Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Chức năng nhận thức và chức năng giáo dục trong truyện ngắn của nam cao trước năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.3 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẨU MỘT
•••
KHOA NGỮ VĂN

KHĨA LUẬN
TỐT NGHIỆP CAO ĐẲNG
A
Tên đề tài:
CHỨC NĂNG NHẬN THỨC VÀ CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO

Giáo viên hướng dẫn: ThS.LÊ SỸ ĐỒNG
Sinh viên thực hiện: LÊ THỊ HOÀI THƯƠNG
Lớp: C12NV01
Khóa: 2012-2015

Bình Dương, ngày 25 tháng 05 năm 2015

LỜI CẢM ƠN


-2Trước hết, em xin gửi lời chân thành đến gia đình, đặc biệt là ba mẹ, người đã
ni dưỡng, dạy dỗ, tạo mọi điều kiện trong quá trình học tập của em.
Em cũng xin chân thành cảm ơn đến tập thể q thầy cơ trong khoa Ngữ văn
đã nhiệt tình giúp đỡ em hồn thành khóa luận.
Đặc biệt, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Lê Sỹ Đồng. Thầy đã hết
lịng tận tình động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình làm luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn đến những người bạn đã động viên em
hồn thành khóa luận này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Bình Dương, ngày 25 tháng 05 năm 2015


Người thực hiện

Lê Thị Hoài Thương
Lời cam đoan
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.Các kết quả nêu trong
khóa luận là trung thực và chưa được cơng bố trong các cơng trình khác.
Người viết
(ký tên)
Lê Thị Hoài Thương

GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng

SVTH: Lê Thị Hoài Thương


DẪN NHẬP

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Văn học phản ánh hiện thực, chính văn học giúp chúng ta có thể hình dung
được cuộc sống chân thực của đời thường. Văn học Việt Nam tronggiai đoạn 19301945 có nhiều nhà văn theo khuynh hướng hiện thực như Ngô Tất Tố, Nguyễn Cơng
Hoan,Vũ Trọng Phụng, Ngun Hồng,... trong đó tiêu biểu là Nam Cao.Các tác
phẩm của ôngphản ánh chân thực về người nông dân, người tri thức tiểu tư sản. Nhà
văn luôn trăn trở, băn khoăn tìm lối thốt cho những số phận ln bị cái nghèo, cái
đói dằn vặt. Họ bị tha hóa cả ngoại hình lẫn tâm hồn cũng bởi vì cơm áo gạo tiền.Bị
kịch thương tâm đó khơng chỉ xảy ra ở tầng lớp nơng dân mà cịn có tầng lớp tri thức
tiểu tư sản. Những tác phẩm của ông có giá trị rất cao, thể hiện rõ chức năng nhận
thức và chức nănggiáo dục và còn nhiều chức năng khác.
Nam Cao là người đi sau so với các nhà văn khác cùng thời nhưng ông đã gặt
hái nhiều thành cơng. Trong các tác phẩm như Dì Hảo, Ở hiền, Lão Hạc, Một đám

cưới, Nghèo, Điếu văn, Tư cách mõ.... viết về người nông dân, Nam Cao đã thể hiện
tính nhân văn cao cả với bút pháp hiện thực sâu sắc.
Qua quá trình đọc và tìm hiểu các tác phẩm của Nam Cao, chúng tôi nhận
thấy những sáng tác của ông điều thể hiện khá rõ chức năng văn học trong đó cóchức
năng nhận thức và chức năng giáo dục. Những trang viết của Nam Cao như tiếng kêu
cứu: hãy bảo vệ nhân phẩm của con người.
Việc nghiên cứu này sẽ góp phần quan trọng trong việc đọc, cảm nhận cũng
như phân tích các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn.Bên cạnh đó, đề tài
sẽlà tài liệu giảng và học của giáo viên và học sinh ở các trường phổ thông trong bộ
môn Ngữ văn, những người quan tâm đến tác phẩm của Nam Cao.


II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Như chúng ta đã biết, Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học
Việt Nam nói chung và văn học hiện thực nói riêng.Ngay từ khi tên tuổi của Nam
Cao được khẳng định qua tác phẩm Chí Phèo cho đến nay có nhiều nhà phê bình,
nghiên cứu văn học quan tâm đến.Ta có thể nói đến cơng trình nghiên cứu năm
1941Lê Văn Trương có tập “Đơi lứa xứng đơi”,do nhà xuất bản “Đời mới” ấn hành
(1941) đầu tiên.Lê Văn Trương đã xác nhận Nam Cao là người “Khơng nói cái người
ta nói, không tả theo lối người ta đã tả”[20, 347]. Như vậy, Lê Văn Trương đã nhấn
mạnh việc Nam Cao mạnh dạn đi theo lối riêng của mình, tìm tịi những đều chưa có
và chưa ai sáng tạo nên.
Phong Lê khi nhận xét về Nam Cao: “Nam Cao - là người suy nghĩ rất
nghiêm chỉnh và cẩn thận về nghề, tuy khôngđặt nghề viết cao hơn mọi nghề”[11,
157].Nam Cao ý thức laođộng trong bất cứ nghề nào đều là một hoạt động nghiêm
túc và phải có lương tâm với nghề, đặc biệt là khi viết văn.
Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận định rằng: “Truyện của Nam Cao dạy cho con
người ta biết xấu hổ, hay nói cách khác muốn lay tỉnh con người ý thức về nhân
phẩm, nhân tính”[16, 257].Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định tầm quan trọng tính giáo

dục trong truyện ngắn: “Nam Cao luôn tạo cảm giác ngược đời để càng làm nổi bật
số phận bi thươngvà các cay đắng chua chát của những cuộc đời để làm nổi bật số
phận bi thảm và cái cay cực chua chát của những cuộc đời nghèo khổ” [14,
263].Cảm giác ngược đời mà Nam Cao tạo ra như thế không thể không làm cho
người đọc cứ phải day dứt không nguôi về thân phận tủi nhục của con người trong
cái xã hội đầy rẫy sự bất công tàn bạo.
Thao Nguyễn với bài viết Nam Cao, trái tim luôn thức đập cùng với những
buồn vui đau khổ của con người năm 2013,NXB Văn hóa thơng tin, đã trích dẫn lời
nói của nhà văn Nguyễn Minh Châu khi nói đến Nam Cao:“Từ trước tới giờ tơi vẫn


thường nghĩ rằng trong những người cầm bút viết văn xi hiện thực của ta, Nam
Cao có tấm lịng thương người thương đời và có con mắt nhìn đời ác nhất - vì Nam
Cao đã nhìn thấy vấn đề cuối cùng của con người... Nam Cao đã lật ra hết tất cả các
lớp áo phủ ngoài đời sống con người Việt Nam. Nam Cao đánh giá tư cách của con
người, vẽlên muôn vạn muôn dạng bức xúc, eo sèo của đời sống, do cái miếng ăn
sinh ra, vẽ lên tâm lý và những mối quan hệ đầy đau đớn giữa những con người
trước cách mạng tháng Tám”[24, 116]. Qua bài viết trên, ta thấy Nam Cao đã nói vẽ
lên bức tranh xã hội hiện thực trước Cách mạng tháng Tám một cách khái qt và cụ
thể nhất. Tơ Hồi nhận địnhNam Cao:“Nam Cao khơng che giấu, khơng màu mè gì
hết, nói toạt ra cái cuộc sống cùng đường tận lối và nhơ nhớp của những người như
anh”[24, 23].Nam Cao là người nhận thức rõ vềxã hội qua sự trải nghiệm của mình
từ cuộc sống.
Nguyễn Minh Châu trong bài viết về Nam Cao trên bài báo Văn nghệ số ngày
18 tháng 7 năm 1987 có nhận xét: “Cả cuộc đời cầm bút cuả Nam Cao cứ đau đáu
nhìn vào cái nhân cách. Cái sự săn đuổi chính mình và các nhân vật của mình đầy
róng riết cũng chính là sự săn đuổi cái nhân cách của con người ta nói chung” [19,
265]. Miêu tả người nông dân, Nam Cao không chỉ vạch trần tình cảnh nghèo khổ
của của họ, mà cịn chú tâm đến nhân cách bị chà đạp, nhân cách bị tha hóa cũng bởi
vì hồn cảnh đơi khi biến họ trở thành những kẻ thô tục tham lam, đáng bị khinh bỉ

về nhân cách.
Hà Minh Đức khi viết về Nam Cao trong cuốn giáo trình Văn học Việt Nam
1900 -1945 có đoạn: “Gấp những trang sách của Nam Cao, người đọc dường như
vẫn cảm thấy ngột ngạt và ám ảnh không nguôi với số phận của những con người
khốn khổ. Cái khơng khí ngột ngạt đó, chủ yếu là do hiện thực xã hội lúc bấy giờ”[4,
478]. Qua đó phần nào ta cũng thấy được sự phản ánh trong nhận thức của Nam Cao:
“Ngòi bút hiện thực sắc sảo của Nam Cao đã xé toang lớp vỏ hào nhoáng bên ngoài


của con người tiểu tư sản để đi sâu vào những vấn đề bên trong, ông không rơi vào
lối viết tơ vẽ, thi vị hóa như một nhà văn lãng mạn đương thời” [4,484]. Người đọc
thấy được bản chất bên trong con người của từng nhân vật. Đồng thời, ta nhận ra một
điều rằng Nam Cao là một người ghét những tính chất giả dối và kiên quyết đoạn
tuyệt với chủ nghĩa lãng mạn để đến với chủ nghĩa hiện thực.
Nguyễn Duy Tờ tác giả cuốn sách Sự vận động của động của dòng văn học
hiện thực Việt Nam 1930 -1945 đã ghi lại nhận xét của Nguyên Hồng như sau: “Tuy
ta đã được đọc khơng ít những truyện viết về sự đói khổ, bóc lột, áp bức, về những
cảnh thương tâm, đen tối của một xã hội đầy rẫy sự bất công, nhưng qua Nam Cao
ta được thấy cất lên thật là những tiếng nói, ta được những chứng kiến thật là những
cuộc đời mờ mịt, ngoi ngóp, xơ xác ở nông thôn mà từ trước đến giờ mà ta đã trông
đã nghĩ mà gần không hiểu, không thấy gì hết, đó thật là những tác phẩm của con
người” [21,265]. Có thể nói giá trịtác phẩmcủa Nam Cao đã đánh sâu vào tâm trí làm
lay động ý thức nhà văn Nguyên Hồng.
Những nhận định trên, ta thấy đa phần trong các bài phê bình chỉ có một vài
đoạn nhắc đến chức năng nhận thức và chức năng giáo dục.Nhưng các nhận định đó
chưa đi sâu làm rõ vấn đề.Vấn đề đặt ra ở đây là cần phải làm rõ chức năng nhận
thức vàchức năng giáo dục trong truyện ngắn của Nam Cao, đặc biệt giai đoạn trước
1945. Có như thế, chúng ta mới có thể thấy đượcvị trí quan trọng của Nam Cao trên
văn đàn Việt Nam cùng với giá trị lớn lao từ những tác phẩm ấy.
Bên cạnh những nhận định của các nhà văn và cơng trình nghiên cứu trên,

chúng ta còn tham khảo các cuốn sách tập hợp viết về nhà văn Nam Cao như “Nghĩ
tiếp về Nam Cao”(NXB Hội nhà văn Hà Nội 1992), “Nam Cao về tác gia tác phẩm”
(NXB Giáo dục 1998), “Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc” (NXB Thông tin văn
hóa Hà Nội 2000),“Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn”(NXB Giáo
dục, H, 1996)...
III. MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI


Mục đích của đề tài này là làm rõ chức năng nhận thức và chức năng giáo dục
trong sáng tác của Nam Cao. Chức năng giáo dục trong tư tưởng rèn luyện nhân cách
để từ đó biết ni dưỡngthanh lọc tâm hồn.Mỗi tác phẩm của ơng điều mang tính
giáo dục đi kèm với nhận thức khi người đọc soi mình vào từng trang viết của ơng để
nhìn lại bản thân mình.Những tác phẩm ấy dường như làm cho con người thức
tỉnh.Từ đó, giúp người đọc nhận thức thêm về giá trị truyện ngắn của Nam Cao.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu về chức năng nhận thức, chức năng giáo dục trong
truyện ngắn của Nam Cao trước1945.
2. Phạm vi đề tài
Do giới hạn làm luận vănnên chúng tôi chọn khảo sát những truyện ngắn ở
giai đoạn trước 1945như: Giăng sáng(1942), Đời thừa (1943), Trẻ con khơng được
ăn thịt chó (1942), Chí Phèo (1941), Nghèo (1937), Dì Hảo (1944), Tư Cách Mõ
(1943), Lang Rận (1944), Lão Hạc (1943), Một bữa no (1943), Một truyện xu-vơnia (1943), Một đám cưới (1944), Điếu Văn (1943), Ở hiền (1943), Truyện tình
(1943), Nhỏ nhen (1942), Nửa đêm (1944), Sao lại thế này (1943), Quên điều độ
(1943), Mua danh (1943), Nhìn người ta sung sướng (1942), Từ ngày mẹ chết
(1943), Điếu văn (1943), Mua nhà (1943), Đui mù (1937),Xem bói (1943).
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong q trình nghiên cứu, để đề tài của mình chặt chẽthống nhất, chúng tơi

đã sử dụng một số phương pháp sau để hồn thành luận văn của mình:
1. Phương pháp phân tích
Phương pháp này rất quan trọng trong khi nghiên cứu đề tài.Từ những tài liệu
đã chọn lọc và tập hợp đầy đủ, người viết tiến hành phân tích các chức năng nhận
thức và chức năng giáo dục trong tác phẩm Nam Cao.Như thế sẽ giúp đề tài thêm sức


thuyết phục.
2. Phương pháp so sánh
Người viết tiến hành liện hệ so sánh tác phẩm của Nam Cao với những tác gia
khác, để làm rõ chức năng.Góp phần cho đề tài thêm sức thuyết phục.Và khẳng định
tài năng và sự đóng góp của Nam Cao trong giai đoạn hiện đại hóa văn học Việt
Nam.
3. Phương pháp liên ngành
Để đánh giá một cách chính xác, người viết vận dụng những kiến thức về cơ
sở văn hóa, lịch sử, tơn giáo tư tưởng để phân tích các hiện tượng văn học.
BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
CHƯƠNG 1
TÁC GIẢ NAM CAO VÀ THỜI ĐẠI
1.1. Hồn cảnh lịch sử năm 1930- 1945
1.1.1.

Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội

1.1.2.

Tình hình văn học

1.2.


Tác giả Nam Cao

1.2.1.

Con người và cuộc đời

1.2.2.Sự nghiệp sáng tác
1.3.

Chức năng của văn học

1.3.1.

Chức năng nhận thức

.3.2. Chức năng giáo dục
❖ Tiểu kết

CHƯƠNG 2


CHỨC NĂNG NHẬN THỨC TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAMCAO
2.1.

Nhận thức về hoàn cảnh xã hội

2.1.1.

Hiện thực xã hội


2.1.2.

Thái độ của tác giả

2.2.

Nhận thức về số phận con người

2.2.1.

Nông dân bần cùng hóa, tha hóa

2.2.2.

Tri thức tiểu tư sản

❖ Tiểu kết

CHƯƠNG 3
CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
3.1. Giáo dục về tư tưởng
3.1.1.

Rèn luyện, tu dưỡng, trao dồi phẩm chất

3.1.2.Suy nghĩ về triết lý sống
3.2.

Giáo dục về các mối quan hệ xã hội


3.2.1.

Tình cảm gia đình

3.2.2.

Tình cảm giữa người với người trong xã hội

❖ Tiểu kết


CHƯƠNG 1
TÁC GIẢ NAM CAO VÀ THỜI ĐẠI
1.1.

Hoàn cảnh lịch sử năm 1930- 1945

1.1.1.

Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội

> Tình hình chính trị

Vào thế kỉ XX, thực dân Pháp đã thực hiện xong việc xâm chiếm nước ta sau
đó chuyển sang giai đoạn khai thác thuộc địa làm giàu cho nước của họ. Pháp cho
xây dựng các hệ thống như hầm mỏ, cơ sở công nghiệp, giao thông,... Ngoài việc
khai thác thuộc địa thiết lập trật tự mới thì chúng đã tuyên truyền tư tưởng văn minh
của nước Phápmuốn đầu độc thuần hóa nhân dân Việt, che dấu bộ mặt cướp nước
bằng cách đã đưa ra hội đồng tư vấn bày trị dân chủ giả hiệu.
Thơn xóm làng mạc tiêu điều sơ xác do kẻ thù tàn phá, nhân dân ta đã sống với

những ngày tháng sống dở chết dởchịu nhiều áp bức sưu thuế, nhiều người phải bỏ
làng ra đi làm thuê, làm mướn với đồng lương rẻ mạt. Tầng lớptrí thức thời phong
kiến lúc bấy giờ cũng lâm vào tình trạng bế tắc.Trong bối cảnh chính trị phức tạp và
đen tối như thế, thanh niên Việt Nam cảm thấy bi quan tuyệt vọng họ hết sức chán
nản với lối học cũ.
Phong trào giải phóng dân tộc bị dập tắt kể từ ngày khởi nghĩa Phan Đình
Phùng thất bại hồn tồn.Nhưng sau đó có các cuộc khởi nghĩa khác trỗi dậy mạnh
mẽ như khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo trong năm sau. Vào đầu
thế kỉ XX, cuộc đấu tranh giải phóng nổi dậy mạnh mẽ.
Ngọn cờ cứu nước, cuộc giải phóng dân tộc chuyển sang thời kì mới.Với việc
thành lập Đảng cộng Sản năm 1930.Sau cao trào Xô viết - Nghệ Tĩnh năm 19301931 bị thực dân Pháp đàn áp.Phong trào mặt trận Dân chủ Đơng Dương (19361939) và tiếp đó là thời kì Mặt trậnViệt Minh dẫn tới cuộc tổng khởi nghĩa tháng


Tám năm 1945, đã chấm dứt chế độ thực dân phong kiến trên đất nước ta.
Trong bối cảnh chính trị phức tạp như thế, Nam Cao đã không chịu khuất dưới
chế độ ngạt thở ấy.Ơng nhìn rõ chế độ đã đầy đọa con người, nhà văn muốn vạch ra
cho mọi người thấy cái khổ đang vây kín con người.Thế nên, trong sáng tác của
ơngchịu ảnh hưởng sâu sắc về hồn cảnh chính trị.
> Tình hình kinh tế

Đầu thế kỉ XX,kinh tế nước ta vẫn là kinh tế nông nghiệp lạc hậu.Thực dân
Pháp thực hiện chính sách kinh tế thực dân làm phá sản nông dân và thợ thủ công,
tạo ra nguồn nhân cơng rẻ mạt, phục vụ cho cơng trình khai thác của chúng.Kết quả
của chính sách trên đã kéo nước ta vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, muốn biến
nước ta thành sân sau của thực dân Pháp.
> Tình hình xã hội

Kinh tế hàng hóa kích thích phát triển của công thương nghiệp làm cho thành
thị phát triển, xuất hiện nhiều nhu cầu mới, phát triển nhiều nghề mới, tầng lớp thị
dân phát triển.Trong xã hội Việt Nam thời kì này tồn tại những mâu thuẫn gay gắt

giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp, giữa tầng lớp nhân mà chủ yếu là nông
dân với giai cấp địa chủ phong kiến.Tầng lớp thị dân có ít nhiều tự do trong đờisống
thành thị tư sản. Giai cấp tư sản từ các tầng lớp thị dân phát triển dần lên.Sự phát
triển của đô thị dẫn đến sự phá sản nông nghiệp, làm cho nông thôn tiêu điều.Nông
dân kéo ra thành thị kiếm sống ngày càng đơng.Sự vơ vét, bóc lột của thực dân
Pháp, địa chủ cường hào ở nông thôn với sưu thuế cao đã đẩy nhiều tầng lớp rơi vào
bế tắc bần cùng hóa.
Qua tình hình kinh tế, xã hội như thế, Nam Cao đã chứng kiến cuộc sống khó
khăn bế tắc bần cùng của người dân và tri thức tiểu tư sản. Nên trong quá trình sáng
tác, ta thấy có rất nhiều truyện ngắn đề cập đến vấn đề đói khổ của người nơng dân,
cuộc sống bế tắc của những người tri thức.


1.1.2.

Tình hình văn học

Văn học giai đoạn 1900- 1930 mang tính chất giao thời từ văn học trung đại
sang văn học hiện đại. Đi đơi với sự giao thời đó, văn học giai đoạn này có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, văn học đổi mới theo hướng hiện đại hóa. Hiện đại hóa chính là
sựđổi mới văn học sao cho thốt khỏi thi pháp văn học trung đại để tiến tới tiếp cận
và hội nhập với nền văn học phương Tây. Bên cạnh đó, xã hội Việt Nam đã có sự
thay đổi và chính điều này đã thúc đẩy hiện đại hóa văn học. Việt Nam qua hai lần
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, cơ cấu xã hội có sự biến đổi, q trình đơ thị
hóa hình thành tầng lớp thị dân cơng chúng, đóng vai trị quan trọng thúc đẩy văn
học thay đổi. Không những thế, nền văn học Trung hoadần mất đi sự ảnh hưởng,
thay vào đó là nền văn học phương Tây chiếm ưu thế; trí thức Tây học thay thế dần
trí thức Nho học.Và cuối cùng ta khơng bỏ qua được chính là sự ra đời của chữ quốc
ngữ.Chính ba yếu tố này thúc đẩy q trình phát triển văn học theo hướng học đại

hóa. Bên cạnh đó, có sự ảnh hưởng q trình phát triển văn học.
Từ đầu thế kỉ XX đến 1920, nền văn họcbước vào giai đoạn giao thời, nhưng
vẫn còn tồn tại các lớp nhà nho học của văn học trung đại như Tú Xương, Nguyễn
Khuyến. Họ vẫn tiếp tục sáng tác với những tác phẩm viết bằng chữ Hán thể loại
theo kiểu truyền thống. Bên cạnh đó, có sự xuất hiện tác phẩm viết bằng chữ quốc
ngữ trước đó chẳng hạnnhư Truyện thầy Lazaro Phiềncủa Nguyễn Trọng Quản năm
1887, hay một số sáng tác của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, HuỳnhThúc
Kháng.Văn học giai đoạn này mang nội dung mới,tư tưởng mới nhưng nghệ thuật thì
lại cịn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi văn học trung đại. Cho nên ta chỉ xét văn học
giai đoạn này như một bước điều kiện cần thiết cho văn học hiện đại hóa về sau.
Bước qua giai đoạn 1920 đến 1930, giai đoạn này ra đời những tác phẩm có
giá trị, những nhà văn mang tên tuổi khẳng định được sáng tác của mình. Đồng thời,
ta thấy có sự xuất hiện thể loại mới là kịch nói và những tác giả, tác phẩm tiêu biểu.


Văn xi ở miền Bắc có Hồng Ngọc Phách, ở miền Nam có Hồ Biểu Chánh. Về
truyện ngắn thì có những cây bút khá tài năng như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học
và Nhất Linh.Về bút kí, tùy bút có Đơng Hồ, Phạm Quỳnh. Về thơ, có Tản Đà, Tuấn
Khải.Văn học lúc này có sự thay đổi mới, một bước tiến mới nhưng chưa thực sự
sâu sắc.
Giai đoạn 1930 đến 1945, đây là giai đoạn quan trọng nhất cho quá trình hiện
đại hóa hồn thiện nhất, lúc này ta bắt gặp một số tác giả tác phẩm tiêu biểu và văn
học cũng đạt được nhiều thành tựu.Về thơ, chúng ta không thể nào không nhắc đến
cuộc cách mạng của thơ ca 1930- 1945 với những tác giả rất nổi tiếng như Hàn Mặc
Tử, Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính,..Về truyện ngắn,
nổi bật lên những cây bút tài hoa như Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn
Cơng Hoan, Ngơ Tất Tố,... Bút kí, tùy bút có Xuân Diệu, Nguyễn Tuân. Về tiểu
thuyết, ta không thể quên Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố. Đặc biệt có sự
hình thành phê bình văn học với các nhà phê bình như Đặng Thai Mai, Hồi Thanh.
Bước sang giai đoạn này, về mặt nội dung, nghệ thuật, thể loại có sự thay đổi tồn

diện, chính vì thế văn học lúc bấy giờ có lợi thế hội nhập vào nền văn học phương
Tây.
Thứ hai,hình thành hai bộ phận và phân hóa đa xu hướng;điểm quan trọng ở
đặc điểm thứ hai này là thái độ chính trị của người sáng tác đối với chính quyền thực
dân.Bộ phận đầu tiên là văn học công khai, trong bộ phận này lại chia ra thành hai
xu hướng khác nhau đó là xu hướng lãng mạn và xu hướng hiện thực.Với xu hướng
lãng mạn, các nhà văn nhà thơ thể hiện một cách trực tiếp để có thể nói lên tiếng nói
cảm xúc riêng cho cá nhân mình.Nhưng bên cạnh đó, họ thể hiện một thái độ bất hòa
với xã hội, đề cập đến vấn đề bức bối, tù túng của một xã hội thực dân phong
kiến.Và điều quan trọng nhất là những sáng tác của trào lưu văn học lãng mạn rất
chú tâm đến đời sống nội tâm con người, góp phần vào cho chủ nghĩa nhân đạoViệt


Nam lên tiếng yêu cầu hạnh phúc của cá nhân và chống lại phong kiến. Đến xu
hướng hiện thực thì hoàn toàn khác với lãng mạn, các nhà văn hiện thực của chúng
ta tập trung phơi bày thực trạng bất công của xã hội thực dân phong kiến lúc bấy
giờ. Họ bênh vực cho những kiếp người lầm than nghèo khổ. Họ đề cập đến vấn đề
thế sự với tinh thần dân chủ và tinh thần nhân đạo.Đồng thời các nhà văn cịn phân
tích lý giải hiện thực khách quan trong việc xây dựng những hồn cảnh điển hình,
tính cách điển hình.
Mặt khác, chúng ta cịn phải kể đến một bộ phận khác của giai đoạn 19001945 chính là bộ phận văn học không công khai, của các nhà cách mạng, những
chiến sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Aí Quốc, Tố Hữu.
Nội dung chính của nó đólà xem văn học như một vũ khí chống lại thực dân phong
kiến.Đặc biệt hơn, họ lại phản ánh xã hội với mâu thuẫn cơ bản giữa nước xâm lược
và nước bị xâm lược.Ấn tượng hơn, họ đã xây dựng nhân vật trung tâm của mình là
những hình tượng nhân vật yêu nước, những anh hùng bất khuất xả thân vì dân tộc.
Thứ ba, văn học phát triển theo tốc độ nhanh chóng. Ta thấy rất rõ ở Hồ Biểu
Chánh có hơn sáu mươi cuốn tiểu thuyết, Vũ Trọng Phụng trong thời gian sáng
táccho ra đời tám tiểu thuyết, bảy phóng sự hàng chục truyện ngắn có giá trị,
Nguyễn Cơng Hoan một truyện ngắn tài hoa có hành trăm truyện dài và hàng chục

truyện ngắn. Nóivề thơ, ta thấy rằngtừ năm 1932-1941Hoài Thanhđã chọn ra những
bài thơ tiêu biểu để hình thành nên tập thi nhân Việt Nam.Nói vậy để ta thấy được sự
đồ sộ về số lượng trong giai đoạn văn học này.
Không những thế,văn học lúc này có sự cách tân văn học Việt Nam đã đến
một đỉnh điểm. Vào năm 1925 ở miền Bắc với tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc
Phách ra đời đánh dấu một chấn động lớn. Nhưng đến năm 1933 khi Hồn bướm
mơtiên xuất hiện thì Hồng Ngọc Phách đã lùi xa và sau này Nam Cao,Thạch Lam
xuất hiện văn xuôi Việt Nam có một bước phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Đến với thơ,


ta có bài Nhớ rừng của Thế Lữ, khi bài này ra đời chỉ có đơi ba câu thơ thơi cũng đã
đủ làm bức phá thành công vượt qua thơ cũ. Vì thếta thấy văn học thời xưa phát triển
rất dữ dội.
Nhịp độ phát triển sự trưởng thành của văn học Việt Nam hình thành và phát
triển nhờ sự kết tinh tài năng của những cây bút tài hoa, chúng ta có được những tác
phẩmvà tác giả đứng vững mãi với thời gian.Những biểu hiện trên có được nhờ vào
các nguyên nhân sau:Đó là tiềm lực văn học dân tộc, khả năng diễn đạt tuyệt vời của
Tiếng Việt giúp cho các nhà văn hình thành nên sáng tác vơ cùng tuyệt diệu. Bên
cạnh đó, cịn có sự đóng gópcủa lớp trí thức tây học. Họ là những người cách tân
văn học đổi mới văn học đưa văn học Việt Nam đến với thế giới, ảnh hưởng từ các
cuộc vận động cách mạng với tinh thần dân chủ cách mạng những năm 1930- 1945
do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo.
1.2.

Tác giả Nam Cao

1.2.1.

Con người và cuộc đời


Nam Cao có một vị trí vững vàng đặc biệt trong văn học Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945.Ông là một tài năng lớn, một ngịi bút hiện thực sắc bén đã góp phần
khơng nhỏ vào quá trình vận động cách tân văn học bằng chữ quốc ngữ.Những tác
phẩm của Nam Cao ra đời trong thời kì phát triển của trào lưu văn học hiện thực
phê phán.Chỉ mới mười lăm năm cầm bút (1936- 1951), Nam Cao đã khẳng định
vị trí vững chắc cho ngịi bút của mình.Ơng đã để lại cho đời những tác phẩm vơ
giá, vững bền với thời gian, có sức vượt qua mọi giới hạn để trở thành một người
bạn gần gũi với nhiều thế hệ độc giả.
Khi đến với nghề văn, Nam Cao luôn quan niệm tiến bộ, nhất quán sâu sắc:
“Nghệ thuật không cần ánh trăng lừa dối, khơng nên là ánh trăng lừa dối, nghệ
thuật có thể là tiếng đâu khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”[25, 112]. Cả một
đời mình, Nam Cao gắn sự nghiệp vào cuộc đời để phản ánh cuộc sống chân thực
đầy đen tối của xã hội thực dân phong kiến, số phận lầm than bế tắc của người nông


dân, người trí thức tiểu tư sản những năm 1940 -1945.
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Trí, sinh năm 1917 trong một gia đình nơng dân
nghèo ở làng Đại Hồng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Trong gia đình nghèo, đời
sống q khó khăn, chỉ có mình Nam Cao được ăn học tử tế. Thi Thành chung trượt,
Nam Cao đành phải vào Sài Gịn kiếm sống mang trong mình biết bao nhiêu hoài
bão, ước mơ dự định trong tương lai, nhưng rốt cuộc bệnh tật đã đưa ông về lại miền
quê nghèo mà ông đã từng sống. Khi trở về làng, Nam Cao lại nỗ lực học lại và thi
đỗ Thành chung. Ơng định đi làm cơng chức nhưng bệnh tật nên không được chấp
nhận. Nam Cao lên Hà Nội dạy học cho một trường tư thục. Chính cuộc sống nhà
giáo khổ trường tư này giúp ông nhận thức được sâu sắc về thân phận tri thức nghèo
tiểu tư sản phải sống trong khơng khí ngột ngạt, bế tắc của xãhội cũ. Vào năm 1941,
Nhật xâm lược Đông Dương, trường bị đóng cửa. Nam Cao phải chuyển nghề viết
văn, làm gia sư,có khi phải thất nghiệp...Và cuối cùng phải tồn tại bằng cách sống
dựa giẫm vào vợ ở quê. Năm 1943, Nam Cao tham giavào nhóm Văn hóa cứu quốc
cùng với một số nhà văn như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Ngun

Hồng...Nhưng khi cơ sở mà ơng đang hoạt động bịphát hiện, Nam Cao trở về quê
tham gia vào phong tràoViệt Minh. Năm 1945, Nam Cao thamgia lập đổ chính
quyền ở phủ Lí Nhân. Sau được bầu làm chủ tịch xã.Năm 1947kháng chiến bùng nổ,
Nam Cao tham gia vào kháng chiến ông vừa biên tập cho báo Cứu quốc Việt Bắc,
vừa làm mọi công việc của một cán bộ thơng tin tun truyền. Trong q trình hoạt
động nghiêm túc ông được vinh dự kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương năm
1948. Tháng11năm 1951trên đường công tác, Nam Cao bị địch phục kích sát hại
Nam Cao ngã xuống khi tài năng đang nổ rộ.Nhắc đến Nam Cao, ta nhớ ngay một
người bề ngồi có vẻ lạnh lùng nhưng đằng sau đó có một trái tim nồng hậu, biết yêu
thương con người với tấm lòng nhân đạo sâu sắc đối với con người nghèo khổ.
Trong sách giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, có nhận xét về Nam Cao như
sau:“Nam Cao là một người luôn trăn trở về cuộc đời, lúc nào cũng cảm thấy mình


mắc nợ tình thâm” [6, 255]. Đó là người bà, mẹ, vợ, họ là những người chịu thương
chịu khó ni dưỡng, chăm sóc Nam Cao. Chính họ là điểm tựa niềm an ủi, động
viên ơng trước những sóng gió của cuộc đời, là nơi tiếp sức nâng đỡ đôi chân nhà
văn khi ông tuyệt vọng.Trong sâu thẳm nội tâm,Nam Cao thường xuyên dằn vặt,đấu
tranh bản thân kiềm nén những tham vọng, để vượt qua chính mình và vươn tới cái
đẹp trong cuộc sống. Một đặc điểm nổi bật nữa ở Nam Cao là hay hối hận, dày vò
bản thân, dám thành thực và dũng cảm phơi bày mình trên từng trang giấy. Cuộc đấu
tranh nội tâm này phản ánh rõ trong các tác phẩm về đề tài tri thức tiểu tư sản. Các
nhân vật trí thức tiểu tư sản của Nam Cao ít khi có cuộc sống bình n, lúc nào cũng
lo toán việc gạo tiền, nét mặt dường như đăm chiêu lo lắng.Nam Cao có một tình
cảm đặc biệt với quê hương nơi sinh ra và lớn lên ở làng quê. Nam Cao hiểu rõ và
yêu thương những người nơng dân khốn khổ, tuy họ bề ngồi thơ kệch, có khi thơ lỗ
nhưng bên trong họ mang nhiều phẩm chất đáng quý.

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Nam Cao là người đại diện cho trào lưu văn học hiện thực giai đoạn 1940 1945, với tài năng xuất sắc nhà văn đã viết ra những trang giấy phản ánh chân thực

những cuộc đời tăm tối, chua chát, những bi kịch đau đớn. Trước Cách mạng tháng
Tám, sáng tác của Nam Cao đã xoay quanh hai mảng đề tài chính. Mảng đề tài thứ
nhất viết về người nơng dân nghèo khổ có những tác phẩm như (Nghèo, Chí Phèo,
Nhỏ nhen, Nhìn người ta sung sướng, Địn chồng, Đơi móng giị, Trẻ con khơng
được ăn thịt chó, Mua nhà, Qi dị, Từ ngày mẹ chết, Mua danh, Tư cách mõ, Điếu
Văn, Một bữa no, Ở hiền, Lão Hạc, Lang rận, Một đám cưới, Nửa đêm, Dì Hảo, Sao


lại thế này, Làm tổ).Mảng đề tài thứ hai viết vềngười trí thức tiểu tư sản có những
tác phẩm như (Giăng sáng, Truyện tình, Một chuyện xú - vơ - nia, Đời thừa, Cười,
Quên điều độ, Xem bói, Nước mắt, Những chuyện khơng muốn viết,Sống mịn). Sau
cách mạng tháng Tám có những tác phẩm tiêu biểu (Đơi mắt, Chuyện biên giới, Từ
ngược về xuôi, Đường vô Nam, Vui dân công,...).
J Cuộc sống những người nông dân cùng khổ
Bức tranh nông thơn trong truyện ngắn của Nam Cao có phần mới mẻ khá đặc
biệt. Bao trùm lên tồn bộ thơn q trong tác phẩm của Nam Cao là một khơng khí
ngột ngạt u ám,hoang vắng và nghèo đói đến rợn người. Hình ảnh con đường, ngõ
vắng, tất cả mọi hoạt động của con người điều được thu gọn vào trong các mái
nhà.Cảnh nông thôn hoang vắng đến lạnh người như thế. Chính cái cảnh này nổi lên
lên tiếng chửi của những kẻ tha hóa rạch mặt ăn vạ, người vợ túng quẫn chửi con
hay thậm chí là tiếng khóc thành lời của những người nông dân bế tắc... Bức tranh
nông thôn trong sáng tác của Nam Cao phản ánh chính xác bộ mặt nông thôn Việt
Nam những năm cuối cùng của chế độ thuộc địa.
Trên bối cảnh nơng thơn xơ xác,ngịi bút của Nam Cao đã diễn tả chân thực
vềtình trạng nghèo túng và khơng ít nhân vật bị đẩy vào con đường chết đầy đau
đớn: anh Đĩ Chuột (Nghèo), bà cái Tý (Một bữa no), lão Hạc (Lão Hạc), anh Phúc
(Điếu văn).. .số phận đáng thương của người nông dân bần cùng, mỗi người mỗi
cảnh nhưng chung lại đều là nghèo. Mỗi tác phẩm của nhà văn là một lời tố cáo chân
thực, cảm động về cuộc sống tăm tối, thê thảm của người nông dân. Bên cạnh loại
nhân vật chịu sự đầy đọa, chà đạp của xã hội nhưng vẫn giữ được nhân phẩm của

mình. Nam Caocịn chú ý đến những con người thấp cổ bé họng, bị áp bức bất cơng
đẩy họ vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Đó là Trạch Văn Đồnh (Đơi móng
giị),Trương Rự (Nửa đêm), Năm Thọ, Binh Chức (Chí Phèo).
Trong xã hội ấy, người phụ nữ với thân phận nô lệ luôn bị chà đạp thơ bạo,có


khi họ là nạn nhân khốn khổ của những kẻ mà họ phải thờ phụng Ở hiền, Trẻ con
không được ăn thịt chó, Địn chồng.Hay ta lại bắt gặp những nhân vật nơng dân với
cái vẻ bề ngồi xấu xí thô kệch, nhưng Nam Cao phát hiện bên trong tâm hồn của họ
những phẩm chất cao quý. Ôngđi sâu vào nỗi khổ tâm hồn của con người bị đầy đọa,
nhân phẩm bị xúc phạm giá trị làm người bị tước đoạt. Bị sỉ nhục tàn tệ, người nông
dân khốn khổ chỉ có thể hoặc từ bỏ cuộc sống như Lang Rận. Nam Cao đã đanh thép
lên án xã hội lúc bấy giờchà đạp người nông dân lương thiện, và dõng dạc bênh vực
nhân phẩm của họ ngay khi bị sỉ nhục một cách độc ác.
J Cuộc sống của những người trí thức tiểu tư sản nghèo
Viết về đề tài này, Nam Cao đã miêu tả thấm thía tình cảnh bấp bênh, đói
cơm,rách áocủa tầng lớp tiểu tư sản trước cách mạng, Nam Cao hiểu rất rõ cuộc
sống cơ cực của họ. Vì bản thân ơng đã là nhà văn nghèo bất đắc dĩ, từng dạy học
ở những nơi giáo khổ trường tư. Tác phẩm của Nam Cao đã ghi lại chi tiết cuộc
sống nghèo túng bi hài của người tư sản.Nhân vật tiểu tư sản của Nam Cao là
những Hộ(Đời thừa), Điền (Trăng sáng), Hài (Quên điềuđộ), .Họ đã ý thức được
nhân phẩm, có hồi bão, có tâm huyết với nghề,muốn xây dựng một sự nghiệp lớn
nhưng vì cơm áo gạo tiền mà đành phải sống thừa, kẻ ăn bám, làm những việc bất
lu'0'iig... Nam Cao không chỉ miêu tả tình cảnh ấy mà cịn có thái độmỉa mai thói
hư tật xấu của những kẻ tri thức thèm khát hưởng lạc cuộc sống giàu sang trong
truyện Quên điều độ, Truyện tình, Nhìn người ta sung sướng.
> Quan điểm sáng tác

Nam Cao là một trong những nhà văn có ý thức tự giác về sáng tạo trong văn
chương trước cách mạng. Cả một đời nhiệt huyết với nghề, Nam Cao luôn không

ngừng suy nghĩ về cách sống và quan điểm nghệ thuật của mình.Những quan điểm
đó tuy khơng thể hiện trực tiếp qua báo chí hay văn bản chính luận, nhưng đã được
thể hiện qua các tác phẩm mà nhà văn sáng tác. Trong cuộc sống cũng như trong
nghề viết văn, Nam Cao gặp khá nhiều khó khăn ngay lúc ban đầu. Lúc mới bắt đầu


cầm bút viết văn, Nam Cao đã chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời
khiến ông hướng tới xu hướng “nghệ thuật vị nghệ thuật” thoát khỏi hiện thực sáng
tác ra những bài văn, bài thơ dễ dãi không phản ánh được hiện thực cuộc sống mà
ông đang sống. Từ đó, Nam Cao đã kịp thời thốt khỏi thế giới ảo ảnh để nhanh
chóng trở về với cuộc sống thực. Quan điểm của Nam Cao trước hết là quan điểm:
“Nghệ thuật vị nhân sinh” nhà văn yêu cầu phải nhìn thẳng, phản ánh chân thực
hồn cảnh đời sống, phục vụ đời sống con người. Người cầm bút phải có trách
nhiệm dám đương đầu với sự thật, dù sự thật ấy chẳng nên thơ chút nào.
Trong truyện ngắn Giăng sáng Nam Cao viết: “Nghệ thuật không cần là ánh
trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể là tiếng đau khổ
kia, thốt ra từ những kiếp lầm than” [25, 112].Người nghệ sĩ phải mở rộng lịng
mình để đón nhận những vang động của đời.Nhà văn phải đồng cảm nhân vật Điền,
một nhà văn có xu hướng đi theo văn chương lãng mạn, muốn thoát khỏi cuộc sống
tầm thường ước ao muốn vươn lên cuộc sống giàu có. Điền muốn ánh trăng nghệ
thuật kia che lấp đi cái cuộc sống khó khăn hiện tại nhưng thực tế đã làm cho anh
tỉnh thức bởi, tiếng chửi mắng của người vợ. Ngoài kia ánh trăng đẹp đấy nhưng nó
lại khơng thể hiện được sự đồng cảm mà Điền phải gánh chịu, tâm trạng Điền đang
đấu tranh day dứt trong tư tưởng giữa hai con đường thực và ảo mà ý thức được
trách nhiệm ngịi bút của mình. Điền chối bỏ và nghiêm khắc phê phán tính chất giả
dối của văn thơ lãng mạn thờ ơ trước những kiếp người lầm than quay lưng với cuộc
sống. Để rồi lựa chọn cho mình chủ nghĩa hiện thực có nghĩa là trở về chỗ đứng của
mình trong những người nghèo khổ ruột thịt của mình:“Điền chẳng cần đi đâu cả.
Điền chẳng cần trốn tránh, Điền đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả
những vang động của đời... ”[25, 113]. Điền chẳng muốn đi đâu hay trốn tránh gì

cả, anh muốn ở lại chịu đựng những lao khổ với vợ mình và những người khốn khổ.
Quan điểm nghệ thuật ấy cho thấy nghệ thuật không chỉ phản ánh hiện thực


lầm than mà còn thể hiện giá trị nhân đạo: “Nó phải chứa đựng một cái gì đó lớn
lao, mạnh mẽ vừa đau đớn vừa phấn khởi, nó ca tụng lịng u thương và sự bác ái,
nó làm cho người gần gũi nhau hơn” [25, 348]. Hộ trong Đời thừatừng mơ ước viết
một tác phẩm có giá trị chứa đựng một cái gì đó lớn lao, một tác phẩm có giá trị
chung cho nhân loại, đem lòng yêu thương cứu giúp đỡ người. Hộ sống theo nguyên
tắc yêu thương nâng đỡ họ trên đơi vai của mình, chính ngun tắc thể hiện lịng
nhân đạo đó Hộ đã cứu lấy đời Từ. Tư tưởng nhân đạo là sợi dây đỏ xuyên suốt quá
trình sáng tác của nhà văn.Mỗi tác phẩm của ông đều được xây dựng trêncái nền
nhân đạo kiên cố.
Nam Cao là nhà văn luôn coi lao động là một hoạt động nghiêm túc và cơng
phu, địi hỏi người viết văn phải cólương tâm với nghề, đề cao sự sáng tạo của người
nghệ sĩ.Ông lên án sâu sắc sự cẩu thả trong nghề văn: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề
gì cũng là sự bất lương rồi, nhưng sự cẩu thả trong văn chương thật là đê tiện” [25,
341]. Sự cẩu thả trong văn chương, viết ra những tác phẩm hời hợt, tầm thường sẽ
giết chết một thế hệ người đọc sách, nếu như khơng cẩn trọng thì văn chương sẽ đầu
độc vào tinh thần một cách ghê gớm. Chính vì thế, Nam Cao có ý thức rất rõ trách
nhiệm của người cầm bút. Với Nam Cao, ông nhấn mạnh lương tâm của người cầm
bút. Từ việc đề cao ý thức sáng tạo của người nghệ sĩ, nhà văn cũng coi trọng văn
học nghệ thuật là một lĩnh vực hoạt động địi hỏi sự tìm tịi sáng tạo khơng ngừng
Nam Cao từng viết: “Văn chương không cần đến người thợ khéo tay làm theo một
vài kiểu mẫu được cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu,biết tìm
tịi khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”[25, 341]. Để có
một tác phẩm có giá trị, người cầm bút phải biết cách đưa hình ảnh của cuộc sống
giản dị chẳng có gì hấp dẫn vào trong tác phẩm của mình sáng tạo ra một thế giới
thu nhỏ mang những ý nghĩa dạy đời cho bạn đọc, tưởng chừng những cái khơng ra
gì.Nhưng nó thật sự tạo nên một giá trị rất lớn, gây sự ám ảnh cho người đọc, cái

quan trọng ở đây không phải là nghĩ như thế nào viết thế ấy mà là phải viết như thế


nào để cho tác phẩm ấy làm bật lên tư tưởng thâm thúy. Chính quan điểm trên,thể
hiện rõ nhất ở các tác phẩm của Nam Cao mang một ý nghĩa lớn.
Có thể nói, quan điểm nghệ thuật của Nam Cao tiến bộ và nhất quán rất cần
cho nền văn học hiện thực giai đoạn này, nó trở thành một kim chỉ nam để Nam Cao
mạnh dạn đi theo cách mạng với tư cách là một nhà văn chiến sĩ.
> Phong cách nghệ thuật

Nam Cao có tài năng đặc biệt trong việc phân tích tâm lý nhân vật.Điều đó thể
hiện qua hứng thú tìm kiếm, khám phá “con người trong con người”, đi tìm bản chất
thực của con người. Hứng thú tìm kiếm này, cũng như đối tượng tìm kiếm cho dù là
người nơng dân bần cùng tha hóa hay người tri thức tiểu tư sản nghèo thì hứng thú
đó vẫn khơng thay đổi, vẫn ngun vẹn và địi hỏi nhà văn phải nổ lực kiếm tìm
những điều quan trọng để tạo ra rồi nuôi dưỡng hứng thú ấy là sống hết mình trung
thực khơng giả dối.
Với phong cách của ơng, Nam Cao đề cao con người sống có tư tưởng: “Sống
là cảm giác cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ,có cảm giác
có tư tưởng mới sinh ra hành động. Bản chính cốt yếu của sự sống chính là tư
tưởng, cảm giác càng mạnh càng linh dịu tư tưởng càng dồi dào, càng sâu sắc thì
sự sống càng cao”[25, 647]. Điều mà Nam Cao nhấn mạnh ở đây khơng phải là khía
cạnh của tâm lý hay thế giới tinh thần mà thực chất ở đây là con người, tư tưởng con
người trí tuệ. Sức mạnh trí tuệ tạo nên phẩm chất và quy định tính cách con người,
có những hành vi ứng xử phù hợp mang tính đạo lý nhân văn cao cả, cho nên các
nhân vật của Nam Cao đều có dáng vẻ riêng, tâm lý riêng tiếp cận xử lý từ góc độ
tâm lý.Tâm lý của nhân vật được tái hiện và phân tích từ các góc độ khác nhau, có
những trạng thái tâm lý cực kì phức tạp.
Từ việc khai thác tâm lý, Nam Cao tạo ra kiểu kết cấu mà ở đó có sự đảo
ngược trình tự khơng gian, thời gian. Ngồi ra ta còn thấyxuất hiện nhiều dạng đối



thoại xen lẫn độc thoại nội tâm. Nhà văn làm thế giới bên trong của nhân vật càng
trở nên phong phú và phức tạp đúng như những gì diễn ra trong cuộc sống. Qua việc
phân tích tâm lý nhân vật, Nam Cao còn đi đến việc xác lập từng giọng điệu riêng,
có tác phẩm nhà văn sử dụng giọng điệu buồn buồn mang màu sắc chua chát mỉa
mai, cịn có tác phẩm nhà văn tỏ ra lạnh lùng tưởng chừng như tàn nhẫn song đầy
tình cảm yêu thương.
1.3.
1.3.1.

Chức năng của văn học
Chức năng nhận thức

Chức năng văn học là khái niệm xác định ý nghĩa và giá trị của văn học đối
với đời sống xã hội.Chính văn học giúp cho con người nhận thức được chính mình
và cuộc sống thơng qua các chức năng nhận thức và chức năng giáo dục.
Chức năng nhận thức đóng một vai trị quan trọng trong tác phẩm văn học. Nó
có thể đem đến cho người đọc một thế giới khách quan về đời sống tinh thần, đời
sống vật chất:“Trong văn chương nghệ thuật nhận thức có nghĩa là biết; ý nghĩa
nhận thức của nghệ thuật là ở chỗ nó giúp người ta biết về cái gì, có thêm những tri
thức gì” [12, 166].“Một điều ta đáng lưu ý của nhận thức văn học là dường như
“biết” không cơ bản mà “hiểu” mới là cái chính” [12, 171].
Mặt khác, văn học cũng giúp cho con người nhận thức về chính mình.Trong
sáng tác, người nghệ sĩ là một quá trình tìm hiểu thế giới xung quanh nhưng đồng
thời cũng là q trình tự quan sát chính bản thân mình. Tác phẩm được xem như là
một tấm gương soi những năng lực và thế giới tinh thần của nhà văn. Sau mỗi lần
sáng tác các nhà văn như hiểu mình hơn. Đối với người đọc, người xem cũng như
thế, nhờ tiếp xúc tác phẩm nghệ thuật người ta mới biết đầy đủ hơn về xã hội, về
người khác, về chính mình.Mục đích của nhận thức là hướng tới khái quát lớn, khám

phá cái bản chất, quy luật của hiện tượng.


1.3.2.

Chức năng giáo dục

Để hiểu rõ chức năng giáo dục, trước hết ta phải hiểu được khái niệm “giáo
dục”, giáo dục có thể hiểu là học tập, nâng cao trình độ văn hóa, hay giáo dục cũng
có thể hiểu là hoạt động rèn luyện, trao dồi những giác quan thẩm mĩ và năng lực
sáng tạo của con người.
Văn học còn có thực hiện chức năng ni dưỡng tâm hồn, trí tuệ tình cảm,
đạo đức cho con người qua một tác phẩm cụ thể mà tư tưởng của nhà văn thể hiện
ngay trong việc nhận thức và phản ánh hiện thực.Tác phẩm văn học là sản phẩm của
nhà văn. Ở đó nhà văn gửi gấm những tư tưởng, ước vọng của họ vào nhằm mục
đích làm rung động lịng người giúp người đọc nhận thức đúng đắn cuộc sống và
khiến họ đi đến suy nghĩ và hành động đúng. Nghệ thuật thời nàocũng vậy - “ln
có xu hướng khuếch đại cái tốt để nó trở nên đẹp đẽ, lỗng lẫy hơn, từ đó lơi cuốn,
hấp dẫn mọi người, làm cho mọi người tin rằng trên đời bao giờ cũng công lý lương
tri, bao giờ cũng có người tốt, khơi dậy ở mỗi người khát vọng vươn tới cái lý tưởng
muốn noi gương, bắt chước làm theo điều thiện, điều hay” [12, 176]. Văn học rèn
luyện cho con người thói quen cảm thụ tinh tế, khả năng nhận ra cái thật, cái giả, cái
thiện, cái ác trong cuộc sống, cải tạo thế giới quan và quan đểm chính trị xã hội.
❖ Tiểu kết

Có thể nói, hồn cảnh lịch sử đã tác động mạnh q trình sáng tác của một
nhà văn có tài năng lớn, đã góp phần cách tân một bước đáng kể nền văn xuôi Việt
Nam,nhất là thể loại truyện ngắn. Những năm cầm bút, Nam Cao đã trăn trở về
tương lai, cuộc sống con người. Nhà văn có ý thức trách nhiệm của người cầm bút,
cócái nhìn sắc sảo đối với những vấn đề của xã hội.Chính vì điều này mà Nam Cao

đã sớm tìm đến cách mạng.
Nam Caođại diện cho văn học hiện thực phê phán trong giai đoạn cuối.Ơng là
người có ý thức tự giác về sáng tạo nghệ thuật. Những quan điểm đó, ơng khơng thể
hiện trên chính luận mà thường gửi gắm gián tiếp qua quá trình sáng tác chứa đựng


chức năng nhận thức và chức năng giáo dục.
Chức năng nhận thức giúp phản ánh hiện thực, đem đến cho người đọc một
thế giới khách quan.Giúp ta có khả năng phân tích, đánh giá nhận ra cái đẹp cái tốt
của con người và xã hội. Nếu như chức năng nhận thức giúp người đọcnhận thức về
thế giới quan,con người, xã hội, thì đến với chức năng giáo dục trong văn học, giúp
người đọc biết nuôi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm và giúp ta thấu chính bản
thân của mình. Phân biệt được cái tốt cái xấu trong xã hội, hướng người đọc đến
tương lai tươi sáng tốt đẹp.
CHƯƠNG 2
CHỨC NĂNG NHẬN THỨC TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO
2.1.

Nhận thức về hoàn cảnh xã hội

2.1.1.

Hiện thực xã hội

Sinh ra và lớn lên tại làng Đại Hoàng, một vùng quê nghèo tăm tối với những
con người xơ xác vì đói, vì bị áp bức bóc lột. Chính nơi đây, ơng nhận ra một hiện
thực xã hội bất cơng. Vì sao những người nông dân lại phải chịu những nỗi cơ cực
đến như thế?Chính là do bản chất xã hội đã gây ra, một xã hội đã sản sinh ra những
bọn cường hào ác bá đã dùng tiền bạc, địa vị ức hiếp người dân thấp cổ bé họng.
Bọn cường hào địa chủ ngày càng sâu sắc.Chẳng hạn, trong tác phẩm Chí PhèoBá

Kiến tiêu biểu cho bọn địa chủ, cường hào ác bá ở nơng thơn Việt Nam.Hắncịn
dùng âm mưu nham hiểm để bóc lột những người bần cùng.NamCao nói về cách
nhìn của Bá Kiến đối với kẻ bần cùng như sau: “Những thằng ấy là những thằng
được việc, khi cần đến thì cho nó dăm hào uống rượu, thì có thể sai nó tác hại bất
cứ anh nào khơng nghe mình. Gặp người bướng bỉnh, đanh thép thì nó đốt nhà hay
cho mấy lát dao; gặp người non mặt thì nó quăng vào chai rượu lậu, hay gây sự rồi
lăn ra kêu làng. Có chúng sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn, nếu khơng thì giữa
đám dân hiền lành và yên phận này, khéo lắm chỉ bóp nặn được vào vụ thế” [25,


×