của hai vợ
chồng hay không và cũng không thể lấy lý do việc làm đó là do nhu cầu
chung của gia đình.
 Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, định đoạt, sử dụng tài sản riêng
Tài sản riêng gắn liền với chủ sở hữu, về nguyên tắc, chủ sở hữu có quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt một cách độc lập về tài sản mà mình sở hữu.
Vì vậy, những chi phí phát sinh trong q trình quản lý, sử dụng cũng chỉ gắn
liền với chủ sở hữu.
 Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện khơng vì
nhu cầu của gia đình
Nếu vợ, chồng tự thực hiện giao dịch nhưng chứng minh được giao dịch
mà họ thực hiện nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình, thì nghĩa
vụ phát sinh từ giao dịch này là nghĩa vụ chung của vợ chồng, vì vậy khi
người vợ, chồng thực hiện giao dịch khơng chứng minh được giao dịch mà
mình thực hiện là nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình, sẽ được
suy đốn: Người vợ, chồng đó tự ý thực hiện giao dịch nhằm tự thỏa mãn nhu
cầu riêng tư cho bản thân, do đó phải thực hiện bằng chính tài sản riêng của

mình.
 Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.
Những hành vi trái pháp luật của vợ, chồng như xâm phạm tài sản, tính
mạng, sưc khỏe của một ai đó dẫn đến hậu quả là phải gánh chịu trách nhiệm
về tài sản, thơng thường đây là nghĩa vụ riêng của chính người đó. Chẳng hạn
như hành vi đập phá tài sản của hàng xóm, hành vi gây thương tích cho người


khác, hành vi hủy hoại tài sản chung của vợ, chồng,… thì người có hành vi
này phải chịu mọi trách nhiệm về tài sản do mình gây ra, nếu khi thực hiện
hành vi trái pháp luật người vợ, chồng này ở trong tình trạng có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ.
Ngoài những nghĩa vụ trên, nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của vợ,
chồng, như cấp dưỡng, nuôi dưỡng cho con riêng, cấp dưỡng cho chồng, vợ
trong cuộc hôn nhân trước hoặc chi phí để chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ vợ,
chồng cũng được xem là nghĩa vụ riêng của vợ, chồng.

3.3 Quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng
Khái niệm cấp dưỡng là gì?
Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản
khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà
có quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng trong trường hợp người
đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà khơng có khả năng lao
động và khơng có tài sản để tự ni mình hoặc người gặp khó khăn, túng
thiếu theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình 2014.
Theo khoản 1 Điều 107 Luật HN&GĐ 2014 thì “nghĩa vụ cấp dưỡng
được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà
nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cơ, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa
vợ và chồng theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình 2014”.
Lưu ý: Nghĩa vụ và quyền về cấp dưỡng giữa vợ và chồng luôn gắn liền

với nhân thân của vợ và chồng, không thể chuyển giao cho người khác và
không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác.
Thời điểm phát sinh quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng: chỉ xảy ra khi
vợ chồng ly hôn.
Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng: có 3 trường hợp


- Khi bên vợ hoặc chồng được cấp dưỡng có thu nhập hoặc có tài sản để
tự ni mình.
- Khi bên vợ, chồng được cấp dưỡng đã kết hôn.
- Khi một trong hai bên chết.

3.4 Quyền thừa kế của vợ, chồng
Vợ chồng có quyền thừa kế di sản của nhau khi một bên chết.
Điều kiện để được thừa kế di sản: tại thời điểm vợ hoặc chồng chết, hai
người vẫn được pháp luật thừa nhận là vợ, chồng của nhau.
Trong việc thừa kế di sản khi vợ hoặc chồng chết, cần lưu ý quyền yêu
cầu hạn chế chia di sản thừa kế của bên vợ hoặc chồng còn sống – theo
Khoản 3 Điều 66 Luật HN&GĐ 2014.
Tuy nhiên Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 khơng có quy định cụ
thể về vấn đề. Hay nói cách khác, Sau khi áp dụng quyền yêu cầu hạn chế
chia di sản thừa kế của bên vợ hoặc chồng cịn sống thì hệ quả như thế nào.
Mặt khác, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có quy định hướng giải
quyết:
- Trong trường hợp Tòa án ra quyết định hạn chế việc phân chia di sản
thừa kế  bên vợ, chồng còn sống có quyền sử dụng, khai thác để
hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ di sản; cịn phải có nghĩa vụ giữ gìn,
bảo quản di sản, khơng được thực hiện các giao dịch có liên quan đến
việc định đoạt di sản, nếu không được sự đồng ý của những người thừa
kế khác.

- Trong trường hợp thời hạn hạn chế phân chia di sản mà Tòa án ấn định
chưa hết, nhưng bên vợ, chồng cịn sống đã kết hơn với người khác
hoặc bên vợ, chồng còn sống thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán, phá
tán hoặc làm mất mát, hư hỏng di sản  những người thừa kế khác có
quyền yêu cầu phân chia di sản.


- Trong trường hợp người thừa kế của bên vợ, chồng túng thiếu, khơng
có khả năng lao động, khơng có tài sản để tự ni mình và khơng có
người khác để cấp dưỡng  Tòa án xem xét, quyết định về việc cho
chia di sản thừa kế trên cơ sở cân nhắc quyền lợi của bên vợ hoặc
chồng còn sống và quyền lợi của những người thừa kế khác.



×