TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA SỬ
........................
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
••
NIÊN KHĨA 2013 - 2017
CẦN LAO NHÂN VỊ CÁCH MẠNG ĐẢNG
••
TRONG CHÍNH THỂ ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HỊA
•••
Chun ngành: Sư phạm Lịch sử GVHD:
Th.s Bùi Anh Thư SVTH: Chế Thị Kim
Hằng
MSSV: 1321402180002
Lớp: D13LSVN
Bình Dương, Tháng 4 năm 2017
LỜI CẢM ƠN
Thời gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp Đại học đối với tơi rất đặc biệt.
Trong suốt thời gian này, tôi đã học được rất nhiều điều bổ ích cho đam mê nghiên
cứu khoa học của mình. Để hồn thành khóa luận này, tơi đã nhận được sự hướng
dẫn tận tình của q thầy cơ giáo, sự giúp đỡ, động viên nhiệt tình từ phía gia đình,
bạn bè.
- Trước hết, tơi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Lịch sử, trường Đại học
Thủ Dầu Một đã tận tình giúp đỡ và truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong
quá trình học tập cũng như q trình tơi thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
-
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Th.s Bùi Anh Thư - giáo viên hướng
dẫn khóa luận này - người đã hướng dẫn tận tình, động viên và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt q trình thực hiện và hồn thành khóa luận.
-
Tơi xin chân thành cảm ơn Hội đồng khoa học đã xét duyệt và cho những
nhận xét quý báu để bài khóa luận được hồn thiện hơn.
Cuối cùng, tơi xin gửi lời chúc sức khỏe tới quý thầy cô khoa Lịch sử và
mong Khoa ngày càng phát triển hơn nữa!
Dù đã cố gắng hết sức, nhưng khóa luận vẫn khơng thể tránh khỏi những hạn
chế và thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý từ phía thầy cơ, bạn bè.
Xin chân thành cảm ơn!
Tp. Thủ Dầu Một, tháng 4 năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là do tự bản thân thực hiện cùng
với sự hỗ trợ của giáo viên hướng dẫn và không sao chép các cơng trình nghiên cứu
của tác giả khác. Các dữ liệu, thơng tin thứ cấp sử dụng trong Khóa luận đều được
trích dẫn rõ ràng.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này!
Sinh viên
(Ký và ghi rõ họ tên)
Chế Thị Kim Hằng
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đến giữa thế kỉ XX, trước nguy cơ thất bại của Pháp, Mỹ càng can thiệp sâu
hơn vào cuộc chiến ở Đông Dương. Sự kiện ngày 7 tháng 5 năm 1954 đã đánh dấu
sự thất bại hoàn toàn của Pháp tại Điện Biên Phủ buộc Pháp phải đầu hàng, ngồi vào
bàn đàm phán với danh nghĩa làm một nước bại trận. Trước tình hình đó, Mỹ tiến
hành thay chân Pháp tại Đơng Dương. Thực hiện chính sách thực dân kiểu mới, Mỹ
đã lựa chọn Ngơ Đình Diệm làm tay sai đắc lực nhằm phục vụ âm mưu xâm lược của
mình. Được sự hậu thuẫn của Mỹ, ngày 23/10/1955, Diệm tiến hành tổ chức cuộc
Trưng cầu Dân ý. Kết quả là Bảo Đại bị phế truất, Diệm đắc cử Thủ tướng. Khi
chính quyền Việt Nam Cộng do Ngơ Đình Diệm làm Tổng thống được dựng lên, Mỹ
trực tiếp viện trợ và là lãnh đạo mới của chính thể này, biến miền Nam Việt Nam
thành thuộc địa kiểu mới, phòng tuyến chống phá cách mạng Xã hội Chủ nghĩa miền
Bắc Việt Nam.
Để củng cố và phát triển thế lực tại miền Nam Việt Nam, Ngơ Đình Diệm từ
lâu ấp ủ ý định thành lập một đảng chính trị mới. Để thực hiện, Ngơ Đình Diệm cho
tập hợp các tổ chức, lực lượng Công giáo di cư và các thành phần chống Cộng khác
thành một tổ chức chính trị đối đầu với các thế lực cịn lại của Pháp ở miền Nam Việt
Nam, nhằm đối phó với Đảng Lao động Việt Nam. Với mong muốn hậu thuẫn cho
chính quyền của anh mình là Ngơ Đình Diệm, Ngơ Đình Nhu đã có những toan tính
thành lập một Đảng chính trị ngay từ đầu thập niên 1950, Ngơ Đình Nhu đã xây
dựng cốt cán của một đảng chính trị mới, với nhóm người chạy khỏi Hà Nội vào khu
tự trị Bùi Phát sau ngày 19/12/1946, mà sau này mới xuất hiện công khai với tên gọi
Đảng Cần lao Nhân vị, nhưng thường chỉ gọi vắn tắt là “Cần Lao”. Sự ra đời của
Đảng Cần Lao mang ý nghĩa nhằm thiết lập một chính quyền vững mạnh để tránh sự
nguy hại cho Việt Nam Cộng hòa từ các thế lực khác.
Tìm hiểu về Lịch sử Việt Nam hiện đại, tác giả nhận thấy rằng nghiên cứu về
chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa - mà cụ thể là về Đảng Cần lao nhân vị là một
việc làm có ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn.
Về mặt khoa học
Thứ nhất, dưới thời kì của chế độ Việt Nam Cộng hịa, được xem là thời kì đầy
4
biến động của đất nước trên nhiều phương diện. Một thời kì đặt ra nhiều vấn đề cần
nghiên cứu, đặt biệt là giới khoa học lịch sử. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn còn những
khoảng trống chưa khai thác triệt để về giai đoạn này cần được nghiên cứu và đánh
giá lại. Chính vì vậy, đây vẫn cịn là một vấn đề nghiên cứu khá mới mẻ và mang
tính khoa học cao.
Thứ hai, trong thời gian 9 năm lãnh đạo của chính quyền Đệ nhất Việt Nam
Cộng hịa từ năm 1955 đến năm 1963, cùng với sự sụp đổ của chính quyền Đệ nhất
Việt Nam Cộng hịa, Đảng Cần Lao cũng tan rã. Như vậy, vai trò của Đảng đối với
chính quyền ra sao, và có những tác động như thế nào khi cùng với hệ thống các
chính sách của Mỹ và chính quyền tay sai đã gây ra những tác động đa chiều với
kinh tế - xã hội Việt Nam trên khắp các vùng ở miền Nam nước ta.
Thứ ba, trong q trình tồn tại ngồi sự hậu thuẫn của Hoa kì, để trụ vững ở
miền Nam, chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa đã tạo ra cho mình những trụ
cột về mặt chính trị cũng như là xã hội. Đảng Cần lao nhân vị là một trong những
chỗ dựa cho chính quyền. Vậy Đảng được tổ chức và vận hành trên những nguyên
tắc nào? Chịu ảnh hưởng của những nhân tố gì? Đó là những vấn đề đặt ra cần được
nghiên cứu.
Vậy nên, việc nghiên cứu về chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa và Đảng
Cần Lao Nhân vị, sẽ góp phần làm rõ q trình phát triển của lịch sử dân tộc, và việc
đưa vào nghiên cứu là một điều thiết yếu.
Về mặt thực tiễn
Thứ nhất, nghiên cứu về Đảng Cần lao nhân vị dưới thời của chính quyền Đệ
nhất Việt Nam Cộng hịa khơng chỉ góp phần vào cơng tác nghiên cứu lịch sử miền
Nam nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung mà còn làm sinh động bức tranh kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn này. Từ đó, giúp chúng ta có thể thấy được rõ hơn
những hạn chế trong việc vận hành và điều tiết các chính sách cũng như là xây dựng
lực lượng chính trị của chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa.
Thứ hai, ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng, vấn đề xây dựng Đảng vững mạnh là cấp thiết. Qua việc nghiên cứu về Đảng
Cần Lao nhân vị dưới chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa, rút ra những bài học
kinh nghiệm trong việc xây dựng và hoàn thiện việc xây dựng Đảng, các tổ chức và
5
những nền tảng chính trị, xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay, góp phần xây
dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ thành quả cách mạng mà ông cha ta đã xây dựng
lên.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Cần lao Nhân vị
Cách mạng Đảng trong Chính thể Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa” để làm khóa luận
tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Về chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa nói chung và Đảng Cần Lao nói
riêng, là đề tài thu hút được nhiều sự quan tâm của các học giả trong và ngoài nước
trong suốt thời gian qua.
Ngay sau khi nhà họ Ngô bị lật đổ, Đồn Thêm có điều kiện được chứng kiến
những sự kiện lịch sử của chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa. Những sự kiện đó
được ghi lại thuần túy theo lối biên niên sử, cung cấp nhiều dữ liệu gốc khá hiếm hoi
trong tác phẩm Những ngày chưa quên (1954 - 1963) xuất bản năm 1969.
Nông Huyền Sơn, Cái chết của anh em nhà họ Ngô, Nxb CAND, 2009. Đặt
vấn đề từ cái chết của anh em Ngơ Đình Diệm, tác giả đi vào miêu tả những nhân vật
của gia đình họ Ngơ và đặt họ trong chính sách của Mỹ. Từ đó nêu lên bản chất tay
sai phục vụ cho chủ nghĩa thực dân mới Hoa Kỳ của chế độ Đệ nhất Cộng hòa.
Nguyễn Khắc Viện (2008), Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ (Diệu
Bình dịch), Nxb Trí Thức. Qua góc nhìn của một nhà báo, tác giả đã khắc họa bối
cảnh của miền Nam Việt Nam kể từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ đến năm 1963
dưới chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ, miêu tả chân dung chế độ Đệ nhất Cộng hòa
qua hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội, hoạt động đàn áp phong trào đấu tranh của
nhân dân miền Nam, những hành động vụ lợi của chính quyền Ngơ Đình Diệm và
những cố gắng của nhân dân Việt Nam để thi hành Hiệp định Geneve... được trích
dẫn từ nguồn báo chí xuất bản tại Pháp. Nhiều vấn đề được tác giả trình bày mang
tính thời sự, với nguồn tư liệu chủ yếu từ các báo, tạp chí xuất bản ở Pháp và một số
nước.
Cuốn sách Từ Bạch Ốc đến Dinh Độc lập của tác giả Nguyễn Tiến Hưng,
Jerrold L.Schecter (Nxb Trẻ, 1990). Với hai tập sách đã thể hiện mối quan hệ của
Việt Nam Cộng hòa với Nicxon, cũng như là “buổi hồng hơn” của nền cộng hịa tại
6
miền Nam Việt Nam. Tác giả đã khắc họa lại giai đoạn cuối cũng của chế độ Việt
Nam Cộng hòa và những nhận định của mình. Qua đó, tác giả cũng khẳng định rằng
chính sự phản bội của Hoa Kỳ đã dẫn tới kết cục bi thảm của Việt Nam Cộng hòa
trong biến cố năm 1975.
Cuốn Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 của Lê Cung, (Nxb
Thuận Hóa, Huế, 2003) đã cho thấy chính sách của chính quyền Ngơ Đình Diệm đối
với Phật giáo miền Nam Việt Nam và cuộc đấu tranh của Phật giáo trước năm 1963,
Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 được tác giả khắc họa rõ nét
tính chất, đặc điểm và ý nghĩa của phong trào, góp phần đưa đến sự sụp đổ của chính
quyền Đệ nhất Việt Nam cộng hòa vào năm 1963.
Thời gian gần đây, tác phẩm Liên minh sai lầm Mỹ -Ngơ Đình Diệm của tác giả
Edward Miller, Nxb Chính trị Quốc gia (2016), với cách nhìn ở một góc độ khác, tác
giả đã phác hoạ hình ảnh Ngơ Đình Diệm và cách giải thích về mối quan hệ giữa
Ngơ Đình Diệm với Hoa Kỳ. Với hơn 500 trang sách, tác giả đã viết về bước khởi
đầu của Ngơ Đình Diệm cũng như là q trình đi đến sự sụp đổ, trong đó tác giả đã
dành một phần để giới thiệu về Ngơ Đình Nhu, tư tưởng Nhân vị và nguồn gốc của
Đảng Cần Lao. Những luận giải, đánh giá về một số sự kiện, nhân vật, về chủ nghĩa
cộng sản, cách mạng miền Nam, phong trào Đồng khởi, nguyên nhân dẫn đến sự thất
bại của chính quyền Sài Gịn, để từ đó tác giả đã đưa ra những nhận định về sự tan rã
của một liên minh.
Trần Lệ Xuân - thăng trầm quyền tình của tác giả Lý Nhân (2015), NXB Công
an Nhân dân, đây là quyển sách được viết khá đầy đủ về Trần Lệ Xuân từ quá trình
là “bà cố” Nhu trở thành “Đệ nhất phu nhân” cùng với những ảnh hưởng của bà đối
với chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa, với những chi tiết thú vị, có ích cho
những cá nhân quan tâm đến thời kì đầy biến động với nhiều sự kiện, nhiều nhân vật
có ý nghĩa về mặt nhân văn và chính trị ở miền Nam Việt Nam những năm cuối thập
niên 50, đầu thập niên 60 của thế kỉ XX. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã đề cập đến các
chính sách gia đình trị và các vụ đảo chính đối với chính quyền Ngơ Đình Diệm.
Tác phẩm Madam Nhu Trần Lệ Xuân - Quyền lực bà rồng của tác giả Moniqur
Brinson Demery (2016), cũng đã được xuất bản. Đây là một tác phẩm viết về cuộc
đời, sự nghiệp bà Nhu nói riêng và chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa nói chung.
7
Với ngịi bút của một tác giả nước ngồi muốn khai thác về bà Nhu. Dù vậy, chỉ với
hơn 300 trang sách, tác giả đã khắc họa chế độ Việt Nam Cộng hịa từ những ngày
đầu gặp khó khăn như thế nào để đi đến thời kì vàng son và cuối cùng là sự sụp đổ,
cùng với đó là những tổ chức chính trị và Đảng Cần lao Nhân vị của chính quyền
Việt Nam Cộng hịa. Tuy chưa được khai thác sâu về các tổ chức chính trị - xã hội và
Đảng Cần Lao Nhân vị, nhưng qua đó tác giả đã cho người đọc thấy được sự “độc
tài” của chế độ gia đình trị của gia đình họ Ngơ thơng qua các tổ chức chính trị và bộ
máy Đảng, nhà nước.
Nhân vị chủ nghĩa của Phạm Xuân Cầu (1958), tác phẩm viết về thuyết Nhân
vị, trong đó tác giả làm rõ khái niệm, tơn chỉ và mục đích của chủ nghĩa nhân vị.
Đồng thời, tác giả lí giải tại sao nhân vị lại có những khả năng siêu việt đã làm cho
lồi người linh thiêng hơn mn lồi vật khác.
Một số tác phẩm hồi ký của các cựu nhân viên, tướng tá chế độ Sài Gòn viết
trước và sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng năm 1975 ít nhiều có giá trị:
Hồi ký Hồng Linh Đỗ Mậu (2001), Tâm sự tướng lưu vong (Việt Nam máu
lửa quên hương tôi), Nxb CAND, Hà Nội. Tuy tác phẩm được viết xuất phát từ lập
trường chống Cộng, nhưng do đã từng làm Giám đốc An ninh Quân đội của chế độ
Diệm nên Đỗ Mậu có đủ điều kiện để hiểu rộng, biết sâu về chế độ này, có điều kiện
suy ngẫm kỹ hơn, nhìn nhận moi sự việc tương đối sát thực tiễn để lý giải nguyên
nhân thất bại của chế độ Diệm. Với tư cách một người trong cuộc, tác giả đã kể lại
những chính sách độc tài, những buổi đầu cũng như những thất bại của chế độ Ngơ
Đình Diệm, và tác giả cũng đã dành một chương để viết về sự hình thành và tan rã
của Đảng Cần Lao Nhân vị. Qua đó thấy được sự biến chất của các Đảng viên và sự
câm phẫn của nhân dân đối với Đảng, với chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa.
Từ việc đánh giá về tình hình nghiên cứu vấn đề, tác giả nhận thấy các cơng
trình trên chỉ nghiên cứu về chính thể Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa một cách rời rạc,
lẻ tẻ, ở những khía cạnh khác nhau. Trong sự hiểu biết của tác giả, cho đến nay chưa
có cơng trình nào nghiên cứu tổng thể về Đảng Cần Lao Nhân vị. Mặc dù vậy, những
công trình nghiên cứu và tài liệu đã được cơng bố nói trên đã góp phần giúp tác giả
nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
8
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Cần lao Nhân vị Cách mạng Đảng trong Chính thể Đệ nhất
Việt Nam Cộng hịa”, mục đích nghiên cứu của tác giả nhằm:
- Góp phần vào cơng tác nghiên cứu lịch sử Miền Nam nói riêng và lịch sử dân
tộc nói chung, đồng thời lí giải một số vấn đề của lịch sử dân tộc thời kì này.
- Góp phần bổ sung và làm phong phú thêm nguồn tài liệu, phục vụ cho công
tác nghiên cứu của những cá nhân quan tâm đến đề tài này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích nghiên cứu, tác giả thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Khái quát về quá trình hình thành, các chính sách cai trị độc tài và q trình
khủng hoảng dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa vào năm
1963.
- Nghiên cứu về quá trình thành lập, cơ cấu tổ chức, hoạt động và vai trị của
Đảng Cần lao Nhân vị đối với chính thể Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa.
- Đánh giá chung về vai trò Đảng Cần lao đối với sự tồn vong của chính quyền
Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa, trên cơ sở đó đúc rút bài học lịch sử đối với công tác
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tổng thể là dựa vào phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Việt Nam về vấn đề chiến tranh và cách mạng, về vấn đề dân tộc và giai
cấp.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể là kết hợp hai phương pháp cơ bản của sử học
mácxit là Phương pháp lịch sử và phương pháp Logic, kết hợp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để tái hiện lịch sử, xem xét và trình bày quá
trình phát triển của các sự kiện, vấn đề theo một trình tự liên tục về thời gian để làm
rõ sự hình thành, khủng hoảng và sụp đổ chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa. Đồng
thời trình bày các vấn đề nhiều mặt, biểu hiện, ảnh hưởng của Đảng Cần Lao đối với
chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa, để làm sáng tỏ các mối quan hệ, đa dạng,
phức tạp đó.
- Phương pháp logic, kết hợp, xâu chuỗi các sự kiện một cách linh hoạt để có thể
9
trình bày vấn đề một cách tương đối đầy đủ, hệ thống. Đồng thời, qua đó xác định độ
tin cậy và giá trị của các sự kiện.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp sử dụng khi chúng tơi tổng hợp các thơng tin có
trong các nguồn tài liệu để trình bày vấn đề theo hệ thống. Phương pháp này còn
được chúng tơi vận dụng khi lựa chọn, phân tích giá trị của các sự kiện liên quan đến
đề tài.
Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng những phương pháp cụ thể khác trong khoa học
xã hội nhân văn hiện nay, nhất là thống kê, so sánh, đối chiếu, để xác định các cứ
liệu lịch sử và các vấn đề kinh tế, quân sự, chính trị, xã hội, giáo dục, pháp lý và các
phương pháp liên ngành của chính trị học, xã hội học.. để có thể đưa ra cái nhìn tồn
diện, khoa học.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6.1 . Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài “Cần lao Nhân vị Cách Mạng Đảng trong chính thể Đệ nhất Việt
Nam Cộng hòa”, đối tượng nghiên cứu chủ yếu là Đảng Cần lao Nhân vị của chính
thể Việt Nam Cộng hịa giai đoạn 1955 đến 1963 cụ thể là về quá trình thành lập, tổ
chức, hoạt động và vai trò của Cần lao Nhân vị Cách mạng đảng.
6.2 . Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Đề tài sẽ nghiên cứu Đảng Cần lao Nhân vị trong chính thể Đệ
nhất Việt Nam Cộng hịa trên khơng gian “lãnh thổ” Việt Nam Cộng hịa.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 1955 đến năm
1963.
Tác giả chọn mốc bắt đầu là năm 1955, từ sự kiện ngày 23/10/1955, Ngơ Đình
Diệm giành thắng lợi từ cuộc trưng cầu dân ý giả hiệu, xóa bỏ chế độ Quốc gia Việt
Nam của Quốc trưởng Bảo Đại, lập ra chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa.
Tác giả chọn mốc kết thúc là năm 1963 là khi Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa bị
lật đổ bởi cuộc đảo chính vào tháng 11/1963.
7. Nguồn sử liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tác giả dựa vào các nguồn tài liệu chủ yếu
sau đây:
- Các phơng tài liệu của chính quyền Việt Nam Cộng hịa (1954 - 1975) lưu giữ
10
tại Trung tâm lưu trữ quốc gia II.
- Các sách báo; những cơng trình nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam của các
tác giả trong và ngoài nước.
-
Các bài viết liên quan đến nội dung đề tài đăng trên các báo, tạp chí...
-
Hồi ký của các chính trị gia, tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ.
-
Hồi ký của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội đã trực tiếp chiến đấu
trên chiến trường hoặc tham gia vào các cuộc đàm phán về hịa bình Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
8. Bố cục khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, tác giả chia nội
dung nghiên cứu thành 3 chương, 9 mục. Trong đó:
Chương 1: Tác giả trình bày khái qt về chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa.
Trong đó, tác giả làm rõ quá trình Mỹ dần thay chân Pháp tại chiến trường Đơng
Dương, hậu thuẫn cho Ngơ Đình Diệm từng bước thực hiện các biện pháp thành lập
một chính phủ Việt Nam Cộng hịa tại miền Nam Việt Nam. Đồng thời, khái quát về
bộ máy chính quyền, các chính sách độc tài khi Ngơ Đình Diệm lên nắm quyền và
những mâu thuẫn trong lòng chế độ, dẫn đến cuộc đảo chính tháng 11/1960, đánh
dấu sự sụp đổ của chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa.
Chương 2: Tác giả nghiên cứu Đảng Cần lao Nhân vị về quá trình hình thành,
thuyết Nhân vị, cương lĩnh, cơ cấu tổ chức và quá trình hoạt động của Đảng Cần lao.
Làm rõ quá trình Đảng Cần lao từng bước dấn sâu vào hoạt động lũng đoạn chế độ,
trở thành một “siêu chính quyền” bên trong của chế độ Việt Nam Cộng hòa, trực tiếp
tham gia hoạch định các quốc sách của chế độ Việt Nam Cộng hịa. Từ đó, tác giả
đưa ra những nhận định về vai trò của Cần lao Nhân vị Cách mạng Đảng đối với
chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa.
Chương
vị
Cách
3:
mạng
Tác
giả
đối
đánh
với
giá
sự
chung
tồn
về
vong
vai
của
trị
chính
của
Cần
quyền
lao
Đệ
Nhân
nhất
Việt
đối
với
Nam
chính
Cộng
quyền
hịa.
Đảng
trong
Cần
việc
lao
trở
thành
có
những
lực
tác
lượng
động
chính
tích
bảo
cực
vệ
Bên
cạnh
sự
đó,
tồn
Đảng
tại
của
Cần
chính
lao
đã
quyền
thể
hiện
Đệ
nhất
rõ
là
Việt
một
Nam
cơng
Cộng
cụ
phục
hịa.
vụ
nguyện
cho
chính
vọng
của
quyền
nhân
chun
dân.
chế,
Kết
quả,
độc
tài,
Đảng
đi
Cần
ngược
lao
đã
lại
khơng
với
cứu
vãn
sụp
được
đổ.
Cuộc
chính
đảo
quyền
chính
Đệ
năm
nhất
1963
Việt
đã
Nam
chấm
Cộng
dứt
hịa
sự
lãnh
trên
đạo
bờ
vực
của
chính
vị.
Từ
quyền
đó,
tác
Ngơ
giả
Đình
đưa
Diệm
ra
và
những
sự
tồn
bài
tại
học
của
lịch
Đảng
sử
về
Cần
cơng
Lao
tác
Nhân
xây
dựng
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
hiện
nay.
11
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ ĐỆ NHẤT VIỆT NAM CỘNG HỊA
1.1.
Q trình hình thành chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa
1.1.1.
Q trình hình thành
Từ cuối năm 1949, trước khả năng bại trận của Pháp, Mỹ đã tăng cường giúp
đỡ để kéo dài cuộc chiến tranh ở Đông Dương, đồng thời cũng áp đặt những quan
điểm của mình. Mỹ chê trách chính phủ thực dân lỗi thời của Pháp, ngoan cố không
chịu trao quyền cho những nhà quốc gia chân chính, mà chỉ muốn sử dụng những tên
bù nhìn. Mỹ cho rằng để đẩy mạnh cuộc chiến tranh phải tạo lập được một quân đội
“Quốc gia”, một chính phủ “Quốc gia”, để đánh bại kháng chiến Việt Nam phải dùng
người Việt Nam [72, 25]. Ngày 7/5/1954, Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ, chiến
cuộc Đông Dương chấm dứt, hiệp định Giơnevơ được kí kết. Đại diện Mỹ và Đại
diện Chính phủ Quốc gia Việt Nam khước từ không ký vào bản Hiệp định. Theo
Hiệp định này, “một giới tuyến quân sự tạm thời sẽ được quy định rõ, để lực lượng
của hai bên khi rút lui, sẽ tập hợp ở bên này và bên kia giới tuyến ấy: lực lượng Quân
đội nhân dân Việt Nam ở phía Bắc giới tuyến, lực lượng quân đội Liên Hiệp Pháp ở
phía Nam giới tuyến.” [47, 706] Lúc bấy giờ, Mỹ tăng cường lực lượng thế chân
Pháp ở Đông Dương và đã lựa chọn Ngơ Đình Diệm để làm tay sai cho mình,
Richarrd F. Newcomb cho biết: “Đối với người Mỹ, Diệm là rất thích hợp. Ơng là
người Việt Nam thực sự, 54 tuổi chống Pháp, chống Cộng. Với một vài kinh nghiệm
trong thời kỳ làm quan thuộc địa, và là một người Thiên Chúa giáo (không bao giờ
chú ý đến Việt Nam có 85% dân số là Phật giáo)” [ 37, 29]. Bằng những đặc điểm
trên, Ngơ Đình Diệm đã đáp ứng được những yêu cầu mà Mỹ đặt ra cho người đứng
đầu một chính quyền thân Mỹ tại miền Nam, với âm mưu biến miền Nam Việt Nam
thành thuộc địa thực dân kiểu mới.
Sau khi quân Pháp rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, ảnh hưởng Pháp tan biến
dần để thay thế bởi ảnh hưởng Mỹ. Bởi vì, ngay từ khi mở Hội nghị các ngoại trưởng
Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ ở Bec-lin, bàn thảo việc thành lập Hội nghị Giơnevơ giải
quyết vấn đề chiến tranh Đông Dương, Mỹ đă ngầm vận động thúc đẩy Quốc trưởng
Bảo Đại mời Ngơ Đình Diệm lúc này đang ở Mỹ về làm Thủ Tướng, thay thế Thủ
tướng Bửu Lộc được coi là thân Pháp. Mỹ cho rằng, Pháp đã không thực hiện được
chính sách ngăn chặn cộng sản, mà sau Hiệp định Giơnevơ phía Bắc Việt Nam đã
thuộc về Việt Nam Dân chủ Cộng hịa và theo hiệp định thì đến năm 1956, miền
Nam sẽ tiếp tục rơi vào tay cộng sản. Chính vì vậy, Mỹ đã quyết định loại bỏ Pháp,
thiết lập một miền Nam Việt Nam thân Mỹ, thông qua bộ máy tay sai Ngơ Đình
Diệm, bằng thủ đoạn này, Mỹ đã nhảy vào miền Nam Việt Nam một cách hợp pháp.
Sau hiệp định Giơnevơ, cách mạng miền Nam từ chỗ có chính quyền, có qn
đội, có vùng giải phóng trở thành khơng có chính quyền, khơng có qn đội, vùng
giải phòng thuộc cai quản của quân đội Liên Hiệp Pháp và hai năm sau sẽ tổ chức
tuyển cử. Tuy nhiên, Mỹ đã ép Pháp đưa Ngơ Đình Diệm về miền Nam làm Thủ
tướng thay cho Bửu Lộc, chuẩn bị cho Mỹ thay Pháp tại miền Nam Việt Nam. [34]
Ngày 16/6/1954, Bảo Đại với tư cách là Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam, kí
sắc lệnh số 37 - QT, giải tán chính phủ Bửu Lộc và Sắc lệnh số 38-QT bổ nhiệm Ngơ
Đình Diệm làm thủ tướng Việt Nam Quốc gia [18]. Tiếp đó, ngày 19/6, Bảo Đại kí
dụ số 15 trao cho Diệm toàn quyền cả về dân sự lẫn qn sự [57, 77]. Ngày
25/6/1954, Ngơ Đình Diệm từ Pháp về phi trường Tân Sơn Nhất (Sài Gòn), được sự
tiếp đón nồng nhiệt theo nghi lễ ngoại giao của một số nhân viên đại diện các Bộ
trong Chính phủ Bửu Lộc, một số sĩ quan cấp tá Việt và Pháp thuộc Bộ Quốc phòng
và bộ Tổng Tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam (TTM/QĐQGVN), cùng một số
người thân thuộc dịng họ Ngơ Đình và Nhân sĩ thân hữu của gia đình Ngơ Đình
Diệm. Sau khi trở về nước, Ngơ Đình Diệm tiếp xúc với các nhân sĩ, từng bước thực
hiện các biện pháp để thành lập chính phủ. Ngơ Đình Diệm thực hiện một số chủ
trương của Mỹ như: “Từ chối hiệp thương tổng tuyển cử, từ chối việc tái lập quan hệ
giữa hai miền Nam - Bắc; tổ chức tuyển cử riêng rẽ, bầu cử Quốc hội Lập hiến, ban
hành hiến Pháp (26/10/1956), lập Đảng Cần Lao Nhân vị, Phong trào Cách mạng
Quốc gia, Thanh niên Cộng hồ, Phụ nữ liên đới..[37, 30].
Ngày 30/6/1954, Ngơ Đình Diệm ra Hà Nội để quan sát tình hình miền Bắc và
thăm dò nhân sự nhằm thành lập nội các mới. Tuy nhiên, quân Pháp ở các nơi đã bị
lực lượng Việt Minh đánh bại và lực lượng tay sai người Việt thì rơi vào tình trạng
hỗn loạn. Trước tình cảnh khó khăn như vậy, trở về Sài Gịn, tình hình miền Nam đối
với Ngơ Đình Diệm vẫn khơng được thuận lợi. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, quy
định một cuộc tổng tuyển cử vào hai năm sau đó, để tiến hành thống nhất đất nước
Việt Nam. Điều này đã làm cho Ngơ Đình Diệm lo lắng, vì nếu cuộc tổng tuyển cử
diễn ra Diệm sẽ khơng có cơ may dành thắng lợi. Ngay từ khi vấn đề chấm dứt chiến
tranh Việt Nam và Đơng Dương cịn đang được đàm phán ở Giơnevơ, giới cầm
quyền Washington đã dự báo sẽ có sự chia đôi tạm thời nước Việt Nam trong một
thời gian nhất định, và sau đó sẽ có cuộc tổng tuyển cử để đi đến thống nhất đất
nước. Aixenhao đã nhận định rằng “nếu bầu cử xảy ra theo như hiệp định Giơnevơ
đã tiên liệu, thì 80% dân chúng miền Nam sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh” [67, 119].
Mỹ khơng thể chấp nhận một sự đảo ngược cán cân như vậy. Để điều này không diễn
ra, Tổng thống Mỹ, Aixenhao đã tính đến kế hoạch di cư của đồng bào miền Bắc vào
Nam. Khi Hiệp định Giơnevơ còn chưa kết thúc, Mỹ và chính quyền Ngơ Đình Diệm
bắt tay ngay vào việc thực thi kế hoạch này. Chính vì vậy, bên cạnh việc không thừa
nhận Hiệp định Giơnevơ, Mỹ đã viện trợ và thực hiện chính sách cưỡng ép gần một
triệu người dân từ Bắc vào Nam tạo ra cuộc di cư lớn chưa từng có trong lịch sử Việt
Nam, để tạo cơ sở xã hội - chính trị cho Ngơ Đình Diệm. Trong thời gian 300 ngày
sau ngày hiệp định bắt đầu, cuối thời hạn mở này, hơn 810.000 người dân đã tận
dụng cơ hội di cừ từ Bắc vào Nam. [28]
Với số dân di cư từ miền Bắc vào Nam, nhằm thăng bằng sự chênh lệch giữa
dân số miền Bắc 12 triệu và dân số miền Nam 11 triệu, làm tăng hi vọng thắng lợi
của cuộc tổng tuyển cử đối với Ngơ Đình Diệm, tạo ra một cơ sở vững chắc cho chế
độ của Diệm. Tờ báo Thế giới - 29.11.1954 có viết “ họ xem những người miền Bắc
như là một khối dự trữ cho quân dội và cho những tổ chức chính trị của họ, trong
khối dự trữ đó, họ mộ được những người tay chân cuồng tín”. [71, 74]. Số dân cơng
giáo đã được Diệm tín nhiệm về mặt chính trị và là lực lượng để giúp Ngơ Đình
Diệm cầm quyền ở miền Nam Việt Nam, là nguồn nhân lực chủ yếu của bộ máy
hành chính, chính trị qn sự của chính quyền Sài Gịn.
Song song với việc thực hiện di cư, Mỹ nhanh chóng giúp Diệm xây dựng
chính quyền ở miền Nam theo hướng thân Mỹ. Nhưng đã gặp phải sự chống đối
quyết liệt của các thế lực thân Pháp và các giáo phái tại miền Nam. Đối với lực lượng
thân Pháp, từ ngày Ngơ Đình Diệm về nước làm thủ tướng, tướng Hinh đã bày tỏ
những thái độ bất mãn với chính quyền Ngơ Đình Diệm, tiến hành phối hợp với lực
lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn với âm mưu phá hoại chính phủ và cá nhân Ngơ
Đình Diệm. Ngày 26/10/1954, thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh (quốc tịch Pháp), tổng
tham mưu trưởng quân đội Quốc gia, dự định tổ chức đảo chánh, lật đổ thủ tướng
Ngơ Đình Diệm. Tuy nhiên, vào lúc Hinh sắp đảo chính Diệm thì quốc hội Mỹ chính
thức cơng bố lập trường của mình rằng nếu ơng Diệm bị lật đổ thì Mỹ sẽ chấm dứt
viện trợ cho Việt Nam và cũng chấm dứt quân viện cho quân đội Pháp. Kế hoạch đảo
chính bị thất bại, thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh bỏ qua Pháp ngày 19/11/1954. Theo
Hoàng Linh Đỗ Mậu, tướng Hinh ra đi, cả thể cờ của Pháp và Bảo Đại sụp đổ, vì
tướng Hinh là đại diện cho sức mạnh chính trị của Pháp và Bảo Đại tại Việt Nam lúc
bấy giờ. Sau khi tướng Hinh ra đi, toàn bộ vùng Duyên hải miền Trung và Cao
nguyên Trung phần trở thành hậu thuẫn vững chắc cho Ngơ Đình Diệm tiến hành
những vận động cuối cùng để quét sạch tàn dư của chế độ thực dân Pháp. [57, 95-96]
Khi đã loại bỏ được tướng Hinh - tay chân của Pháp, Diệm đã thực hiện cải tổ
chính phủ, đưa những người thân Diệm vào nắm giữ các vị trí trọng yếu trong chính
quyền. Chính quyền Ngơ Đình Diệm đã đưa các tín đồ Cơng giáo di cư vào các chức
vụ hoặc cho thành lập các tổ chức chính trị hậu thuẫn cho Diệm như: Trần Văn Lắm
thành lập Tập đồn cơng dân vụ cuối năm 1945, Bùi Văn Thinh thành lập Phong trào
tranh thủ tự do, Bùi Văn Lương giữ chức Tổng ủy trưởng di cư tị nạn, Trần Chánh
Thành thành lập phong trào Cách mạng quốc gia, Lâm Lễ Trinh giữ chức Đổng lí
văn phịng Phủ Tổng thống, giám mục Phạm Ngọc Chi phụ trách Uỷ ban Hỗ trợ
Định cư,..
Sau khi đã diệt trừ các thế lực thân Pháp và thực hiện cải tổ chính phủ. Cuối
năm 1955, chính quyền Ngơ Đình Diệm chiến thắng lực lượng Bình Xun, những
lực lượng chống đối Ngơ Đình Diệm chỉ cịn lại là những lực lượng phía Đạo Cao
Đài và Hịa Hảo. Tuy nhiên, những lực lượng này cũng bị dẹp yên, chấm dứt hồn
tồn mọi hoạt động đối lập với Ngơ Đình Diệm ở miền Nam. Về phía vua Bảo Đại,
sau khi ổn định tình hình, chế độ khá vững vàng, Thủ tướng Diệm liền tìm cách
chấm dứt vai trị Quốc trưởng của Bảo Đại, người đã tin tưởng Ngơ Đình Diệm và bổ
nhiệm ơng làm thủ tướng với tồn quyền dân sự và qn sự. Ngơ Đình Diệm đã dùng
một biện pháp có hình thức dân chủ hơn, đó là tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý. Để
thực hiện âm mưu xâm lược của mình, việc phế truất Bảo Đại đã được Mỹ đặt ra
trong kế hoạch, ngày 23/10/1955 Diệm kêu gọi tổ chức cuộc trưng cầu dân ý phế
truất Bảo Đại, “kết quả chính thức của cuộc Trưng cầu dân ý Ngơ Đình Diệm giành
5.721.735 phiếu (đạt 98.2% số phiếu), Bảo Đại 63.018 (đạt1.1%) trong tổng số
5.828.907 người đi bầu [21]. Số lượng phiếu bầu cho Ngơ Đình Diệm gây ra sự nghi
ngờ lớn trong dân chúng tuy nhiên điều đó đã được Mỹ đứng sau che đậy rất kĩ.
Cuộc trưng cầu dân ý chẳng những truất phế quốc trưởng Bảo Đại, mà chấm dứt ln
những hoạt động chính trị của cựu hoàng. Kết quả cuộc trưng cầu dân ý đã truất phế
Bảo Đại và chấp thuận Ngơ Đình Diệm làm Quốc trưởng Việt Nam, với nhiệm vụ
đặt nền móng dân chủ. Sau cuộc trưng cầu dân ý, Quốc trưởng Ngơ Đình Diệm tuyên
bố ngay việc thành lập nền Cộng hòa, và tự mình lên làm Tổng thống. Ngày
26/10/1955, tân Quốc trưởng Ngơ Đình Diệm đưa ra bản Tun cáo, cơng bố thành
lập nền Cộng hòa.
Như vậy, sau khi từng bước thực hiện và thúc đẩy việc thành lập chính phủ Việt
Nam Cộng hòa và trở thành vị Tổng thống đầu tiên, Ngơ Đình Diệm đã tiến hành xây
dựng bộ máy chính quyền và thực hiện các chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội.. Có
tác động sâu sắc đến tình hình miền Nam Việt Nam, mở ra một trang sử mới cho lịch
sử kháng chiến chống Mỹ của dân tộc nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung.
1.1.2.
Bộ máy chính quyền
• Chính phủ Việt Nam Cộng hịa
Ba ngày sau cuộc trưng cầu dân ý, ngày 26/10/1955, Ngơ Đình Diệm ký bản
Hiến ước tạm thời số 1, tuyên bố: Quốc gia Việt Nam là một nước Cộng hòa, Quốc
trưởng đồng thời là Thủ tướng Chính phủ lấy danh hiệu là Tổng Thống Việt Nam
Cộng hịa [20]. Ngơ Đình Diệm ngay sau khi làm Tổng thống, ông bắt đầu việc sơ
thảo một Hiến pháp cho chính quyền mới (11/1955). Ngày 23/1/1956, Tổng thống
Ngơ Đình Diệm đã kí Dụ số 8 để thiết lập Quốc hội và Dụ số 9 để ấn định thể thức
thi hành. Ngày 4/3/1956, dân chúng đã bỏ thăm theo lối phổ thông, đầu phiếu chọn
lựa đại diện của mình trong 123 đơn vị bầu cử. Trong phiên họp đầu tiên của Quốc
hội lập hiến, Tổng thống gửi cho Quốc hội một bản thông điệp vạch các nguyên tắc
lập hiến. Ngày 2/7/1956, toàn thể Quốc hội chấp thuận dự án Hiến pháp, theo đó:
Đứng đầu ngành hành pháp là Tổng thống với nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội do dân cử
chỉ có một viện duy nhất với 123 dân biểu (nhiệm kỳ ba năm chọn theo từng đơn vị
bầu cử) có thẩm quyền lập pháp. Về tư pháp có Viện Bảo hiến để cân nhắc và xét
duyệt những luật lệ ban hành cho phù hợp với Hiến pháp. Đặc biệt, Pháp viện sẽ
được tổ chức, có thẩm quyền xét xử Tổng thống, Phó Tổng thống, Chánh án, Tịa phá
án và Chủ tịch Viện Bảo hiến, trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội.
Hỗ trợ ngành hành pháp là Nội các gồm 13 Bộ trưởng. Quốc hội soạn xong và thông
qua lần cuối bản Hiến pháp ngày 20/10/1956. Hiến phápViệt Nam Cộng hòa được
ban hành ngày 26/10/1956, thiên cuối của Hiến pháp quyết định:
Quốc hội dân cử ngày 4/3/1956 là Quốc hội Lập pháp đầu tiên theo Hiến pháp
Việt Nam Cộng hịa.
Trong khóa họp thứ nhất của Quốc hội Lập pháp đầu tiên, Tổng thống chỉ định
phó Tổng thống đầu tiên. Sự chỉ định này thành nhất định khi được Quốc hội chấp
thuận.
Tổng thống được nhân dân ủy nhiệm thiết lập nền dân chủ do cuộc trưng cầu
dân ý ngày 23/10/1955 là Tổng thống đầu tiên theo Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa.
Điều 96 của bản Hiến pháp này hợp thức hóa chức vụ của ơng Diệm là vị tổng thống
đầu tiên của Việt Nam Cộng Hịa. Theo đó, Tổng thống có các quyền:
> Ký kết, và sau khi được Quốc hội chấp thuận, phê chuẩn các điều ước và hiệp
định quốc tế.
> Bổ nhiệm các sứ thần, tiếp nhận ủy nhiệm thư của các đại diện ngoại giao,
thay mặt Quốc gia trong việc giao thiệp với ngoại quốc.
> Với sự thỏa thuận của một nửa tổng số Dân biểu Quốc hội, Tổng thống tuyên
chiến hoặc phê chuẩn hòa ước.
> Bổ nhiệm và cách chức tất cả các công chức dân sự và quân sự theo thủ tục
luật định.
> Điều hòa sự liên lạc giữa các Bộ trưởng và kiểm soát sự thi hành các Đạo luật,
Sắc lệnh.
>
>
>
>
>
>
Là tư lệnh tối cao của các lực lượng quân sự.
Ban các loại huy chương.
Có quyền ân xá, ân giảm, hốn cải hình phạt, và miễn án.
Có thể gia hạn nhiệm kỳ dân biểu.
Có thể dự các phiên họp Quốc hội và tuyên bố trước Quốc hội.
Mỗi năm vào đầu khóa họp thường lệ thứ nhì và mỗi khi thấy cần, Tổng thống
thơng báo cho Quốc hội biết tình hình Quốc gia và chánh sách đối nội, đối
ngoại của Chính phủ.
> Với sự thỏa thuận của Quốc hội, Tổng thống có thể tổ chức trưng cầu dân ý.
> Tổng thống có thể ký Sắc luật ngân sách cho tài khóa sau trong một số trường
hợp nhất định.
> Kí Sắc lệnh tun bố tình trạng khẩn cấp, báo động hoặc giới nghiêm trong
một hay nhiều vùng; các Sắc lệnh này có thể tạm đình chỉ sự áp dụng một
hoặc nhiều đạo luật tại những vùng đó. [51, 18-31]
Có thể thấy rằng, chế độ Việt Nam Cộng hịa là chế độ theo định chế “Tổng
thống chế” 1 của Hiệp chủng quốc Hoa Kì. Theo Hiến pháp Đệ nhất Cộng hòa, Tổng
thống là danh xưng chức vụ của người đứng đầu và giữ vai trò Nguyên thủ Việt Nam
Cộng hòa trong giai đoạn 1955-1963 và 1967-1975. Chức vị Tổng thống Việt Nam
Cộng hịa là chức vị chính thức được thành lập bởi Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa,
do dân chúng bầu trong qua cuộc bầu cử trực tiếp. Mặc dù mang tính dân cử rất cao,
nhưng trên thực tế, do điều kiện chiến tranh, hầu hết thời gian tồn tại của mình, hầu
hết các vị Tổng thống Việt Nam Cộng hịa đều ít nhiều bị chỉ trích về sự độc tài.
• Đảng Cần Lao Nhân vị
Để phục vụ cho chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa, việc thành lập một tổ
chức chính trị là u cầu sống cịn đặt ra cho Ngơ Đình Diệm, để có thể tập hợp được
các tổ chức, lực lượng giáo dân di cư, và các thành phần chống Cộng ở miền Nam
Việt Nam. Dưới chính quyền của Ngơ Đình Diệm, Đảng Cần Lao Nhân vị được
thành lập và được xem là lực lượng nịng cốt cho tổ chức chính trị của chế độ Việt
Nam Cộng Hòa từ năm 1954-1963. Đảng Cần Lao một lực lượng hoạt động ngầm
bên trong và cả hoạt động cơng khai bên ngồi chính quyền Ngơ Đình Diệm, là một
chính Đảng tồn tại và hoạt động tại Việt Nam Cộng hịa từ năm 19541963 do hai anh
em Ngơ Đình Diệm và Ngơ Đình Nhu thành lập vào cuối năm 1954 tại Sài Gịn dựa
trên chủ thuyết chính trị Nhân vị (Personalism) của triết gia người Pháp Emmanuel
Mounier. Ngày 2/9/1954, Nghị Định số 116- bNV/CT cho phép Đảng Cần lao Nhân
Vị được hoạt động hợp pháp [14]. Đảng Cần Lao Nhân vị được ví như “đồn thủy
thủ” trong bộ máy của chiếc tàu nhà nước của Ngơ Đình Diệm. Trong các đơn vị
quân đội lớn, ở các bộ, Đảng Cần lao đều có tổ chức “Đảng đồn” của nó, khơng có
cơ quan trọng yếu nào mà khơng có Đảng Cần lao làm tai mắt và là “nồng cốt” cho
chế độ độc tài Ngơ Đình Diệm.
Các đảng viên nắm các chức vụ chủ chốt trong các cơ quan chính quyền, đặc
biệt là các cơ quan an ninh và quân đội trong thời kỳ Ngơ Đình Diệm nắm giữ chức
1 Tổng thống chế là hệ thống chính phủ mà trong đó có một ngành hành pháp tồn tại và “ngự trị”
tách biệt khỏi ngành lập pháp.
vụ Tổng thống, Ngơ Đình Nhu đưa phần lớn đảng viên Đảng Cần lao Nhân vị tham
gia hoạt động ngầm trong các tổ chức như Thanh niên Cộng hòa, Phong trào Phụ nữ
Liên đới, Thanh nữ Cộng hòa, Sở nghiên cứu chính trị - xã hội. Các tổ chức này tùy
theo vị trí khơng chỉ trực tiếp tham gia vào guồng máy chính quyền Việt Nam Cộng
hịa, mà cịn có nhiệm vụ theo dõi, giám sát hoạt động của các tổ chức chính trị và xã
hội khác.
• Phong trào Cách mạng Quốc gia
Bên cạnh Đảng Cần Lao Nhân vị, còn có các tổ chức chính trị - xã hội khác
như: tổ chức Phong trào Cách mạng Quốc gia, được thành lập vào ngày ngày 02
tháng 10 năm 1955 theo nghị định 966/NV của Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng
hòa do Trần Chánh Thành - Bộ trưởng Thông tin là chủ tịch”[13]. Phong trào Cách
mạng Quốc gia nằm dưới sự chủ trương đường lối hoạt động của Đảng Cần lao Nhân
vị, nhanh chóng thâm nhập sâu vào các tầng lớp xã hội như qn đội, cơng chức, trí
thức, giới kinh doanh... tại miền Nam và trở thành tổ chức lớn nhất thời bấy giờ dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cần lao Nhân vị. Tất cả các Ban chấp hành các cấp của Phong
trào Cách mạng Quốc gia đều diễn ra những cuộc họp thường xuyên nhằm kiểm
thảo, báo cáo và đề nghị công tác lên cấp trên. Tùy theo đơn vị mà Ban chấp hành
các cấp quy định số lần họp trong tháng như: Ban chấp hành Xã mỗi tuần họp 1 lần;
Ban chấp hành Huyện hai tuần họp 1 lần; Ban chấp hành Tỉnh một tháng họp 1 lần;
Ban chấp hành Trung ương thì tùy theo cơng việc mà quy định số lần phiên họp
nhiều hay ít, ít ra phải nữa tháng họp một lần. Mỗi lần khai họp phải kèm theo biên
bản và tờ báo cáo lên cấp trên. Phong trào Cách mạng Quốc gia có vai trị quan trọng
trong bộ máy chính quyền Việt Nam Cộng hịa, mọi đường lối và chủ trương của
phong trào đều nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cần lao Nhân vị. Là lực lượng nòng
cốt trong quốc hội (với số ghế cao nhất), tổ chức này là giữ vai trò quyết định trong
việc thi hành nhiều chính sách của chính quyền Việt Nam Cộng hịa.
Ngồi ra bên phụ nữ thì có Phong trào Liên đới Phụ nữ do Trần Lệ Xuân lãnh
đạo, mở lớp huấn luyện quân sự cho các thiếu nữ. Tổ chức này hình thành năm 1961,
làm các nhiệm vụ như kêu gọi hiến máu, giao thuốc men đến dân quê, thăm viếng
bệnh nhân trong nhà thương, viết thư thăm hỏi binh lính tiền tuyến. Tuy nhiên, thất
bại lớn nhất của phong trào khơng phải chỉ vì tính chất lý thuyết thiếu thực tế đó mà
đặc biệt là người sáng lập ra nó “tuy là một người có quyền lực lớn lao nhưng lại
khơng có đủ đức độ và khả năng lãnh đạo để thúc đẩy phong trào hoạt động” [57,
225]. Vì quan niệm sai lầm về việc xây dựng uy tín và quyền lực, vì xem thường óc
phê phán và truyền thống đạo đức Đông phương cho nên những việc làm của bà Nhu
ngày càng làm cho bà bị quần chúng và chính giới căm thù.
Có thể thấy rằng, dưới chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa, quyền hành
tập trung triệt để vào tay Tổng thống, theo Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa năm 1956,
Quốc hội là cơ quan cao nhất do dân bầu cử. Nhưng thực chất, Quốc hội chỉ là một tổ
chức để hợp pháp hóa việc ban hành luật lệ, chính sách do Tổng thống dự định trước.
Tổng thống Ngơ Đình Diệm với danh vị Ngun thủ Quốc gia, nắm giữ vai trò vừa
là Tổng thống, Thủ Tướng, vừa là Quốc trưởng, tập trung cao độ quyền lực trong tay.
Sau khi thành lập chính quyền Việt Nam Cộng hòa, Mỹ đã xây dựng miền Nam với
nhãn mác “dân chủ” với đầy đủ các thiết chế của một Nhà nước, có Quốc hội, Tổng
thống do dân bầu, song, quyền lực lại nằm vào tay Tổng thống Ngơ Đình Diệm, từ
đó dẫn đến sự lũng đoạn của gia đình cũng phe cánh họ Ngơ, đưa chế độ Việt Nam
Cộng hịa thành một chế độ độc tài, chuyên chế.
1.2.
Các chính sách của chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hịa
1.2.1.
Về kinh tế
1.2.1.1.
Chính sách cải cách điền địa
Ngay từ khi bắt đầu thực hiện âm mưu xâm lược vào miền Nam Việt Nam, Mỹ
đã chú ý đến giai cấp nông dân và nông thôn ở miền Nam, nhằm tranh thủ và lôi kéo
nơng dân và phía Ngơ Đình Diệm, mở đường cho tư bản chủ nghĩa xâm nhập vào
nông thôn và nông nghiệp, tạo ra tầng lớp tư sản mới trong đời sống nhân dân miền
Nam, để làm chỗ dựa cho chính quyền Sài Gịn. Cơng cuộc “cải cách điền địa” là
bước đầu thực hiện âm mưu đó của Mỹ và chính quyền Sài Gịn. Tuy nhiên, cơng
cuộc cải cách điền địa đã không tạo ra tầng lớp tư sản mới, mà thực chất là khôi phục
lại giai cấp địa chủ đã bị Cách mạng làm thiệt hại, đồng thời tạo ra lớp địa chủ mới
trong thôn xã để làm lực lượng hậu thuận cho Ngơ Đình Diệm. Những đạo dụ “Cải
cách điền địa” như Dụ số 2 ngày 8/1/1955, Dụ số 7 ngày 5/2/1955, Dụ số 57 ngày
22/10/1956, thực chất cướp lại ruộng đất mà nông dân đã được cách mạng chia cấp
trong thời kháng chiến, nhằm xóa bỏ ảnh hưởng của cách mạng trong dân chúng.
[73,197]
Bộ điền thổ và cải cách điền địa sớm được thành lập, cuộc cải cách điền địa
được chia làm hai giai đoạn, giai đoạn thứ nhất từ năm 1955 đến cuối năm 1956, thi
hành “quy chế tá điền”, khuyến khích việc khẩn hoang đất bỏ hoang và cải thiện mối
quan hệ giữa tá điền và chủ điền. Tuy nhiên, đây không phải là nhằm cải thiện mối
quan hệ địa chủ, tá điền mà nhằm cướp đoạt ruộng đất người dân vào tay của địa chủ.
Diệm muốn thủ tiêu những quyền lợi về ruộng đất của người dân miền Nam đã thu
được từ cách mạng kháng chiến chống Pháp. Giai đoạn 1 của cuộc cải cách điền địa
được đánh dấu bằng dụ số 2 (8/1/1955) và dụ số 7 (5/2/1955). Dụ số 2 quy định mức
thu tô (giá thuê đất) tối đa và lãi suất mà điền chủ được áp dụng: Mức tô tối đa từ 10
đến 15% trên số lúa thu hoạch cho ruộng làm 1 mùa/năm, Mức tô tối đa từ 15 đến
25% cho mùa gặt chính của ruộng 2 mùa/năm. Dụ số 7 quy định việc thuê đất phải
có khế ước (hợp đồng) tá điền, buộc chủ đất phải lập hợp đồng với nông dân. Thời
hạn khế ước là 5 năm, có tái ký. Tá điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6
tháng. Chủ đất muốn lấy đất lại phải báo trước tá điền 3 năm. Khế ước được chia
thành 3 loại: Loại A: đối với ruộng đang canh tác có chủ, loại B: đối với ruộng hoang
có chủ, loại C: đối với ruộng hoang vắng chủ. Giai cấp địa chủ ở thơn, xã dần ngóc
đầu dậy từ khi chế độ Ngơ Đình Diệm lên nắm quyền. Dụ số 57 được ban hành vào
ngày 22/10/1956, đưa công cuộc cải cách điền địa bước vào giai đoạn thứ 2, quy
định việc truất hữu địa chủ. Mỗi địa chủ chỉ được giữ lại 100 ha ruộng đất và 15 ha
ruộng hương hỏa. Ruộng bị truất hữu sẽ được đem bán lại cho những người thiếu
ruộng, mỗi hộ không quá 5 ha, người mua sẽ trả tiền trong thời gian 6 năm. Trong
thời gian đó ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu của chính quyền. Trong 10 năm kế
tiếp, người được phát ruộng không được cho mướn hay đem bán lại. Địa chủ sẽ được
bồi thường 10% tiền mặt, số còn lại được trả bằng trái phiếu trong 12 năm, mỗi năm
lời 3%. [47, 846]
Như vậy, về thực chất dụ số 57 của chính quyền Ngơ Đình Diệm đã xóa bỏ
thành quả cách mạng mà người dân miền Nam đã nhận được trong thời kì kháng
chiến chống thực dân Pháp, buộc người nơng dân thừa nhận mặt pháp lí việc sở hữu
ruộng đất của địa chủ thông qua việc lặp các “khế ước tá điền”. Mặt khác, dụ số 57
cũng đã tạo điều kiện để phát triển giai cấp địa chủ ở nông thôn miền Nam, chế độ
bồi thường đối với đất truất hữu -tiền bồi thường sẽ được trả 10% tiền mặt, số còn lại
được trả bằng trái phiếu trong 12 năm, mỗi năm lời 5%. Số ruộng truất hữu này sẽ
được bán cho nông dân thiếu ruộng, mỗi hộ không quá 3 ha. Đây thực chất là việc
đảm bảo quyền lợi cho giai cấp địa chủ. Cuộc cải cách điền địa của Ngơ Đình Diệm
khơng cơng nhận quyền sở hữu ruộng đất của nông dân được cấp trong thời kháng
chiến chống Pháp, mưu tước đoạt ruộng đất mà chính phủ cách mạng đã chia cho
người dân. Bóc lột phong kiến và quyền sở hữu phong kiến vẫn tồn tại giữa địa chủ
và tá điền.
Bên cạnh đó, Diệm còn cho phép Tỉnh trưởng được tập trung nhân dân trong
những cơng tác cứu tế xã hội.. đã góp phần biến số đông những Tỉnh trưởng, Quận
trưởng, Xã trưởng thành mạng lưới quyền lực đầu tiên ở cấp địa phương. Đây được
xem là những mầm móng của tham nhũng, áp bức, bất cơng sau này. Ngơ Đình Diệm
cho bãi bỏ những cuộc bầu cử thôn xã, các viên chức điều hành cấp xã sẽ do Tỉnh
trưởng chỉ định chứ không phải Hội đồng do nhân dân trong làng bầu lên nữa
[57,194]. Từ lâu, chế độ tự trị ở làng xã vốn ăn sâu vào nếp sống của người dân Việt
Nam, như câu “phép vua thua lệ làng”, tính tự trị và tính cộng đồng thể hiện rõ trong
làng xã Việt Nam. Với chính sách trên, Ngơ Đình Diệm đã tạo nên những bất đồng
cũng như những mẫu thuẫn đối với nhân dân, khi đã phá vỡ những truyền thống lâu
đời của người dân trong làng, xã.
1.2.1.2.
Chính sách khu dinh điền, khu trù mật
Bên cạnh việc thực hiện chính sách cải cách điền địa, tháng 4/1957, chính
quyền Ngơ Đình Diệm triển khai kế hoạch lập dinh điền, nhằm đưa dân miền Bắc di
cư và dân các tỉnh đồng bằng lên vùng rừng núi, dọc biên giới từ tỉnh Kon Tum đến
miền Đông Nam Bộ. Để lôi kéo quần chúng nhân dân vào các khu dinh điền, chính
quyền Ngơ Đình Diệm tổ chức các lớp học tập tìm hiểu về dinh điền và ra sức lừa gạt
rằng, dinh điền là biện pháp làm tăng vốn và lợi ích quốc gia, tư hữu hóa nơng dân
vơ sản, cải thiện dân dinh,.. Học tập xong nếu ai khơng tình nguyện đi sinh sống tại
các khu dinh điền thì chính quyền sẽ chỉ định các gia đình buộc phải đi, nếu khơng
chịu đi thì sẽ bị nghi là “Việt cộng”, “thân Cộng”. Từ năm 1957 - 1960, chính quyền
Sài Gịn đã đưa khoảng 20 vạn dân mà phần đông là đồng bào Thiên Chúa giáo ở
miền Bắc di cư vào Nam và một phần dân các tỉnh miền Trung định cư khoảng 150
điểm ở Tây Nguyên, Phước Long, Kiến Phong, Kiến Tường, Mộc Hoá, Tân Uyên,..
[73, 198]
Giáo sư Trần Văn Giàu cho biết: “ Các địa điểm là những trung tâm trồng cây
công nghiệp, một trong các chủ trương kinh tế của chính quyền Diệm là đa canh hóa.
Nói khác hơn, bằng cách dinh điền, Diệm muốn trồng một số loại cây công nghiệp
như cao su, ki-nap, đay, gai.. mà Mỹ và chư hầu của Mỹ cần dùng, một số loại cây
khác, giá trị cao như café, chè và hoa quả đặc sản” [47, 853]. Tuy nhiên, chính sách
Khu Dinh điền đã vấp phải sự phản đối của nhân dân, đặc biệt là những đồng bào
được đưa đi đến khu dinh điền sinh sống. Đến năm 1959 - 1960, cùng với chính sách
cải cách điền địa, chính sách dinh điền bị phong trào Đồng Khởi của nhân dân ta làm
cho phá sản. Trước thất bại của chính sách Dinh điền, chính quyền Ngơ Đình Diệm
nghĩ đến một chính sách mới có quy mơ hơn, lâu dài hơn, có thể kết hợp được sự đàn
áp bằng bạo lực với sự lừa phỉnh về xã hội và kinh tế, nhằm bình định nơng thơn,
khống chế nơng dân, cơ lập phong trào cách mạng ngay ở địa bàn cơ sở, chính vì vậy
ngày 7/7/1959, Ngơ Đình Diệm phát lệnh thành lập “khu trù mật”, dồn dân vào
những nơi quy định.
Về mặt lý thuyết, khu trù mật được xem như những đơn vị hành chánh nông
nghiệp, nhằm quy tụ nông nhân thành từng khu bảo vệ yểm trợ và phát triển. Trên
mặt xã hội, khu trù mật là gạch nối giữa thành thị và nơng thơn, qua đó, các sinh hoạt
và phát triển tiến bộ của đô thị sẽ đổ về nông thơn. Đỗ Mậu cho biết rằng chương
trình Khu trì mật đã không nghiên cứu kĩ càng để đi sát với thực tế, chuộng hình thức
nặng nề về lượng hơn là sản phầm, các cán bộ chỉ đạo lo hối hả trồng cây hôm nay,
để ngày mai Tổng thống đi kinh lý khen thưởng hơn là thực sự phát triển chậm mà
chắc. Những lời la thán và các đơn khiếu nại của nhân dân ngày một nhiều, người
dân bị đe dọa nên phải rời khỏi nhà, thiếu thốn về mọi mặt, thay vì được trợ cấp
những người cơng phu bị biển thủ, kinh phí phóng đại, tài sản bị xâm phạm. Mặt
khác, những hoạt động canh tác, nề nếp sống cũng như những sinh hoạt nhân văn của
người dân như: hội hè, đình đám, cưới hỏi đều bị xáo trộn, gây ra những bất bình
trong nhân dân. Chương trình Khu trù mật đã làm tốn không biết bao nhiêu công quỹ
và làm khổ sở nhân dân. [57, 266 - 267] Giáo sư Trần Văn Giàu cũng cho biết: Mỗi
gia đình đến khu trù mật buộc phải bỏ ruộng vườn, nhà cửa, mồ mã ông bà để ở quê
nhà, những ai không chịu dời đi, chính quyền Ngơ Đình Diệm dùng bạo lực đàn áp
và dồn dân vào những nơi quy định, dùng quân đội, đàn áp, cưỡng bách bắt xâu, đuổi
nhà, gom dân, phá ruộng vườn và phá nhà cửa của dân. Những gia đình bị dời đến
Khu trù mật phải lĩnh mấy công đất đã được định đoạt trước. Sau khi gặt lúa xong,
người dân không được đem thẳng về nhà, mà phải đem đến sân chung để khấu trừ
các loại thuế sau đó mới được đem về nhà. [47, 939]
Quả thật, khu trù mật đã làm xáo trộn đời sống của nhân dân, chính quyền
Ngơ Đình Diệm đặt nhân dân vào một hệ thống kìm kẹp cực kỳ khắc nghiệt mà
khơng lường trước sự thất bạn của chính sách tập trung dân, gây thêm những bất
bình, mâu thuẫn của nhân dân đối với chính quyền. Sự thất bại của Diệm về cải cách
điền địa và chính sách Khu trù mật đã được thể hiện khi Diệm không lôi kéo được
lực lượng nơng dân đi theo chính quyền, khơng tách được quần chúng nhân dân khỏi
ảnh hưởng của Đảng Cách mạng. Từ đó, cho thấy sự mâu thuẫn giữa nơng dân với
chính quyền, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế
độ.
1.2.2.
Về chính trị
1.2.2.1.
Chính sách tố Cộng, diệt Cộng
Chống Cộng là quốc sách của cả Mỹ và Diệm, nhằm chống lại những người
kháng chiến cũ. Chính sách “tố Cộng, diệt Cộng” là chính sách của Ngơ Đình Diệm
khi cịn là Thủ tướng, được thi hành từ năm 1954, và kéo dài trong nhiều năm sau khi
Ngơ Đình Diệm lên làm Tổng thống. Theo Hiệp định Giơnevơ, quy định cấm trả thù
những người kháng chiến, nhưng Ngơ Đình Diệm là người có tinh thần chống Cộng,
truy tìm và tiêu diệt những người tham gia hoặc có liên quan đến Việt Minh trong
thời kháng chiến. Ngơ Đình Diệm coi tất cả những người chiến sĩ và du kích Việt
Minh trước năm 1945, dù họ có là Đảng viên hay không, những người làm nghề tự
do ít nhiều đã tham gia vào trong kháng chiến đều là Cộng sản. “Trong những năm từ
1956 - 1957, cuộc khủng bố của chính quyền Diệm đã trở thành những hành động
đại quy mơ, có hệ thống, đạt mức độ dã man xưa nay chưa từng thấy ở Việt Nam. Từ
đây, Diệm công khai trước dư luận về các chiến dịch tố cộng hay chiến dịch diệt
Cộng” [47, 807].
Từ tháng 5/1955 đến tháng 5/1956, chính quyền Ngơ Đình Diệm phát động
“chiến dịch tố Cộng giai đoạn I” trên quy mô tồn miền Nam. Tháng 3/1955, Ngơ
Đình Diệm đã cho thành lập một hệ thống các cơ quan có trách nhiệm thực hiện
chính sách chống Cộng sản ở miền Nam, như “Phủ Đặc ủy công dân vụ”, “Hội đồng
chỉ đạo tố cộng”, ngồi ra cịn có các cơ quan như Nha chiến tranh tâm lí, Bộ Thơng
tin, Tổng cục chiến tranh chính trị được thành lập ngày 9/2/1957, để làm cố vấn
trong chiến dịch “tố Cộng”. Ngơ Đình Diệm đã ra Dụ số 6 (11/1/1956), lập các trại
để giam giữ những người bị coi là “nguy hại cho quốc phòng và an ninh”. Địch chia
nhân dân làm ba loại: loại cán bộ và Đảng viên Cộng sản, loại gia đình có người đi
tập kết, loại nhân dân nói chung. Tùy theo từng đối tượng mà địch cho tổ chức học
tập “tố Cộng” theo những mức độ khác nhau. Sau khi học tập xong, địch bắt từng gia
đình phải kê khai những người Cách mạng, bắt mọi người phải tố giác Cộng sản.
Chính điều này, đã gây ra những hoang mang, nghi ngờ giữa quần chúng và cán bộ.
Từ tháng 7/1957 trở đi, địch mở “Chiến dịch tố Cộng gia đoạn II”. Vào giai đoạn
này, địch điều tra và phân chia gia đình các hộ gia đình theo từng loại: Gia đình loại
A là gia đình những người kháng chiến cũ, gia đình có người đi tập kết.
Địch coi đây là loại gia đình bất hợp pháp. Gia đình loại B là gia đình có bà con, họ
hàng thân thuộc với gia đình loại A, đây cũng là loại gia đình bất hợp pháp. Gia đình
loại C, là những gia đình hậu thuẫn cho chính quyền Ngơ Đình Diệm, được hưởng
những ưu đãi quyền lợi về kinh tế, chính trị. Những gia đình thuộc loại A, B phải đi
học tập “tố Cộng” và nói xấu cách mạng, thực hiện tố giác đồng chí, người thân của
mình. [42, 254- 255]
Tháng 4/1959, với sự tàn ác của mình, quyết tâm nhổ cỏ tận gốc Cộng sản,
“Quốc hội” của Diệm thông qua luật số 91. Luật ấy được ban hành ngày 6/5/1959
mang tên “Luật 10-59” về thành lập các “Tòa án Quân sự Đặc biệt” với lý do “xét xử
các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa”, mục đích nhằm tiến hành
thanh trừ những người cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Với những luật lệ khắc
nghiệt và các tổ chức chống Cộng, chính quyền Ngơ Đình Diệm tiến hành khủng bố
tràn lan đối với nhân dân, đặc biệt là những gia đình kháng chiến cũ hoặc những gia
đình có thân nhân tập kết ngồi miền Bắc Việt Nam. Theo ơng Hồng Linh Đỗ Mậu,
thay vì tố Cộng, bộ máy Cần lao Cơng giáo đã tố chính những thành phần dân tộc
quốc gia. Chiến dịch tố Cộng đã bắt giam vào trại cải tạo từ 50.000 đến 100.000 tù
nhân, nhưng đa số tù nhân này không phải là Cộng sản [57, 197-198]. Chỉ trong vòng
4 năm, từ năm 1955 đến năm 1958, chính sách khủng bố của Ngơ Đình Diệm đã làm
cho cả miền Nam tổn thất gần 9 phần 10 cán bộ Đảng viên. Ở Nam Bộ, khoảng 7 vạn
cán bộ, đảng viên bị giết, gần 90 vạn cán bộ, nhân dân bị bắt, tù đày, gần 20 vạn bị
tra tấn thành tàn tật,.. [33, 310].
Có thể nói rằng, quốc sách “tố Cộng” đã gây ra biết bao đau khổ cho người
dân. Với những luật lệ hà khắc và các tổ chức chống Cộng quy mơ, chính quyền Ngô