Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ NỘI DUNG CỐT LÕI CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.29 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC

THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: “ĐLDT GẮN LIỀN VỚI CNXH” LÀ NỘI DUNG CỐT LÕI CỦA TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH

Lớp HP

: 1973HCMI0111

Nhóm

: Nhóm 03

GVGD

:


MỞ ĐẦU
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho sự nghiệp
đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thốt khỏi mọi áp bức, bất
cơng, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Cũng chính vì vậy mà vần đề dân
tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam đã được Người quan tâm,
nung nấu suốt cả đời.
Độc lập dân lộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận
và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Từ khi trở thành người cộng sản cho đến khi trở
thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là gắn độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Hồ


Chí Minh chỉ rõ các bài viết của Người chỉ có một “đề tài” là: chống thực dân đế quốc,
chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
(phần mở đầu chưa hồn chỉnh)
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐLDT GẮN LIỀN CNXH
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TTHCM VỀ ĐLDT GẮN VỚI CNXH TRONG THỰC
TIỄN CMVN


CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐLDT GẮN LIỀN CNXH
1
Khái quát quan niệm Hồ Chí Minh về Độc lâp dân tộc và Chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Khái quát quan niệm Hồ Chí Minh về Độc lập dân tộc
- Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa

Độc lập dân tộc là tư tưởng chủ đạo, chi phối toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí
Minh: Tự do cho đồng bào tơi, độc lập cho tổ quốc tơi, đó là tất cả những gì tơi muốn, đó
là tất cả những gì tơi hiểu. Trong bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ cộng hịa, Hồ Chí Minh đã đanh thép khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền
tự do”.
Hồ Chí Minh ln giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, song người cũng là
hiện thân của khát vọng hồ bình. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc trong hồ bình chân
chính của Người. Tinh thần “chúng ta muốn hồ bình” đã dẫn dắt nhân dân ta chiến đấu
và chiến thắng mọi thế lực xâm lược ngoại bang.
Hồ Chí Minh bước lên vũ đài chính trị trong bối cảnh nước mất nhà tan. Người đã tận
mắt chứng kiến sự đàn áp thống trị tàn bạo của đế quốc Pháp đối với dân tộc, sự hèn hạ
của triều đình phong kiến và rất khâm phục tinh thần chống Pháp giành độc lập của các
nhà yêu nước tiền bối và đương thời. Thực tiễn đó đã hình thành ở Người lịng khát khao
giải phóng dân tộc, thơi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước vào tháng 6/1911. Vì vậy,
vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là vấn đề dân tộc nói chung mà là

vấn đề dân tộc thuộc thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản. Thực chất của vấn đề dân
tộc là vấn đề đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của
nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền
dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Người đến với nhiều nước trên thế giới thì người
nhận ra rằng có 2 loại người: người đi bóc lột và người bị boc lột. nhân dân. Lúc này, nhu
cầu được tự do, độc lập của dân tộc thuộc địa trở lên lớn mạnh. Người đã từng nói: “du hi
sinh tới đâu, dù phải đốt cả dãy trường sơn cũng phải kiên quyết dành được độc lập”
-

Độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thực sự, hồn tồn gắn với hịa bình, thống
nhất, tồn vẹn lãnh thổ


Độc lập, tự do dân tộc ở đây không phải là thứ độc lập, tự do giả hiệu giống như chủ
nghĩa đế quốc nêu ra. Độc lập dân tộc phải được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, các quyền dân tộc, quyền con
người. Một dân tộc độc lập thì phải có quyền tự quyết định trên tất cả các mặt kinh tế,
chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ, mà trước hết và quan trọng nhất là
quyền quyết định về chính trị.
-

Độc lập dân tộc phải mang lại cơm no, áo ấm cho người dân
Người đã chỉ rõ: “Nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Bởi vậy, ngay sau khi cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Chính phủ tập trung vào
những cơng việc cụ thể là: chống nạn đói, nạn dốt và xóa các tệ nạn xã hội; bỏ thuế thân,
thuế chợ, thuế đị; thực hiện tín ngưỡng tự do; lương giáo đồn kết... Đó là những nội
dung, biện pháp và bước đi quan trọng để đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân.

Quan điểm chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh
bao hàm các nội dung lớn như: đời sống của người dân phải đẩy đủ cả về vật chất lẫn tinh
thần; nhân dân phải được tự do với một xã hội tiến bộ và công bằng, với hành lang pháp
lý bảo đảm quyền con người của người dân một cách đầy đủ và người dân thực sự là chủ
trong xã hội mới.
Giặc ngoại xâm cướp nước có thể làm ta mất nước, mất độc lập, nhưng giặc đói, giặc dốt
làm cho dân ta chìm đắm trong lầm than, đói khổ, đen tối và ấm no, hạnh phúc chỉ là ước
vọng, mong mỏi. Nghèo đói thì sức lực nhân dân yếu ớt, thực lực đất nước giảm sút,
giống nòi suy vong, thế nước đi xuống và khi đó khó có thể bảo vệ được nền độc lập tự
chủ, do vậy mà nguy cơ mất cả tự do, độc lập.

-

Độc lập, tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân
tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, là khát vọng trong suốt cuộc đời hoạt động Cách mạng của
HCM,
“khơng có gì quý hơn độc lập tự do” đó là khẩu hiệu hành động của dân tộc ta và cũng là
nguồn cổ vũ cho các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới chống lại chủ nghĩa thực dân,

1.1.2. Khái quát quan niệm Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội

Hồ Chí Minh tiếp thu quan điểm của những nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học,
đồng thời có sự bổ sung cách tiếp cận mới về chủ nghĩa xã hội: Người tiếp thu lý luận về
chủ nghĩa xã hội khoa học của lý luận Mác-leenin trước hết là từ u cầu tất yếu của cơng
cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam. Tiếp cận chủ nghĩa xã hội ở một phương diện nữa là
đạo đức, hướng tới giá trị nhân đạo, nhân văn mácxít. Bao trùm lên tất cả là Hồ Chí Minh
tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa.


Hồ Chí Minh bày tỏ quan niệm của người về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không chỉ qua

1 bài viết hay 1 cuộc nói chuyện nào đó mà tùy vào từng lúc, từng nơi, từng đối tượng
người đọc, người nghe mà người diễn đạt quan niệm của mình. Vẫn theo nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mac –Lênin về chủ nghĩa xã hội, nhưng với cách diễn đạt ngơn ngữ
nói và viết của Hồ Chí Minh thì những vấn đề này dầy chất lý luận chính trị phong phú,
phức tạp được biểu đạt bằng ngôn ngữ của cuộc sống, của nhân dẫn Việt Nam rất đỗi mộc
mạc, dung dị, dễ hiểu.
-

-

-

-

2
1

HCM coi CNXH là một chế độ xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hoàn chỉnh, trong
đó con người được phát triển tồn diện, tự do. Trong một xã hội như thế, mọi thiết chế, cơ
cấu xã hội đều nhằm tới mục tiêu giải phóng con người.
HCM diễn đạt quan niệm của mình về CNXH trên một số mặt của đời sống như: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội... với cách diễn đạt như thế cảu HCM về CNXH thì ta khơng
nên tuyệt đối hóa từng mặt, hoặc tách riêng rẽ từng mặt của nó, mà cần đặt trong một
tổng thể chung. Chẳng hạn, khi nói chuyện tại lớp hướng dẫn giáo viên cấp II, cấp III và
hội nghị sư phạm vào tháng 7-1956, HCM cho rằng: “CNXH là lấy nhà máy, xe luwara,
ngân hàng,… làm của chung. Ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, qi
khơng làm thì khơng ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”. Khi
nhấn mạnh mặt kinh tế, HCM nêu sở hữu công cộng của CNXH và phân theo nguyên tắc
của Chủ nghĩa Mac- Lenin là làm theo năng lực hưởng theo lao động có phúc lợi xã hội.
về mặt chính trị, HCM nêu chế độ dân chủ, mọi người được phát trienr toàn diện với tinh

thần làm chủ.
HCM quan niệm về CNXH ở nước ta bằng cách nhấn mạnh mục tiêu vì lợi ích của tổ
quốc, của nhân dân, là “làm sao cho dân giàu nước nạnh”, là “làm cho tổ quốc được giàu
mạnh, đồng bào sung sướng”, là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân
dân”, là làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, được xung sướng, tự do, là nước ta đã
hoàn toàn độc lập, dân ta dược hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành” như “ham muốn tột bậc: mà người đã trả lời các bài báovaof tháng
1-1946.
HCM nêu lên CNXH ở Việt Nam trong ý thức, động lực của toàn dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng một xã hội như thế là trách nhiệm, nghĩa vụ và
quyền lợi, động lực của toàn dân tộc. cho nên, với động lực xây dựng CNXH ở Việt Nam,
sức mạnh tổng hợp được sử dụng và phát huy, đó là sức mạnh tồn dân tộc kết hợp với
sức mạnh thời đại.
Mối quan hệ biện chứng giữa Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội
. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ
nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ
có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu,
nhiệm vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân


tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực
tiếp, trước mắt, cấp bách.
Kết luận này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và những mâu
thuẫn khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến.
Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến.
Với dân tộc Việt Nam, đó cịn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu
xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam.
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó

là nền độc lập thật sự, độc lập hồn tồn, chứ khơng phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập
nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền
với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ
cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh khơng bao giờ coi đó là mục tiêu
cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới
xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là
mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá
trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu,
quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều
kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách
mạng dân tộc dân chủ được thể hiện:
- Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai cấp công
nhân lãnh đạo.
- Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội chủ nghĩa,
từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
- Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ, khối quần
chúng công - nơng - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý thức giác ngộ, đồn kết
trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những nhân tố mới của văn hố, giáo dục đã được
hình thành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con
đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
2

Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân
tộc một cách hồn tồn triệt để
Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu
trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một q trình cách
mạng. Lơgíc lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục tiêu trước mắt là điều kiện tiên

quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu
trước mắt mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn cách


mạng khơng có bức tường ngăn cách, cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề
cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững
chắc nền độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc
của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân
tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để khơng rơi vào lệ thuộc, đói nghèo
lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt để: độc lập
tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội khơng chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà
cịn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để hiện thực hố các nội
dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa
mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, xố bỏ mọi áp bức,
bóc lột; cơng bằng hợp lý - làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm khơng
hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ cơi; một xã hội có nền sản xuất phát triển
gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân lao động.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực phát triển của
dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội. Với các thiết chế đó và
nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội có khả năng vận động liên tục, tự bảo vệ
vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân. Trên phạm vi quốc tế, chủ nghĩa xã
hội lớn mạnh sẽ có sức hấp dẫn thu hút các dân tộc, đặc biệt các dân tộc chậm phát triển
đi theo con đường chủ nghĩa xã hội; mặt khác chủ nghĩa xã hội sẽ là bệ đỡ của hồ bình
thế giới, hạn chế và ngăn chặn các cuộc chiến tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xố
bỏ tình trạng dân tộc này đi áp bức dân tộc khác.

Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín muồi thì các
tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh, đất nước càng có điều
kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng phịng thủ. Khơng có một chế độ xã
hội nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ
cấu trúc nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội thể hiện khả năng tự bảo vệ và biết cách bảo
vệ.
Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người chủ duy
nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước đó. Chế
độ dân chủ là chế độ do nhân dân làm chủ, dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của nhà
nước ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất cả các
lĩnh vực, phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện, nâng cao trong quá trình
phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết định vận
mệnh của dân tộc, tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ và có khả năng chống
trả bất kỳ một hành động nào đe dọa độc lập, tự do của dân tộc. Thực hiện được một xã
hội như vậy thì độc lập dân tộc mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới
thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để.


1.3. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Nhưng để
hiện thực hóa tính tất yếu này, theo Hồ Chí Minh cần phải có những điều kiện cơ bản sau
đây:
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Khơng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không thể vận
động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ
của các phong trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng sản đánh mất vai trò lãnh đạo
thì chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách mạng bị phản bội và hoàn toàn chệch hướng.
Thực tiễn ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng

tỏ điều đó.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, với tư cách là điều kiện cơ bản bảo đảm để độc lập dân tộc tiến
lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thể hiện trên các mặt chủ
yếu sau đây:
- Hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương để đưa sự nghiệp của dân tộc phát triển
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Lãnh đạo xã hội, trước hết là lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi cương lĩnh độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bằng cách thông qua tổ chức và đội ngũ cán bộ,
đảng viên của mình.
- Thơng qua cơng tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng và lãnh đạo công tác
kiểm tra trong các tổ chức của hệ thống chính trị để lãnh đạo tồn dân giành độc lập dân
tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trị lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính
khách quan. Để hồn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch, vững mạnh và
thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản
lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực hiện xây dựng Đảng về mọi mặt:
chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó cơng tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử.
Hai là, xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp cơng nhân, nơng dân và
trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng Việt Nam trong quá trình thực hiện
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết sức sáng tạo. Người
xác định: công - nông là gốc, là chủ lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước


là bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội Người địi
hỏi cơng nơng trí thức đồn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống
nhất.
Hồ Chí Minh cho rằng trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách mạng xã hội chủ
nghĩa đều cần đến và không thể thiếu được Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được
xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh công - nông và trí

thức để đồn kết tồn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là mối quan hệ biện
chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, khơng coi nhẹ hoặc thiên lệch bên
nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, Hồ Chí Minh chỉ rõ Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng Việt Nam và
cách mạng thế giới liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, Hồ Chí Minh ln có những chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp để tranh
thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hồ bình dân chủ trên thế giới.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam Tháng Tám 1945, trong những năm chống Pháp,
chống Mỹ, trong thời kỳ hồ bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều không tách rời sự
ủng hộ, giúp đỡ quốc tế.
Ba nhân tố nêu trên gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh kết luận: “Đó là ba bài học lớn mà mỗi
cán bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. Tính
tất yếu đó chỉ được hiện thực hố khi gắn liền với những điều kiện bảo đảm, trong đó yếu
tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TTHCM VỀ ĐLDT GẮN LIỀN VỚI CNXH TRONG
THỰC TIỄN CMVN
2.1. ĐLDT gắn liền với CNXH là lựa chọn tất yếu của CMVN
Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH dựa trên cơ sở khách quan
của lịch sử: Sự thất bại của các cuộc đấu tranh tiêu biểu như phong trào Cần Vương, Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh,…ta có thể thấy rằng chỉ có con đường cách mạng vơ sản,
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mới có thể giải phóng dân tộc, đảm bảo vững chắc
trọn vẹn dân tộc. Thế kỷ XIX, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta
đã anh dũng đứng lên đấu tranh chống lại chúng. Rất nhiều phong trào, cuộc khởi nghĩa
oanh liệt dưới ngọn cờ của các sỹ phu và các nhà yêu nước đã thất bại và bị thực dân
Pháp đàn áp tàn bạo. Vấn đề độc lập vẫn không giải quyết được, trước hết là do khơng có



một đường lối cách mạng đúng đắn dưới sự chỉ đạo của một hệ tư tưởng tiên tiến, cách
mạng và khoa học.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc đã rời đất nước ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Bôn ba khắp năm
chấu bốn biển vừa lao động vừa nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm của các cuộc cách
mạng tư sản như ở Pháp, Mỹ… và tham gia các hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp sau
đó trở thành người sáng lập ra Đảng Cộng Sản Pháp. Người đã từng bước rút ra nhiều bài
học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình.
Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Người diễn ra khi Người được đọc “Sơ thảo lần thứ
nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin vào 7/1920. Và theo
Người chính con đường cách mạng vơ sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai
cấp, độc lập dân tộc gắn với CNXH, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân
tộc… Từ đây, Người đã quyết định đi theo con đường cách mạng của Lênin, Cách mạng
vô sản. Đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của tồn dân tộc Việt Nam.
Sự lựa chọn đó dựa trên hai căn cứ chủ yếu:
- Chỉ có CNXH mới giải phóng được triệt để giai cấp vơ sản và nhân dân lao động khỏi
ách bóc lột, áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân và đưa nhân dân lên làm chủ xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn liền với CNXH thì
mới vững chắc.
- Cách mạng XNCH tháng 10 Nga năm 1917 thành công đã mở ra thời đại mới – thời
đại quá độ từ CHTB lên CNXH. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả năng hiện
thực cho nhữngdân tộc lác hậu tiến lên CNXH. Những khả năng hiện thực này đã đem lại
nhận thức mới mẻ và triệt để trong quan niệm cũng như giải pháp để giải quyết vấn đề
độc lập dân tộc. Tính chất mới mẻ và triệt để này thể hiện ở những điểm mấu chốt:
+ Độc lập dân tộc thực sự đảm bảo cho dân tộc đó có quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa
chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mơ hình phát triển, độc lập cả về kinh tế,
chính trị, văn húa. Điều quan trọng là độc lập dân tộc phải thực sự đảm bảo quyền làm
chủ của nhân dân; nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; con người được phát
triển tồn diện, có năng lực và điều kiện làm chủ.

+ Độc lập dân tộc địi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nơ dịch của dân tộc này
với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và văn húa tinh thần.
+ Sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn húa giữa các nước dựa trên nguyên tắc tơn trọng chủ
quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì thế giới khơng có có chiến tranh, khơng có
sự hồnh hành của cái ác, của những sụ tàn bạo và bất công, đảm bảo co con người sống
trong an bình và hạnh phúc.
Như vậy con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường phù hợp
quy luật khách quan của cách mạng nước ta, đáp ứng nguyện vọng hàng ngàn đời nay của
nhân dân ta là độc lập dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.


Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam Á. Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta tiến
hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược,
thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đưa cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Năm 1986, trong bối cảnh cực kỳ khó khăn do chủ nghĩa xã hội trên thế
giới lâm vào thoái trào, phe xã hội chủ nghĩa đứng trước nguy cơ tan rã, khủng hoảng
kinh tế – xã hội trong nước kéo dài, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi
mới, tạo ra một bước ngoặt mang ý nghĩa cách mạng cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Nhờ đó, gần 30 năm qua, nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử, tạo ra thế và lực mới, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Có thể khẳng định các sự
kiện trong những năm 1930, 1945, 1954, 1975, 1986 đã trở thành những cột mốc lịch sử
quan trọng cho sự lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó minh chứng con
đường cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản chân chính lãnh đạo tất yếu đi
lên chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc luôn gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu,
nội tại. Bởi, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là
sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp
với xu thế phát triển của lịch sử.”


2.2. ĐLDT gắn liền với CNXH là sợi dây chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình CMVN.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi dây chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình
CMVN, đường lối này đã trải qua những giai đoạn phát triển với nội dung và hình thức,
bước đi gắn liền với đặc điểm của mỗi giai đoạn, tạo nên sức mạnh kì diệu đánh bại mọi
kẻ thù, giành độc lập và xây dựng, bảo vệ đất nước thắng lợi.
* Thời kì đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
Ngay từ khi ra đời, trong cương lĩnh chính trị của mình (chính cương vắn tắt và sách lược
vắn tắt của Đảng 3/2/1930), Đảng đã xác định dứt khoát, rõ ràng rằng: Cách mạng Việt
Nam là một q trình cách mạng khơng ngừng và phải trải qua 2 giai đoạn: Cách mạng
dân tộc dân chủ ở giai đoạn đầu, làm xong mục tiêu cơ bản của cách mạnh là giành chính
quyền thì sẽ chuyển sang giai đoạn tiếp theo, giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tư bản. Mục đích cuối cùng của Đảng là thực
hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên đất nước Việt Nam. Xác lập vai trị lãnh
đạo của giai cấp cơng nhân và gắn liền với nó là xác lập sự liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đây là vấn đề mấu chốt đảm bảo cho cách
mạng phát triển theo phương hướng đó.
Thêm vào đó, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là triển vọng tiến lên, chưa phải là mục tiêu trực
tiếp, nhưng nó định hướng và có ý nghĩa vạch thời đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Nó quyết định trước tính đúng đắn của toàn bộ đường lối chiến lược và sách lược của


cách mạng. Nó quyết định tính chất, động lực và một phần phương pháp tiến hành cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ.
Tính triệt để và sức mạnh của cách mạng giải phóng dân tộc bắt nguồn từ mục tiêu của
cách mạng là giải phóng dân tộc kết hợp với từng bước giải phóng giai cấp. Tư tưởng đó
vừa động viên được tầng lớp trên, vừa động viên được các tầng lớp nhân dân lao động
trong cả nước tham gia cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc. Điều này bắt nguồn từ việc
sắp xếp lực lượng cách mạng: xây dựng và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất dựa trên
cơ sở cơng – nơng - trí liên minh, dưới sự lãnh đạo cách mạng của Đảng tiên phong.

Ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong khi tập trung sức người, sức của
để hoàn thành nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, Đảng vần không quên
nhiệm vụ tuyên truyền phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
* Thời kì vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới (1945-1954)
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật cơ bản của cách mạng
Việt Nam. Nhưng ở mỗi thời kì lich sử, Đảng ta lại rất linh hoạt, sáng tạo trong giải quyết
mối quan hệ giữa mục tiêu, chiến lược và chỉ đạo chiến lược, để mục đích cuối cùng là
đạt được độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Khối đại đoàn kết toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược dựa trên nền tảng
phát huy lòng yêu nước của toàn dân, vừa dựa trên những thành tựu ban đầu của chế độ
mới. Chế độ mới không chỉ là lực lượng tinh thần mà còn là lực lượng vật chất to lớn,
đảm bảo kháng chiến lâu dài, càng đánh càng thắng, cuối cùng đánh bại cuộc xâm
lược của thực dân Pháp.
Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển
trong suốt quá trình lãnh đạo của mình. Trong Báo cáo Hồn thành giải phóng dân tộc,
phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới CNXH của Đại hội lần thứ II của Đảng (năm 1951)
khẳng định, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam sẽ tiến triển thành cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Và, nước Việt Nam sẽ thành một nước xã hội chủ nghĩa. Đó là tư tưởng
cách mạng không ngừng, luôn nắm vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, tư
tưởng chiến lược cách mạng của Đảng ta.
* Thời kì cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở Miền Nam (1954-1975).
Bước vào thời kì này, đường lối chiến lược kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
được thể hiện một cách độc đáo, chưa có tiền lệ lịch sử và hồn toàn phù hợp với đặc
điểm và yêu cầu cách mạng nước ta trong điều kiện nước ta tạm thời bị chia cắt ra làm 2
miền. Đó là đường lối tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng khác nhau ở 2 miền:
cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Sự kết hợp ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kì này mang hình thái
khác thời kì trước. Chủ nghĩa xã hội khơng chỉ là sức mạnh tinh thần, là triển vọng mà trở
thành sức mạnh vật chất, sức mạnh tổ chức, trở thành hiện thực trên một nửa đất nước,

sức mạnh của 1 chế độ xã hội. Thời kì này cả 2 ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã


hội đều là trực tiếp. Hiện thực xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã thúc đẩy nhân dân
miền Nam tiến lên giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Mặt khác, cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam thôi thúc nhân dân miền Bắc làm việc bằng 2 để giải
phóng miền Nam. Sự kết hợp 2 ngọn cờ trong giai đoạn này còn là kết hợp sức mạnh của
thế giới, của thời đại.
Dựa vào sức mạnh của chế độ xã hội mới được thiết lập ở vùng giải phóng miền Nam và
chủ nghĩa xã hội ở miền bắc, nhân dân ta đã vượt qua biết bao nhiêu khó khăn gin khổ
giành thắng lợi ngày càng to lớn. Nhờ tinh thần độc lập tự chủ, chúng ta khơng chờ miền
Nam giải phóng hồn tồn mới xây dựng Chủ nghĩa xã hội, không chỉ xây dựng chủ
nghĩa xã hội miền Bắc làm gương cho miền Nam, mà tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng ở 2 miền Nam – Bắc.
* Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1975 – nay)
Từ 1975 trở đi, đường lối chiến lược kết hợp độc lập dân tộc và củ nghĩa xã hội được thể
hiện ở hình thái mới. Tổ quốc đã hồn tồn độc lập thì dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn
làm một. Chỉ có chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động mới được vĩnh viễn thốt khỏi cảnh
bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, có cuộc sống tự do, ấm no, văn minh và hạnh
phúc. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại cho nhân dân lao động quyền làm chủ thực sự
đối với xã hội, đối với thiên nhiên và đối với bản thân mình. Chỉ có Chủ nghĩa xã hội mới
mang đến cho tổ quốc ta nền kinh tế hiện đại, nền văn hóa, khoa học tiên tiến, nền quốc
phịng vững mạnh, do đó mà đảm bảo cho đất nước độc lập thống nhất đầy đủ, vững chắc
nhất và ngày càng phát triển phồn vinh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đang quyết tâm phấn đấu để thực hiện 2 nhiệm
vụ chiến lược của giai đoạn cách mạng mới, đó là xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ này có quan hệ mật thiết
gắn bó với nhau: xây dựng là tạo điều kiện để bảo vệ và bảo vệ là để xây dựng. Đó chính
là sự biểu hiện của sự kết hợp ngọn cờ độc lập dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong giai
đoạn mới. Độc lập dân tộc là tiền đề và điền kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn chủ

nghĩa xã hội là đảm bảo chắc chắn và bền vững cho nền độc lập dân tộc.
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Đại hội lần IV của Đảng (năm 1976) chỉ rõ: Cách
mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới - “giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất
làm nhiệm vụ chiến lược duy nhất là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”.
Củng cố nền độc lập dân tộc đã giành được là một yêu cầu bức thiết. Nhân dân ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, sau nhiều thập kỉ đấu tranh gian khổ đã
giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc. Nhưng nền độc lập dân tộc chưa được củng
cố. Nước ta còn lạc hậu về kinh tế. Nhân dân ta còn nghèo. Các thế lực thù địch ngày
đêm chống đối ta bằng âm mưu “ Diễn biến hũa bình “, kết hợp với răn đe quân sự.
Phấn đấu để xây dựng Tổ quốc ta từ 1 nước nghèo nàn trở thành 1 nước dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là yêu cầu bức xúc để củng cố nền độc lập
dân tộc. Độc lập dân tộc chỉ được củng cố khi các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn húa,


quốc phòng, an ninh phát triển vững mạnh đủ sức đẩy lùi nhũng thế lực chống đối từ bất
kì hướng nào.
Phát huy sức mạnh toàn dân để phấn đấu đạt mục tiêu đó. Chúng ta nâng nhận thức vị trí
vấn đề dân tộc lên ngang với sự hiểu biết về kinh nghiệm lịch sử của Đảng. Trong giai
đoạn cách mạng mới, không phải vấn đề đấu tranh giai cấp sẽ được đặt cao hay ngang
bằng với phát huy sức mạnh yếu tố dân tộc.
Yếu tố dân tộc phải được giải quyết theo lập trường giai cấp vô sản, nhưng vẫn giữ được
vị trí hàng đầu. Chúng ta tiếp tục phát huy chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tinh
thần tự lực, tự cường: xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy
thế mạnh mà đất nước ta có tiềm năng như tài nguyên đa dạng, sức lao động dồi dào…
Xuất phát từ thực tiễn, Đại hội lần thứ V của Đảng (năm 1982) nêu lên hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là: Xây dựng thành công CNXH;
sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời, xác
định hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ mật thiết với nhau.
Đảng phải đánh giá đúng vai trò của các thành phần kinh tế và gắn liền với nó là vị trí các

giai cấp trong nền sản xuất xã hội. Độc lập dân tộc vẫn là một động lực lớn của cách
mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kì đổi mới xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu đó là phù hợp với lợi ích
chung, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội và các cá nhân.
Độc lập dân tộc là điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhưng chủ nghĩa xã hội lại củng
cố độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ biện chứng. Từ
khi Đảng ra đời đến nay, về cơ bản Đảng đã nhận thức và giải quyết đúng mối quan hệ
đó. Tuy nhiên, vì mắc phải những sai lầm do bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội trong chỉ
đạo chiến lược và tổ chức thực hiện đã làm cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng
về kinh tê – xã hội kéo dài.
Để khắc phục những sai lầm đó, Đại hội lần VI (năm 1986) của Đảng với tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện, sâu sắc và triệt để, mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng nước ta trên con
đường đi lên CNXH..
Từ khi xác định đúng mơ hình chủ nghĩa xã hội mới, Đảng đã giành được nhiều thành tựu
quan trọng, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, bước vào thời kì cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Nhận thức đúng bản chất, nội dung của phạm trù, tìm đúng hình thức kết hợp là
1 cuộc đấu tranh gian khổ về tư tưởng và lí luận.
Ngày nay hệ thống xã hội chủ nghĩa khơng cịn, chúng ta mất một cỗ dựa hết sức quan
trọng. Trong hoàn cảnh lịch sử mới, tuy gặp nhiều khó khăn chúng ta vẫn tin tưởng xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Bởi vì: trước đây các nước xã hội chủ nghĩa giúp ta, ta
vẫn nhấn mạnh tư tưởng tự lập, tự cường, khơng ỷ lại vào bên ngồi. Thế giới ngày nay
có đặc điểm là ngày càng tồn cầu hóa. Và nhất là Đảng ta, nhân dân ta trưởng thành
vượt bậc về chính trị, tư tưởng, giành được nhiều thành tựu trong việc xây dựng đất nước,
trụ vững và tiến lên.


Ngày nay khi Đất nước đã hoàn toàn độc lập, thống nhất, hoàn cảnh quốc tế thay đổi, xu
thế giải quyết mâu thuẫn bằng thương lượng ngày càng nổi lên. Nhiệm vụ đặt ở vị trí ưu
tiên xây dựng chủ nghĩa xã hội là đúng đắn. vào giai đoạn cách mạng mới, sự kết hợp

giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên những phương hướng chiến
lược đó. Vạch ra phương hướng chiến lược đúng là điều vô cùng quan trọng. Điều quan
trọng không kém là phải biến phương hướng chiến lược đúng thành mục tiêu cụ thể thích
hợp với mỗi thời kì.
Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ VIII (năm 1996) của Đảng ta khẳng định con đường đi
lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn và nêu ra bài học kinh nghiệm số 1
là: Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới; nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội lần thứ IX (năm 2001) của Đảng đã bổ sung, làm sáng tỏ thêm con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam về mục tiêu, động lực, về bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong quá
trình đi lên CNXH của nước ta.
Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ X (năm 2006) của Đảng khẳng định: Nhận thức lý
luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc
trưng cơ bản. Đồng thời, Đại hội đã rút ra 6 bài học lớn của thực tiễn 20 năm đổi mới,
trong đó nhấn mạnh bài học số 1 là: Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội XI (năm 2011) đã tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, bổ sung phát triển
thành Cương lĩnh năm 2011, đã rút ra 5 bài học cơ bản và tiếp tục nhấn mạnh bài học
hàng đầu là: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Cương lĩnh đã nêu lên những
nội dung cơ bản của con đường quá độ lên CNXH ở nước ta; đồng thời bổ sung, phát
triển những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc
trưng cơ bản, vạch ra các phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn cần phải nắm
vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Xác định đúng các chặng đường của thời kì q độ, hoạch định chính xác nhiệm vụ, mục
tiêu cho mỗi chặng đường mới đảm bảo kết hợp chặt chẽ giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội: từ năm 1975 đến nay, đất nước trải qua 2 chặng đường. Chặng đường đầu
của thời kì quá độ bắt đầu từ 1975 đến giữa thập kỉ 90. Sau thắng lợi với đế quốc Mỹ,
nhân dân ta hết sức phấn khởi, phát huy khí thế chiến thắng xây dựng chế độ mới.
Trong khi mới bắt tay vào nhiệm vụ xây dựng, chúng ta gặp vô vàn khó khăn vì điểm

xuất phát thấp, chịu hậu quả nặng nề chiến tranh, đời sống nhân dân còn cực khổ. Trong
chặng đường đầu, Đảng phải xác định đúng hình thức, bước đi, giải pháp chiến lược xây
dựng đất nước nhằm một trong những mục tiêu là ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa vững mạnh:
chúng ta đã hoàn thành những nhiệm vụ của chặng đường đầu và bước vào chặng đường
tiếp theo đó là đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơng nghiệp hóa là nhiệm vụ
trung tâm của thời kì q độ. Thông qua thực hiện đường lối này, chủ nghĩa xã hội được


xây dựng trên cơ sở của chính nó. Đất nước ta đi lên từ một nền kinh tế thấp kém nên
khuynh hướng phát triển tư bản chủ nghĩa không thể không phát sinh. Cuộc đấu tranh
giữa 2 con đường diễn ra như một tất yếu khách quan. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
thành cơng sẽ hạn chế ở mức cao khuynh hướng muốn độc lập dân tộc đi vào quỹ đạo tư
bản chủ nghĩa. Với đường lối đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân phấn đấu đến năm 2020
trở thành 1 nước công nghiệp.
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là 1 bài học kinh nghiệm lịch sử
lớn có giá trị lí luận thực tiễn và thiết thực đối với cách mạng Việt Nam. Đó là mục tiêu,
lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta. Con đường này phù hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh và đã được thực tiễn kiểm nghiệm hơn 70 năm qua là hoàn toàn
đúng đắn. Ai nghĩ đi, làm khác đi là quay lưng lại với lịch sử, là đi ngược lại với lợi ích
dân tộc, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà bước phát triển mới của cách mạng Việt
Nam đang đặt đất nước trước thời cơ và vận hội mới cùng những thách thức và nguy cơ
không thể xem thường. Giữ vững định hướng XHCN là 1 nguyên tắc của đổi mới mà
thực chất là kiên định mục tiêu, lí tưởng của Đảng, kiên định con đường “độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội” mà dân tộc Việt Nam lựa chọn. Đây là bài học xuyên suốt
tồn bộ q trình cách mạng Việt Nam và là 1 trong những cội nguồn của chiến thắng mà
nhân dân ta đã giành được từ khi có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó là
động lực tạo ra sức mạnh để nhân dân ta thực hiện được những nhiệm vụ chiến lược mà
Đảng đã đề ra.
2.3. Kiên định mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH trong sự nghiệp đổi mới đất nước

hiện nay
Trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH luôn là một trong những chủ đề nóng. Các thế lực thù địch cho rằng: CNXH sụp
đổ ở Liên Xô và Đông Âu, thế giới đương đại là thế giới đi theo con đường TBCN nên
Việt Nam không thể giữ định hướng XHCN. Những luận điệu đó đã tác động nhất định
đối với một số người nhẹ dạ, cả tin. Chính vì thế, rất cần phải lý giải một cách cặn kẽ hơn
việc Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.


Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với CNXH luôn được
khẳng định. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung,
phát triển năm 2011) khẳng định một trong những bài học kinh nghiệm lớn của cách
mạng nước ta là: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh
quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội
là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau” (1). Văn
kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam;
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới” (2).
Thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI đã chứng
minh sự lựa chọn của Đảng và nhân dân ta là hồn tồn chính xác.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Từ khi thực dân
Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên mạnh mẽ. Các cuộc nổi dậy liên
tiếp nổ ra trên khắp mọi miền đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc
sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào: Cần Vương, khởi nghĩa
Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu
tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại. Hơn bao giờ hết, độc
lập dân tộc trở thành yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam - xã hội thuộc địa,
nửa phong kiến. Cơng cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong “tình hình đen tối



như khơng có đường ra”. Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng gánh vác sứ
mệnh lịch sử đó?
Lịch sử đã có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã khẳng định CNTB nhất định bị thay
thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ CSCN khơng có người bóc lột người và người
đào huyệt chơn CNTB chính là giai cấp cơng nhân - sản phẩm của nền đại cơng nghiệp
TBCN. Đó là một “tiếng sét” trong lòng CNTB ở vào thời thịnh trị, sau khi chiến thắng
các chế độ chuyên chế phong kiến và bành trướng ra khắp thế giới.
Nghiên cứu lịch sử xã hội lồi người, Mác đã khái qt điều đó qua sự phát triển của các
phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Theo quan điểm của Mác, sự thay đổi hình thái kinh
tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác nhất định phải có điều kiện là hình thái
kinh tế - xã hội cũ đã mất khả năng tự phát triển và trở thành lực cản xã hội. CNTB tất
yếu bị thay thế bằng CNXH, và điều đó sẽ xảy ra ở những nước mà CNTB phát triển đến
đỉnh cao. Chính Lênin và Đảng Bơnsêvích Nga đã vận dụng sáng tạo các luận điểm của
Mác vào hoàn cảnh lịch sử của nước Nga khi xác định: giai cấp cơng nhân giành lấy
chính quyền, sau đó dựa vào chính quyền của mình xây dựng CNXH.
Đúng vào thời điểm CNTB tưởng như đang cực thịnh, Cách mạng Tháng Mười Nga nổ
ra, mở đầu cho xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Nếu trước Cách mạng Tháng
Mười Nga, chế độ TBCN phát triển đến mức người ta rêu rao như một “định mệnh”, như
một “trật tự vĩnh hằng”, thì sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, khơng ai khơng thấy
cái “xiềng xích” giam hãm thế giới đã bị chặt đứt. Trật tự bị lật nhào tạo ra phản ứng dây
chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải phóng có quy mơ to lớn và chiều sâu chưa từng
thấy trong lịch sử nhân loại.
Rõ ràng, Cách mạng Tháng Mười Nga “rung chuyển thế giới” đã làm cho tính chất thời
đại, giai cấp trung tâm của thời đại, vai trò lãnh đạo cách mạng thay đổi. Vì vậy, con
đường để giải quyết mâu thuẫn xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng
cũng thay đổi. Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là ngọn đèn dẫn đường tỏa sáng,
mà cịn có những đóng góp thực tế to lớn, làm thay đổi cả những yếu tố bên trong của
CNTB. Cách mạng Tháng Mười là niềm vinh quang của những người vô sản cùng với

hàng trăm triệu người lao động thành thị và nông thôn nước Nga. Họ đã lật đổ sự thống
trị của giai cấp tư sản và phong kiến, giành quyền làm chủ cuộc sống của mình. Đó là
thắng lợi của một xu thế mới: độc lập dân tộc và CNXH.
Tồn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, đã tác động mạnh mẽ vào Việt
Nam - nơi mà chính “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng
sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt của cơng cuộc giải phóng nữa thôi”. Nguyễn Ái
Quốc là người gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu
nước đến với CNXH. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, bản lĩnh và tố chất đặc
biệt Việt Nam “bắt gặp” chủ nghĩa Mác - Lênin chung đúc nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt
Nam làm cơ sở cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930). Sự kiện này là mốc
son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân
tộc và CNXH trong bản chất của Đảng. Vừa ra đời, Đảng khẳng định: “Chủ trương tư sản


dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ, chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; đem lại cho mọi người, không phân biệt
chủng tộc và nguồn gốc, một xã hội tốt đẹp gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái.
Như vậy, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH của Đảng và nhân dân ta là một
tất yếu khách quan. Xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng
Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều
kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân
dân Việt Nam; xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển
của đất nước Việt Nam hôm nay và mai sau. Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về
chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại. Độc lập dân tộc địi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp
bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh
thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, cơng việc nội bộ quốc gia - dân tộc
phải do quốc gia - dân tộc đó giải quyết, khơng có sự can thiệp từ bên ngồi.
Bản chất của CNXH là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, dân tộc, xã hội, con người.

CNXH sẽ xóa bỏ căn ngun kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách
áp bức con người về chính trị và sự nơ dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng.
CNXH thực hiện độc lập dân tộc để mở đường tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế và
phong phú, đa dạng về văn hóa, tinh thần; thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân.
Chỉ với CNXH, độc lập dân tộc mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của
mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ
thực sự, có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong
phú. Chính điều đó làm cho nền tảng của sự độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả
năng bảo vệ nền độc lập dân tộc càng đầy đủ, mạnh mẽ.
Sự phát triển thực chất và bền vững của độc lập dân tộc được đo bằng những khả năng và
điều kiện bảo đảm cho dân tộc thốt khỏi tình cảnh nơ lệ, phụ thuộc, bị áp bức bóc lột và
nơ dịch. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu
trong tương quan với các dân tộc khác trên thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn
để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng
đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác.
Tồn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm đó chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng
con đường phát triển CNXH. Độc lập dân tộc và CNXH trở thành hệ giá trị phát triển của
Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, làm nên cốt cách, bản lĩnh và vị thế Việt Nam.
Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó, từ năm 1930 đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo
nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua mn vàn
khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Cách mạng Tháng Tám năm
1945, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, Đại thắng mùa Xuân năm 1975.


Qua hơn 70 năm giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đặc
biệt 30 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng tiêu biểu cho
bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng XHCN, độc lập tự chủ trong mọi
đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa nước ta từ một xứ thuộc địa, nửa phong

kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo định hướng XHCN, nhân dân
ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta ra khỏi
tình trạng đói nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh CNH, HĐH hội nhập quốc tế, có
quan hệ quốc tế ngày càng rộng mở, có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế.
Như vậy, độc lập dân tộc và CNXH, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là
cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son. Độc
lập dân tộc gắn với CNXH là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới, là cội
nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. Hệ giá trị độc
lập dân tộc và CNXH là mục tiêu, lý tưởng phù hợp xu thế thời đại, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

KẾT LUẬN
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no,
hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách
mạng dân tộc dân chủ. Để bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc,
đói nghèo, lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Do những
đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã giành được
trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc lập dân tộc và phát
triển dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ
nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự chân chính.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện
nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng
được yêu cầu bức xúc của dân tộc và khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc
lập, tự do, ấm no và hạnh phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị
tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta
đến độc lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh
trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.




×