Tải bản đầy đủ (.docx) (108 trang)

Dạy mở rộng vốn từ trong phân môn luyện từ và câu ở tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.59 KB, 108 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

KHOA NGỮ VĂN

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ CẤP CƠ SỞ

••

DẠY MỞ RỘNG VỐN TỪ TRONG PHÂN MƠN
••
LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở TIỂU HỌC
••
(Một số trường tiểu học ở Thủ Dầu Một)
Mã số:

Chủ nhiệm đề tài

Xác nhận của đơn vị chủ trì đề tài

ThS. Đặng Phan
Quỳnh Dao
Giảng viên khoa
Ngữ văn
1


Bình Dương, tháng 7 năm 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
Đơn vị: Khoa Ngữ văn
THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU


1. Thông tin chung:
- Tên đề tài: Dạy mở rộng vốn từ trong phân môn Luy ện từ và câu ở tiểu
học (M ột số trường tiểu học ở Thủ Dầu Một)
- Mã số:
- Chủ nhiệm : ThS. Đặng Phan Quỳnh Dao
- Đơn vị chủ trì: Khoa Ngữ văn
- Thời gian thực hiện: Từ tháng 12/2016 - 12/2017
2. Mục tiêu:
Nghiên cứu cơ sở lí luận kiểu bài mở rộng vốn từ. Trên cơ sở đó đề
xuất qui trình dạy các kiểu bài mở rộng vốn từ theo chủ đề, theo quan hệ
ngữ nghĩa và theo quan hệ cấu tạo trong chương trình tiểu học.
Đề tài mong muốn góp một phần nhỏ vào việc phát triển môn
Phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học và nâng cao kết quả dạy học
mở rộng vốn từ cho giáo viên tiểu học.
3. Tính mới và sáng tạo:
Dựa vào cơ sở lý luận của một số nhà nghiên cứu đi trước, đề tài đề
xuất cách tổ chức dạy các kiểu bài mở rộng vốn từ trong phân môn Luyện
từ và câu ở tiểu học.

2


Thông qua những đề xuất về cách tổ chức dạy kiểu bài mở rộng
vốn từ của đề tài, giúp giáo viên và học sinh học sinh trong cách dạy và
học kiểu bài này hiệu quả hơn.
4. Kết quả nghiên cứu:
Biện pháp tổ chức dạy kiểu bài mở rộng vốn từ mà chúng tôi đề
cập trong đề tài được xây dựng phù hợp với quan điểm dạy học theo
hướng giao tiếp, theo những định hướng đổi mới của chương trình và sách
giáo khoa Tiếng Việt tiểu học sau năm 2000. Bên cạnh đó, như đã nói ở

trên, biện pháp được xây dựng phù hợp với tình hình và điều kiện dạy học
hiện tại, phù hợp với chương trình và sách giáo khoa hiện hành, có thể
ứng dụng trong dạy học tiếng Việt ở tiểu học hiện nay. Như vậy, qua quá
trình thực nghiệm biện pháp dạy kiểu bài mở rộng vốn từ trong chương
trình tiểu học, chúng tơi nghĩ rằng những đóng góp mới của đề tài có thể
ứng dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên sư phạm tiểu học ở các
trường Cao đẳng, Đại học Sư phạm và giáo viên dạy tiếng Việt ở các
trường tiểu học.
5. Sản phẩm:
Những đóng góp mới của đề tài có thể ứng dụng làm tài liệu tham
khảo cho sinh viên khoa sư phạm tiểu học ở các trường Cao đẳng, Đại học
Sư phạm và giáo viên dạy Tiếng Việt ở các trường tiểu học
6. Hiệu quả, phương thức chuyển giao kết quả nghiên cứu và khả
năng áp dụng:
Ngày 17 tháng 7 năm 2018
Đơn vị chủ trì

Chủ nhiệm đề tài

3


Đặng Phan Quỳ nh
Dao

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN

MỤC LỤC
••
trang


4


PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ xưa đến nay, các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ học đều khẳng định từ là
đơn vị cơ bản, là đơn vị trung tâm của ngơn ngữ.
Trong chương trình tiểu học, Luyện từ và câu là phân mơn chiếm vị trí quan
trọng với số tiết ngang bằng với các phân môn khác. Với tính chất là mơn học cơng
cụ, phân mơn Luyện từ và câu không những trang bị cho học sinh hệ thống từ vựng
tiếng Việt mà còn về qui tắc sử dụng tiếng Việt. Đúng như cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã nói “trong ngơn ngữ từ là cái quan trọng nhất, rồi đến câu, đến đoạn văn
sau mới đến văn, cho nên dạy từ là rất cần thiết, phải hiểu tất cả ý nghĩa của từ, ý
nghĩa sâu xa, ý nghĩa phong phú, phải hiểu tất cả mọi cách dùng”[12].
“Luyện từ và câu” là một trong những “phân môn” được bố trí dạy ở mơn
Tiếng Việt tiểu học. Nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy từ là giúp học sinh phong phú
hóa vốn từ, giúp các em nắm vững tiếng Việt văn hóa, đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của học tập, giao tiếp trong nhà trường và ngoài xã hội. Trong ba nhiệm vụ
cơ bản trên của phân môn Luyện từ và câu, nhiệm vụ phong phú hóa vốn từ, phát
triển, mở rộng vốn từ cho học sinh được coi là trọng tâm. Bởi vì, từ ngữ được cung
cấp trong phân mơn Luyện từ và câu nói riêng, mơn tiếng Việt nói chung chủ yếu
giúp các em hiểu nội dung các phát ngôn nghe - đọc và sử dụng trong thực tiễn nói viết. Đây là mục tiêu cần đạt tới của môn Luyện từ và câu ở trường tiểu học.
Từ ngữ là một trong số các đơn vị cơ bản của ngơn ngữ. Nó ở vào vị trí trung
tâm của hệ thống ngơn ngữ. Nó là cơ sở để con người có thể tiến hành hoạt động
nhận thức và tạo ra mọi sản phẩm ngôn ngữ phục vụ cho nhu cầu giao tiếp. Hoạt
động nhận thức và giao tiếp của con người chính bắt đầu từ đơn vị cơ sở là “Từ”.


Vì vậy, cung cấp và phát triển vốn từ cho học sinh là việc làm rất quan trọng. Khơng

có vốn từ đầy đủ thì khơng thể tiến hành giao tiếp một cách hiệu quả được.
Đặc biệt phát triển vốn từ cho học sinh sẽ giúp học sinh nắm vững tiếng mẹ
đẻ, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh phát triển một cách tồn diện. Vì vậy, vai trị
mở rộng vốn từ cho học sinh tiểu học là việc làm rất quan trọng nhưng tìm hiểu thực
trạng dạy học Luyện từ và câu ở tiểu học hiện nay, chúng tôi nhận thấy bên cạnh
một số mặt thành cơng cịn có vài hạn chế; kết quả, hiệu quả dạy - học vẫn còn bất
cập so với yêu cầu đặt ra. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là giáo
viên chưa (hoặc không chú ý) tới một số đặc trưng riêng của phân mơn. Giáo viên
cịn lúng túng trong việc tổ chức một tiết mở rộng vốn từ sao cho đúng yêu cầu, đặc
trưng của phân môn và đạt hiệu quả dạy - học cao. Cách thức và phương pháp
hướng dẫn học sinh mở rộng và phát triển vốn từ cịn gặp nhiều khó khăn. Vốn từ
của giáo viên chưa phong phú, vốn từ của học sinh còn hạn hẹp, nhiều từ chưa trở
thành vốn từ tích cực trong hoạt động tư duy và giao tiếp.
Về phía học sinh, qua các bài học Luyện từ và câu, các em được trang bị một
vốn từ ngày càng phong phú hơn nhưng hiện tượng học sinh chưa hiểu đầy đủ về từ,
đồng thời sai, khơng phù hợp với ngữ cảnh, cịn nhiều từ của các em chưa trở thành
vốn từ tích cực trong hoạt động tư duy và giao tiếp. Nhìn chung, hiệu quả của giờ
học chưa đạt yêu cầu mong muốn.
Từ những lí do trên, chúng tơi chọn đề tài “Dạy mở rộng vốn từ trong phân
môn Luyện từ và câu ở tiểu học” để nghiên cứu. Đề tài này chúng tơi nghiên cứu về
qui trình dạy các kiểu bài mở rộng vốn từ cho học sinh tiểu học, ở chừng mực nào
đó, kết quả sẽ có tác dụng thiết thực trong việc giúp sinh viên và giáo viên tiểu học
nâng cao hiệu quả của việc dạy - học mở rộng vốn từ nói riêng và phương pháp dạy
học Tiếng Việt nói chung.


II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam vấn đề dạy từ ngữ cho học sinh bản ngữ được giới nghiên cứu
quan tâm khá muộn. Nguyễn Huệ Chi và Lê Thước là hai tác giả đầu tiên quan tâm
đến vấn đề giáo học pháp tiếng Việt. Tuy vậy, hai tác giả này chủ yếu bàn về phương

pháp giảng dạy Ngữ pháp tiếng Việt, cịn dạy từ ngữ chưa có tác giả nào quan tâm
đến. Mãi đến năm 1954 về phương pháp dạy học tiếng Việt nói chung, phương pháp
dạy học từ ngữ nói riêng đã có một số người quan tâm nhưng cũng chỉ dừng lại ở
mức trao đổi, sáng kiến kinh nghiệm trong dạy học. Việc nghiên cứu phương pháp
dạy học từ ngữ vẫn còn tản mạn. Phải đến năm 70, mới xuất hiện một số bài báo bàn
về dạy từ ngữ, nhưng chủ yếu nói về dạy từ trong bài tập đọc, giảng văn, dạy từ ngữ
với tư cách là phương tiện nghệ thuật. Đó là các bài “Một số suy nghĩ xung quanh
việc dạy từ ngữ ở trường phổ thông” của Hồ Lê [19, tr.7-11]. “Một số kinh nghiệm
bước đầu về dạy từ” của Đinh Phan Cảnh [7, tr.11-14]. Mãi đến năm 1980, trong
chương trình mơn Tiếng Việt Cải cách giáo dục ở Tiểu học, THCS lần đầu tiên từ
ngữ được tách thành “Phân mơn” độc lập, có tiết dạy riêng, có vị trí ngang bằng với
mơn Ngữ pháp, nhiều người trong giới chuyên môn quan tâm nhiều hơn. Sau đây
chúng tôi xin điểm qua một số công trình tiêu biểu:
Về vấn đề dạy nghĩa của từ cho học sinh trong cuốn “Dạy từ ngữ cho học sinh
cấp I phổ thông” của Trịnh Mạnh. Trong bài nghiên cứu của mình ơng đề cập đến 3
nhiệm vụ cơ bản trong việc dạy từ ngữ tiếng mẹ đẻ ở cấp I, phải thực hiện, đó là:
- Làm chính xác hóa vốn từ của học sinh.
- Làm phong phú vốn từ của học sinh.
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng từ của học sinh[21].
Tác giả Lê Cận trong bài viết “Những điểm mới làm cơ sở cho việc dạy và
học môn Tiếng Việt ở trường THCS”[8]. Ơng có bổ sung thêm nhiệm vụ thứ 4 giúp
học sinh chuẩn mực hóa vốn từ, văn hóa vốn từ, làm trong sáng, làm đẹp vốn từ của


học sinh, bởi vì như chúng ta biết, vốn từ của các em một phần được hình thành,
được tích lũy một cách tự nhiên, vô thức nên vốn từ của các em có những từ ngữ
khơng phù hợp với chuẩn mực ngơn ngữ, khiến lời nói học sinh thiếu trong sáng,
thiếu thẩm mĩ.
Đề cập vấn đề dạy từ ngữ cho học sinh ở trường phổ thơng nói chung, dạy mở
rộng vốn từ nói riêng. Phải kể tới cuốn “Giảng dạy từ ngữ ở trường phổ thông” của

Phan Thiều, Nguyễn Quốc Túy, Nguyễn Thanh Tùng [33]. Trong cuốn sách này, các
tác giả đã đề cập đến vấn đề cung cấp vốn từ cho học sinh với hai nhiệm vụ chính
cần làm: (1) lựa chọn và phân bố những từ cần cung cấp; (2) hướng dẫn học sinh
hiểu ý nghĩa, hiểu giá trị những từ ấy.
Bàn về vấn đề vốn từ và cung cấp vốn từ cho học sinh tiểu học có các bài
báo: “Về cung cấp vốn từ cho học sinh cấp I” của Nguyễn Nhã Bản [5. Tr20-21],
“Tìm hiểu vốn từ của học sinh tiểu học” của Lê Phương Nga [22. Tr 24-25]. Các bài
báo này giúp chúng tơi hình dung rõ hơn về một số đặc điểm của vốn từ ở học sinh,
đặc biệt là học sinh tiểu học, làm cơ sở cho việc xây dựng phương pháp dạy mở
rộng vốn từ cho học sinh tiểu học.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học tiếng Việt tập 1”, tác giả Lê A, Thành Thị
Uyên Mỹ, Lê Phương Nga, Nguyễn trí, Cao Đức Tiến đã nêu cấu tạo, cách thức thực
hiện từng bài “Lý thuyết từ ngữ” và ‘thực hành từ ngữ” một cách cụ thể, thiết thực.
Trong phần nội dung dạy sử dụng từ. Giáo trình nêu: “Nhiệm vụ cơ bản của dạy từ
ngữ là chuyển vốn từ tiêu cực của học sinh thành vốn từ tích cực. Để thực hiện
nhiệm vụ này cần có bài tập tích cực hóa vốn từ”[1.tr26]. Đây cũng chính là đích
cần đạt của việc dạy từ ngữ ở nhà trường tiểu học.
Các bài báo “Về hệ phương pháp dạy nghĩa của từ cho học sinh trung học cơ
sở” của Đức Nguyễn [24], “Phương pháp giải thích nghĩa và việc đánh giá học sinh
nắm nghĩa từ” của Nguyễn Quanh Ninh[27]... các bài viết này phân tích khá kĩ các
phương diện của việc dạy nghĩa từ cho học sinh, như: nghĩa của từ; chọn từ để dạy


nghĩa; các phương pháp dạy nghĩa từ, việc đánh giá học sinh nắm nghĩa từ.
Phan Thiều, Lê Hữu Tỉnh “Dạy học từ ngữ ở tiểu học” [35], ngoài nội dung
khái quát về dạy từ ngữ ở tiểu học, tác giả còn thống kê, miêu tả khá đầy đủ hệ
thống bài tập thực hành từ ngữ và nêu cách thức tiến hành cụ thể cho mỗi dạng bài.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học” của Lê Phương
Nga cũng đề xuất một số dạng bài tập từ ngữ cho học sinh tiểu học và nêu những
điểm cần lưu ý về cách làm các dạng bài tập đó[23].

Trong cuốn “Luyện từ và câu lớp 3”, tác giả Đặng Mạnh Thường, Nguyễn
Thị Lanh đề cập đến cách giải bài tập Luyện từ và câu. Các bài tập trong sách giáo
khoa được cuốn sách hướng dẫn cách giải tương đối kỹ càng, bài bản. Hệ thống bài
tập bổ sung của cuốn sách này cũng phù hợp với nội dung và trình độ của học sinh.
Tác giả Trần Thị Lan (2012), trong bài viết “Dạy mở rộng vốn từ lớp 5 bằng
cách tích hợp” , tạp chí khoa học ĐHSP TPHCM số 39 [18] cũng nêu lên nét nổi bậc
của tính tích hợp chủ đề phân môn Luyện từ và câu với các phân mơn khác trong
sách giáo khoa, từ đó học sinh sẽ tìm tịi mở rộng và làm giàu vốn từ theo đề tài ở
mỗi chủ điểm. Ngoài ra, cuốn “Những điểm mới về nội dung và phương pháp dạy
học ở tiểu học” [40] của Nguyễn Trí, Trần Mạnh Hưởng, Hoàng Văn Thung với nội
dung “Những điểm thay đổi trong việc dạy các phân môn từ ngữ, ngữ pháp” cũng
nêu lên một số điểm cần lưu ý khi dạy từ ngữ: Giáo viên cần dành thời gian thỏa
đáng cho học sinh được luyện tập thực hành và hướng dẫn cho các em cách thức
làm bài tập.
Trong cuốn “Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu ngôn ngữ học”,tác giả
I.R. Galperin đã bàn về ngữ pháp văn bản. trình bày một cách hệ thống văn bản trên
tư liệu tiếng Đức. Chính vì vậy mà cần phải kết hợp việc xem xét vấn đề ngữ pháp
thuần túy với việc trình bày những khái niệm cơ bản của lí thuyết văn bản đại
cương.


Trên đây là những cơng trình viết về dạy học từ ngữ ở tiểu học. Các cơng
trình đó tuy chưa đề cập cụ thể đến vấn đề đề tài đề cập đến nhưng người nghiên
cứu tiếp thu và dựa trên cơ sở đó để xây dựng cách dạy kiểu bài mở rộng vốn từ cho
học sinh tiểu học.
III.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là kiểu bài Mở rộng vốn từ (mở rộng vốn từ
theo chủ đề, mở rộng vốn từ theo ngữ nghĩa và mở rộng vốn từ theo đặc điểm cấu
tạo) được dạy trong phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học.
2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Sách giáo khoa Tiếng Việt ở tiểu học
- Phạm vi khảo sát:
+ Trường tiểu học Chánh Nghĩa
+ Trường tiểu học Nguyễn Trãi
+ Trường tiểu học Lai Hưng A
IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để triển khai đề tài này chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như sau:
1. Phương pháp khảo sát
Chúng tôi tiến hành phương pháp này nhằm khảo sát thực trạng dạy và học
của giáo viên và học sinh khi tiến hành dạy - học kiểu bài mở rộng vốn từ cho học
sinh tiểu học. Qua đó đánh giá phương pháp giảng dạy của giáo viên cũng như kết
quả của học sinh qua thực tế dạy và học. Quá trình khảo sát thực trạng giúp chúng
tơi rút ra được những kết luận cần thiết, tìm ra phương pháp phù hợp với nội dung
dạy học kiểu bài mở rộng vốn từ.


2. Phương pháp phân tích
Phương pháp này nhằm xem xét và lí giải các vấn đề có tính chất lí luận và
thực tiễn. Phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong việc phân tích những cơ sở
lí luận và thực tiễn của kiểu bài mở rộng vốn từ cho học sinh tiểu học.
3. Phương pháp thống kê - phân loại
Chúng tôi xử lý số liệu sau khi điều tra, khảo sát để rút ra những kết luận về
kết quả dạy và học mở rộng vốn từ của giáo viên và học sinh.
4. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp quan trọng nhất trong quá trình

nghiên cứu. Phương pháp này chúng tơi sử dụng sau khi tìm ra hướng tổ chức giảng
dạy và các biện pháp dạy kiểu bài mở rộng vốn từ. Phương pháp này nhằm xem xét,
xác nhận tính đúng đắn, hợp lý và tính khả thi của hình thức tổ chức dạy bài mở
rộng vốn từ mà đề tài đưa ra.
Các thực nghiệm cơ bản được sử dụng trong đề tài là:
Thực nghiệm thăm dò: Nhằm thăm dò khả năng thực hiện phương pháp mà
đề tài đưa ra.
Thực nghiệm kiểm tra, đánh giá: Nhằm kiểm tra đánh giá việc ứng dụng, vận
dụng phương pháp dạy mở rộng vốn từ cho học sinh tiểu học mà đề tài đưa ra vào
các tiết dạy, bài dạy cụ thể ở trường tiểu học.
V. ĐÓNG GÓP ĐỀ TÀI
Xây dựng cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của kiểu bài mở rộng vốn từ. Đó là kết
quả của sự vận dụng lí luận ngơn ngữ, lí luận dạy học tiếng mẹ đẻ... Đó cũng là kết
quả của sự khảo sát thực tiễn dạy - học môn Luyện từ và câu ở tiểu học hiện nay.
Tổng hợp hệ thống bài tập mở rộng vốn từ với sự phân loại có tầng bậc rõ


ràng.
Đưa ra qui trình tổ chức dạy kiểu bài mở rộng vốn từ cho học sinh tiểu học và
hướng vận dụng cho từng kiểu bài mở rộng vốn từ.
Đề tài mong muốn góp một phần nhỏ vào việc phát triển mơn Luyện từ và
câu và góp phần nâng cao kết quả dạy mở rộng vốn từ của giáo viên tiểu học.
VI.

KẾT CẤU ĐỀ TÀI

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, đề tài gồm 3
chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn về phương pháp dạy Mở rộng vốn từ
Chương 2. Qui trình dạy các kiểu bài Mở rộng vốn từ cho học sinh tiểu học.

Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
DẠY MỞ RỘNG VỐN TỪ
1. Cơ sở lí luận
Bất cứ một bộ mơn nào, muốn được công nhận là một môn khoa học phải xây
dựng cho mình một cơ sở lí thuyết chắc chắn làm tiền đề khoa học. Phương pháp
dạy học tiếng Việt là một khoa học. Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở lí thuyết là tất
yếu, quyết định tư cách của bộ môn.
Muốn đưa ra nội dung phương pháp dạy học mở rộng vốn từ trong phân môn
Luyện từ và câu, chúng ta cần phải dựa trên những tiền đề lí thuyết làm cơ sở khoa
học như: Giáo dục học, tâm lý học, ngôn ngữ học, tâm lý ngôn ngữ học... Các ngành
khoa học đều trực tiếp hay gián tiếp làm cơ sở nghiên cứu bộ môn này. Trong đề tài
này, chúng tôi chỉ đề cập đến những vấn đề lý thuyết có liên quan trực tiếp đến việc
dạy mở rộng vốn từ. Đó là một số vấn đề về tiếng Việt và một số vấn đề lí thuyết về


phương pháp dạy - học tiếng Việt.
1.1Một số vấn đề về từ và vốn từ
1.1.1.

Khái niệm về từ tiếng Việt

Có nhiều định nghĩa về từ tiếng Việt nhưng có thể hiểu từ tiếng Việt như sau:
Từ là đơn vị sẵn có trong ngơn ngữ. Từ là đơn vị nhỏ nhất, cấu tạo ổn định, mang
nghĩa hoàn chỉnh, được dùng để cấu thành nên câu. Từ có thể làm tên gọi của sự vật
(danh từ), chỉ hoạt động (động từ), trạng thái, tính chất (tính từ).Từ là cơng cụ biểu
thị khái niệm của con người đối với hiện thực.
Từ là một tín hiệu ngơn ngữ bao gồm hai thành phần âm thanh và ý nghĩa.
Hai thành phần này có liên quan mật thiết và hỗ trợ cho nhau để biểu hiện ý nghĩa

của con người.
Âm thanh mang tính vật chất và có cấu tạo vật lý phức tạp. Đơn vị nhỏ nhất
của âm thanh là âm vị. Âm thanh có liên quan mật thiết với ý nghĩa của từ, thể hiện
mối quan hệ của từ với các sự vật, hiện tượng. Từ không chỉ biểu thị các sự vật hiện
tượng riêng lẻ, mà biểu thị cả một nhóm sự vật, hiện tượng tập hợp lại theo một dấu
hiệu nhất định. Chính vì vậy từ có tính khái qt.
Ý nghĩa của từ chỉ thể hiện khi sử dụng các từ trong lời nói, nó có tính ổn
định, vì bản thân mối quan hệ của từ với các sự vật, hiện tượng có thể thay đổi tùy
theo từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Như vậy, từ là cơ sở hay vật liệu cơ bản để xây dựng ngơn ngữ, mỗi con
người có được một ngơn ngữ nào đó chính là ở họ tập hợp được một vốn từ vựng
của ngơn ngữ đó.
Những điều trình bày trên về từ, là cơ sở lý thuyết quan trọng giúp ta hiểu sâu
sắc nội dung các bài mở rộng vốn từ trong sách giáo khoa. Thiếu cơ sở đó chúng ta
khó có thể tổ chức cho học sinh phát huy khả năng mở rộng vốn từ, trau dồi bổ sung
thêm từ ngữ mới vào vốn từ bản thân. Bởi vì có nắm được khái niệm, bản chất của
từ thì mới mở rộng và phát triển từ, mới sử dụng từ trong giao tiếp đạt hiệu quả.


1.1.2.

Nghĩa và các thành phần nghĩa của từ

a. Nghĩa của từ
Ý nghĩa là cái quyết định, lí do tồn tại của ngôn ngữ mà không một đối tượng
ngôn ngữ nào của ngôn ngữ học lại không liên hệ với ý nghĩa. Khơng có một sự
nghiên cứu ngơn ngữ học nào tiến hành mà không đụng chạm ý nghĩa. Ý nghĩa là tờ
“chứng chỉ” cho các sự kiện ngôn ngữ[10].
Như vậy, có thể hiểu về ý nghĩa của từ như sau: Nghĩa của từ là nội dung
tinh thần mà từ biểu hiện, nó được hình thành do sự kết hợp và tác động của nhiều

nhân tố. Trong số đó có những nhân tố nằm ngồi ngơn ngữ và những nhân tố nằm
trong ngơn ngữ. Nhân tố ngồi ngơn ngữ như: sự vật, hiện tượng trong thực tế khách
quan, tư duy và người sử dụng. Nhân tố trong ngôn ngữ như: chức năng tín hiệu
học, hệ thống (cấu trúc) của ngơn ngữ.
Học sinh khi có vốn từ nhất định, muốn sử dụng được vốn từ trong hoạt động
giao tiếp, học sinh phải hiểu, phải nắm chắc được ý nghĩa của từ. Có thể nói, việc
nắm, hiểu nghĩa của từ là thước đo kĩ năng sử dụng từ ngữ của học sinh. Vậy, quá
trình nắm nghĩa từ của học sinh diễn ra như thế nào? Q trình đó bị chi phối bởi
những nhân tố nào?
Quan sát việc tiếp nhận từ nói chung, nghĩa từ nói riêng của học sinh cho
thấy q trình nắm nghĩa từ của học sinh diễn ra qua việc tiếp xúc với hiện thực
khách quan tồn tại xung quanh các em. Q trình đó có liên quan đến các nhân tố
như đối tượng giao tiếp, nội dung giao tiếp, nhân vật tham gia giao tiếp và ngữ cảnh
cụ thể mà từ xuất hiện.
Từ vấn đề trên, khi dạy nghĩa từ cho học sinh, giáo viên cần gắn với hoạt
động của từ (những từ đứng trước và sau) và đưa từ vào trong ngôn bản. Bởi trong
giao tiếp nghĩa của từ khơng đơn thuần chỉ là nghĩa khái qt mà cịn gắn với tâm lí
người sử dụng.
b. Các thành phần nghĩa của từ
Tùy theo các chức năng mà từ chuyên đảm nhiệm, trong ý nghĩa của từ có


những thành phần ý nghĩa cơ bản sau đây (những thành phần ý nghĩa này được Đỗ
Hữu Châu phân biệt rất rõ)
- Ý nghĩa biểu vật tương ứng với chức năng biểu vật.
- Ý nghĩa biểu niệm tương ứng với chức năng biểu niệm.
- Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái.
Chúng ta sẽ tìm hiểu cụ thể từng thành phần nghĩa sau:
* Nghĩa biểu vật:
“Ý nghĩa biểu vật là sự phản ánh sự vật, hiện tượng ... trong thực tế vào ngôn

ngữ”[10]
Ý nghĩa biểu vật của từ là nghĩa tương ứng với sự vật hiện tượng, trạng thái,
tính chất được từ gọi tên. Ý nghĩa biểu vật qui định phạm vi sự vật mà từ dùng để
biểu hiện. Có những từ có ý nghĩa biểu vật hẹp, chỉ ứng với một sự vật hiện tượng
duy nhất trong thực tế, song có những từ có ý nghĩa biểu vật lại có tính chất khái
qt lớn bao hàm một phạm vi sự vật to lớn. Có từ có nhiều nghĩa biểu vật, tức là từ
đó ứng với nhiều loại sự vật trong hiện thực.
Nghĩa biểu vật là một thành phần nghĩa giúp ta hiểu từ một cách chính xác,
song ta cũng khơng nên hiểu nó một cách đơn giản. Không phải cứ nắm được sự vật
hiện tượng là nắm được nghĩa. Tuy nó bắt nguồn từ hiện thực hiện khách quan, phản
ánh hiện thực nhưng khơng hồn tồn trùng với sự vật hiện tượng. Bởi ý nghĩa biểu
vật còn chịu sự tác động qua lại của các từ khác, chịu sự khái quát và tác động của
các quy tắc cấu tạo từ, cho nên ý nghĩa biểu vật trở thành một sự kiện ngơn ngữ chứ
khơng cịn là sự kiện ngồi ngơn ngữ.
Tóm lại: Muốn hiểu được ý nghĩa của từ, thì cần nắm ý nghĩa biểu vật của từ
là điều cần thiết. Ý nghĩa biểu vật xuất phát từ sự phản ánh sự vật, hiện tượng trong
thực tế khách quan vào ngôn ngữ, nên sự vật hiện tượng là cơ sở, nguồn gốc của ý
nghĩa biểu vật.
* Ý nghĩa biểu niệm:
Sự vật hiện tượng trong thực tế khách quan được phản ánh vào ngôn ngữ


thành ý nghĩa biểu vật và từ có ý nghĩa biểu vật sẽ có ý nghĩa biểu niệm tương ứng.
Ý nghĩa biểu niệm sẽ là những hiểu biết mà từ gợi ra về các sự vật, hiện tượng, hoạt
động, trạng thái, tính chất. Những hiểu biết này bao gồm những hiểu biết về thuộc
tính, đối tượng, tổng hợp tất cả thuộc tính đó tạo thành nội dung khái niệm. Mỗi
thuộc tính đó được phản ánh trong nghĩa biểu niệm của từ thành một nét nghĩa. Và
mỗi nét nghĩa như vậy có thể có mặt trong ý nghĩa biểu niệm của từ.
Tóm lại: Nghĩa biểu niệm của từ “là tập hợp của một số nét nghĩa chung và riêng,
khái quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét nghĩa có

những quan hệ nhất định. Tập hợp này ứng với một hoặc một số ý nghĩa biểu vật
của từ”. [10, tr.118]
*Ý nghĩa biểu thái:
Ý nghĩa biểu thái (còn gọi là ý nghĩa biểu cảm) là nhân tố đánh giá to, nhỏ,
mạnh, yếu; nhân tố cảm xúc dễ chịu, sợ hải, khó chịu... hay nhân tố thái độ trọng,
khinh, yêu, ghét mà từ gợi ra cho người nói, người nghe.
Sự vật hiện tượng được biểu thị trong ngôn ngữ đều là những sự vật hiện
tượng đã được nhận thức, được thể nghiệm bởi con người. Do đó cùng với tên gọi,
con người thường gởi kèm những cách đánh giá của mình.
Dạy từ khơng chỉ dạy ý nghĩa định danh (gọi tên), mà phải vươn tới dạy cho
học sinh nắm những tri thức được nhận thức qua các khái niệm, lồng vào đó cịn có
những sắc thái tình cảm khác. Bởi vì, trong giao tiếp, nghĩa của từ không đơn thuần
chỉ là nghĩa khái quát (nghĩa được ghi trong từ điển) mà nó cịn gắn với tâm lí của
người sử dụng. Đây là cơ sở lý thuyết quan trọng cho phương pháp dạy mở rộng vốn
từ.
Tóm lại: Ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa biểu niệm và ý nghĩa biểu thái là các loại
nghĩa tạo nên ý nghĩa từ vựng của từ. Vì từ là một thể thống nhất cho nên các thành
phần ý nghĩa trên là những phương diện khác nhau của thể thống nhất đó. Sự hiểu
biết đầy đủ về ý nghĩa của từ phải là sự hiểu biết thấu đáo từng mặt nội dung nhưng
cũng phải là sự hiểu biết tổng quát về mối liên hệ qui định lẫn nhau giữa chúng.


1.1.3

Một số vấn đề về vốn từ
1.1.3.
1 Khái niệm về vốn từ

Vốn từ là khối từ ngữ cụ thể, hoàn chỉnh (có đủ hình thức âm, chữ và nội
dung ngữ nghĩa) mà mỗi cá nhân tích lũy được trong kí ức của mình. Vốn từ ở từng

người cụ thể, khơng ai giống ai. Vốn nhiều hay ít, đa dạng hay đơn giản tùy thuộc
kinh nghiệm sống, trình độ học vấn, ở sự tiếp xúc giao lưu văn hóa ngơn ngữ của
từng người.
Mỗi một ngơn ngữ phát triển có một khối lượng từ vựng hết sức lớn và phong
phú, có thể lên tới hàng vạn triệu từ. Vốn từ vựng của một ngơn ngữ bao gồm nhiều
lớp từ, nhiều nhóm từ khơng đồng nhất và có chất lượng khác nhau. Trong vốn từ
vựng của một ngơn ngữ nào đó cũng đều có những từ mới và từ cũ, những từ phổ
biến chung và những từ địa phương, những từ văn hóa, những từ chuyên môn,
những từ vay mượn...
Dựa vào tần số sử dụng từ trong đời sống xã hội, người ta chia vốn từ thành
vốn từ tích cực và vốn từ thụ động. Vốn từ tích cực là những từ được sử dụng hàng
ngày, những từ có tần số sử dụng cao, được con người nắm vững và sử dụng trong
lời nói giao tiếp một cách thành thạo. Cịn vốn từ thụ động là những từ ít sử dụng
hay khơng cịn được sử dụng một cách rộng rãi. Trong quá trình phát triển và hồn
thiện ngơn ngữ, một số từ mới có nghĩa mới được nảy sinh, bên cạnh đó cũng có
một số từ cũ, nghĩa cũ bị đào thải, loại bỏ. Những từ cũ đó đã lỗi thời dần dần bị gạt
ra khỏi vốn từ tích cực, chúng ít được sử dụng trở thành vốn từ thụ động. Còn vốn từ
mới xuất hiện thì chưa thể trở thành vốn từ tích cực. Một trong những nhiệm vụ
chính là nâng cao trình độ văn hóa về mặt ngơn ngữ của con người bằng cách làm
giàu vốn từ tích cực.
1.1.3.2.

Vốn từ của cá nhân

Vốn từ cá nhân là toàn bộ các từ và các đơn vị tương đương từ của ngôn ngữ
được lưu giữ trong trí óc của cá nhân và được cá nhân đó sử dụng trong hoạt động


giao tiếp. Vốn từ này được hình thành theo hai con đường tự nhiên vơ thức và con
đường có ý thức.

Vốn từ của ngôn ngữ và vốn từ của cá nhân sử dụng có quan hệ bao hàm. Cụ
thể, vốn từ của cá nhân được hiểu là bộ phận của vốn từ vựng chung. (Vốn từ của cá
nhân được lưu giữ trong đầu óc một người, cịn vốn từ vựng của ngơn ngữ, theo
cách nói của F.de. Saussure được lưu giữ “trong các bộ óc của một tập thể... những
người cùng một cộng đồng ngơn ngữ”[28, tr37].
Vốn từ được tích lũy trong đầu óc con người khơng phải là một mớ hỗn tạp
mà được tổ chức thành một hệ thống liên tưởng nhất định. Hệ thống liên tưởng là hệ
thống gồm nhiều đơn vị ngơn ngữ có nét chung về hình thức hoặc nội dung, khiến
con người đứng trước một đơn vị nào đó có thể dễ dàng nghĩ đến, liên tưởng đến
những đơn vị khác cùng hệ thống. Có thể nói từ ngữ phải được tồn tại trong đầu óc
con người như một hệ thống thì từ mới được tích lũy nhanh chóng và được sử dụng
một cách dễ dàng.
Vốn từ của mỗi cá nhân có thể có được do q trình tích lũy tự nhiên trong
cuộc sống hàng ngày (giao tiếp với mọi người, đọc sách vở...) từ ngữ tự nhiên nhập
vào, thấm vào người nghe/ đọc lúc nào khơng hay, tức là từ được hình thành bằng
con đường vơ thức và cũng có thể do con người tích lũy một cách có ý thức (học từ
với sự trợ giúp của người hướng dẫn, qua sách vở, tài liệu một cách có kế hoạch, có
hệ thống). Từ ngữ được được thu nạp vào vốn từ của người học một cách có ý thức.
1.1.3.3.

Vốn từ của học sinh tiểu học

Vốn từ của học sinh tiểu học là vốn từ ở độ tuổi từ 6-10. Vốn từ của học sinh
tiểu học là đối tượng nghiên cứu khá phức tạp. Bởi, vốn từ là một hệ thống mở và
luôn luôn biến động, là hiện tượng thuộc phạm trù nhận thức, có phần khơng hiển
minh, khiến cho việc định lượng, định tính là điều không đơn giản.
Vốn từ của học sinh tiểu học có được chủ yếu là do bốn nguồn cung cấp: gia


đình, xã hội, nhà trường và sách báo. Bốn nguồn này là phạm vi giao tiếp hàng ngày

của học sinh tiểu học. Vốn từ này được hình thành theo hai con đường tự nhiên vơ
thức (chủ yếu trong gia đình, ngoài xã hội, qua sách báo tự đọc, qua các phương tiện
nghe - nhìn) và con đường hữu thức, có ý thức (trong nhà trường, chủ yếu qua môn
Tiếng Việt, trọng tâm là phân môn Luyện từ và câu). Như vậy, có hai phạm vi cần
tìm hiểu: thứ nhất các từ ngữ học sinh tiểu học “được học” - chính là tìm hiểu các
nguồn cung cấp vốn từ cho học sinh, và thứ hai, các từ ngữ học sinh tiểu học “học
được” - tức là vốn từ của học sinh, là những từ học sinh hiểu được và sử dụng được
trong thực tiễn giao tiếp.
1.1.3.4 Phát triển vốn từ cho học sinh tiểu học
Phát triển vốn từ nghĩa là trên cơ sở vốn từ đã có, bổ sung thêm những từ
mới, làm cho vốn từ cá nhân thêm phong phú. Bởi vì vốn từ phong phú là điều kiện
thiết yếu để cá nhân có thể tham gia vào hoạt động giao tiếp một cách có hiệu quả.
Việc tổ chức phát triển vốn từ cho học sinh tiểu học được xác lập dựa trên
những cơ sở sau:
- Dựa vào qui luật tiếp nhận từ ngữ của con người nói chung, trẻ em nói
riêng. Sự tích lũy từ là kết quả của một quá trình trẻ bắt chước người lớn dưới áp lực
của nhu cầu giao tiếp xã hội. Việc tiếp nhận từ ở đây bao giờ cũng gắn với nhân tố
hoàn cảnh, ngữ cảnh. Việc tích lũy từ nói trên theo con đường tự nhiên vơ thức,
nhưng có tác dụng làm cơ sở cho việc xây dựng phương pháp phát triển vốn từ cho
học sinh.
- Dựa trên qui luật liên tưởng của con người, dựa trên quan hệ liên tưởng giữa
các từ trong đầu óc con người. Các ý nghĩ, hình ảnh và tư tưởng vẫn kết hợp với
nhau theo cách mà khi cái này xuất hiện thì sẽ làm nảy sinh trong trí óc một cái khác
có quan hệ liên tưởng với nó. Một hình ảnh sẽ có quan hệ liên tưởng với những hình
ảnh tương tự hoặc ngược lại, với những hình ảnh đối lập. Về quan hệ liên tưởng


giữa các từ, F.de.Sausure cũng đã nói rõ: “Một từ nào đó bao giờ cũng có thể gợi lên
tất cả những cái cái gì có thể liên tưởng với nó bằng cách này hay cách
khác”[28,tr.218].

Phát triển vốn từ phải đi đôi với gạt bỏ các từ ngữ không chuẩn mực, khơng
văn hóa khỏi vốn từ của học sinh. Đây là một trong những nhiệm vụ của giảng dạy
Luyện từ và câu trong nhà trường. Nhiệm vụ này xuất phát từ yêu cầu chuẩn mực
hóa, làm trong sáng, làm đẹp vốn từ của học sinh.Vì vậy, trong nhà trường, song
song với việc cung cấp cho học sinh những từ mới của tiếng Việt văn hóa, giúp học
sinh phát triển, mở rộng vốn từ, đồng thời còn giúp học sinh loại bỏ những từ ngữ
khơng văn hóa, khơng chuẩn mực ra khỏi vốn từ tích cực của mình.
1.2Một số vấn đề lí thuyết về phương pháp dạy - học tiếng Việt ở tiểu học
1.2.1.

Khái niệm phương pháp dạy học

Lê A đã khẳng định: “Trong khoa học giáo dục và lí luận dạy học bộ mơn
chưa có một cách định nghĩa và cách giải thích hồn tồn thống nhất về thuật ngữ
phương pháp dạy học” [2,tr.15].
Khi đề cập đến khái niệm phương pháp dạy học, có nhiều quan niệm khác về
phương pháp dạy học, có thể dẫn ra một vài định nghĩa phương pháp dạy học như
sau:
“Phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức hoạt động của giáo viên và của
học sinh trong quá trình dạy học, được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của giáo viên
sự hoạt động nhận thức tích cực, tự giác của học sinh, nhằm thực hiện tốt những
nhiệm vụ dạy học theo hướng mục tiêu” [4, tr.69]
Kai - ro VLA lại quan niệm: “Phương pháp dạy học là cách thức làm việc
giữa thầy giáo và học sinh, nhờ đó mà học sinh nắm vững được kiến thức, kỹ năng
và kỹ xảo, hình thành thế giới quan và phát triển năng lực” [4, tr.69 ]
Hai tác giả: Ki - rin - Xki D.M và PôloxinV.X định nghĩa phương pháp dạy
học ngắn gọn hơn, đơn giản hơn các định nghĩa đã dẫn. Hai tác giả này định nghĩa:


“Phương pháp dạy học là những hình thức kết hợp hoạt động của giáo viên và học

sinh hướng vào việc đạt mục đích nào”[4, tr.69 ]
Như vậy, có thể thấy rằng các định nghĩa dẫn trên dù đứng ở góc độ nào, tuy
có những điểm khác nhau nhưng đều thống nhất ở một điểm: Phương pháp dạy học
là cách thức làm việc giữa thầy và trò, với vai trò chủ đạo của thầy và hoạt động tích
cực, tự giác của trị nhằm hướng vào việc đạt mục đích đó.
1.2.2.

Một số phương pháp dạy học thường được sử dụng và các

hình thức thể hiện của phương pháp
1.2.2.1. Một số phương pháp dạy - học Luyện từ và câu ở tiểu học
a. Phương pháp phân tích ngơn ngữ
Phân tích ngơn ngữ là phương pháp dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học
sinh phát hiện ra các hiện tượng ngôn ngữ nhất định, từ các ngữ liệu để phát hiện ra
những đặc trưng của chúng. Phương pháp phân tích ngơn ngữ được sử dụng trong
tất cả các phân môn của Tiếng Việt ở tiểu học.
Tuỳ thuộc mức độ và mục đích phân tích mà phương pháp phân tích ngơn
ngữ có thể tiến hành theo các mức độ khác nhau như: quan sát ngôn ngữ (là giai
đoạn đầu trong q trình phân tích ngơn ngữ nhằm tìm những điểm giống và khác
nhau, sau đó sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định), phân tích ngữ âm, phân tích
ngữ pháp, phân tích chính tả, phân tích tập viết, phân tích ngơn ngữ các tác phẩm
văn chương...Tất cả các dạng phân tích ngơn ngữ đều là bộ phận cấu thành của
nhiều bài tập khác nhau: bài tập tập đọc, tập viết, chính tả, luyện nói và viết.
b. Phương pháp trò chơi học tập
Phương pháp trò chơi sư phạm trong dạy học Luyện từ và câu, được hiểu là
hình thức học tập Tiếng Việt theo hứng thú vui chơi, dựa trên những bài tập trắc
nghiệm.
Việc giải quyết vấn đề bài tập đặt ra nhằm để HS lĩnh hội, củng cố, vận dụng
kiến thức, kĩ năng sử dụng các cách làm bài hay đã được học, những kinh nghiệm
sống đã được tích lũy vào các bài tập một cách tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo.



Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích đầu tiên là vui chơi
nhưng qua trị chơi, người chơi có thể rèn luyện thể lực, rèn luyện các giác quan, rèn
luyện trí tuệ, tạo cơ hội giao lưu với mọi người.
c. Phương pháp thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là một cách tạo điều kiện cho học sinh luyện tập khả năng
mạnh dạn đưa ra các cách làm; giúp học sinh rèn kĩ năng phân tích bài tập và tìm
câu trả lời đúng; thay đổi vị thế của học sinh trong lớp. Từ vị thế thụ động, tiếp thu
thông tin một chiều trở thành vị thế chủ động tiếp thu thông tin đa chiều. Qua thảo
luận, ngôn ngữ và tư duy của học sinh trở nên linh hoạt hơn.
Phương pháp thảo luận nhóm sẽ giúp học sinh tìm ra câu trả lời tốt nhất, sinh
động nhất thông qua trí tuệ tập thể học sinh bên cạnh được củng cố kiến thức, hứng
thú học tập cũng được tăng cường.
d. Phương pháp rèn luyện theo mẫu
Phương pháp rèn luyện theo mẫu thường được dùng để hướng dẫn học sinh
làm các bài tập về rèn luyện kỹ năng mở rộng vốn từ và cấu tạo câu.
Phương pháp rèn luyện theo mẫu là phương pháp mà thầy giáo chọn giới thiệu
các mẫu hoạt động ngôn ngữ rồi hướng dẫn học sinh phân tích để hiểu và nắm vững
cơ chế của chúng rồi bắt chước mẫu đó một cách sáng tạo vào lời nói của mình.
e. Phương pháp thực hành
Hình thức cốt lõi để thực hiện phương pháp thực hành là ra bài tập và làm bài
tập. Phương pháp luyện tập thực hành giúp cho học sinh nắm vững khái niệm, hiểu
sâu sắc khái niệm hơn.
Ngoài các phương pháp dạy học nêu trên, dạy tiếng Việt ở tiểu học còn sử
dụng các phương pháp khác như phương pháp thuyết trình, phương pháp đàm
thoại...
Tóm lại: khi đề cập đến phương pháp dạy học có nhiều quan niệm và nhiều
phương pháp dạy học khác nhau. Ở cấp tiểu học, có thể sử dụng nhiều phương pháp
dạy - học dể dạy học tiếng Việt, trong đó có một số phương pháp dùng chung cho tất



cả các mơn học nhưng cũng có những phương pháp đặc thù cho bộ mơn Tiếng Việt .
1.2.2.2. Các hình thức thể hiện phương pháp
Phương pháp phải thể hiện thông qua các hình thức của nó. Một hình thức có
thể được dùng cho nhiều phương pháp khác nhau. Một số hình thức thể hiện của
phương pháp thường gặp trong quá trình dạy - học là: Hình thức diễn giảng, hình
thức đàm thoại, hình thức đọc sách giáo khoa và hình thức làm bài tập.
a. Hình thức diễn giảng
Diễn giảng là gọi tên chung cho mọi dạng diễn đạt tương đối tỉ mỉ của giáo
viên trong các giờ học nhằm các mục đích: giải thích tài liệu mới; giải thích những
điều học sinh chưa hiểu; trả lời các câu hỏi của học sinh; bổ sung kiến thức tài liệu;
mở rộng kiến thức.
b. Hình thức đàm thoại
Đàm thoại được bắt đầu từ những câu hỏi có chủ định, xác lập mối quan hệ
giữa tài liệu mới và cũ. Giúp học sinh khôi phục trong trí nhớ những điều đã qn.
Đàm thoại hồn thành với những câu hỏi mà căn cứ vào đó có thể kiểm tra mức độ
thu nhận nội dung kiến thức của học sinh.
Trong Luyện từ và câu, đàm thoại là hình thức quan trọng, ở chỗ nó thể hiện
được tính chất bộ mơn và phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh trong
giờ học. Áp dụng tốt hình thức này sẽ giúp người học khắc sâu kiến thức, nhớ lâu
những điều mà bản thân đã suy nghĩ và chủ động tìm ra.
c. Hình thức làm việc với sách giáo khoa
Sách giáo khoa và các tài liệu giáo khoa là một trong những nguồn cung cấp
tri thức và kĩ năng tiếng Việt cho học sinh.
Trong một tiết học sách giáo khoa và tài liệu giáo khoa được giáo viên sử
dụng để giải thích các kiến thức và làm bài tập mẫu.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1Mục đích khảo sát



Chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng dạy - học mở rộng vốn từ ở trường
tiểu học nhằm ba mục đích cơ bản sau:
- Có số liệu tin cậy về thực trạng dạy - học mở rộng vốn từ ở trường tiểu học.
- Phân tích số liệu, đánh giá tình hình (những ưu điểm và nhược điểm), phát
hiện những nguyên nhân dẫn đến sự lúng túng của giáo viên và học sinh trong quá
trình dạy - học mở rộng vốn từ.
- Có cơ sở và phương pháp cho việc đề xuất những kiến giải nhằm góp phần
giúp việc dạy - học mở rộng vốn từ ở tiểu học đạt kết quả.
2.2Đối tượng khảo sát
- Giáo viên dạy môn Tiếng Việt trực tiếp ở tiểu học.
- Học sinh tiểu học.
- Sách giáo khoa và sách giáo viên Tiếng Việt tiểu học.
2.3Địa bàn và thời gian khảo sát
Địa bàn khảo sát ở 3 trường tiểu học thuộc tỉnh Bình Dương
2.4Nội dung và kết quả khảo sát
Công việc khảo sát được tiến hành như sau:
- Lập phiếu đối với giáo viên và học sinh về việc dạy - học mở rộng vốn từ ở
tiểu học.
- Dự giờ, ghi chép tỉ mỉ, trung thực về dạy - học mở rộng vốn từ ở tiểu học.
- Lập bảng thống kê kết quả.
2.4.1

Khảo sát thực trạng dạy học Mở rộng vốn từ của giáo viên

* Nội dung khảo sát được lập thành 50 phiếu


- 16 phiếu cho giáo viên trường tiểu học Chánh Nghĩa.
- 17 phiếu cho giáo viên trường tiểu học Nguyễn Trãi.

- 17 phiếu cho giáo viên trường tiểu học Lai Hưng A.
Câu 1: Theo Thầy/Cô, dạy mở rộng vốn từ nhằm mục đích gì?
Câu 2: Thầy/Cơ thấy dạy mở rộng vốn từ cho học sinh có cần thiết khơng? Tại sao?
Câu 3: Trong quá trình dạy phần mở rộng vốn từ, đồng chí thường gặp những khó
khăn gì? Tại sao?
a. Về phía bản thân
b. Về phía học sinh
c. Những lí do khác.
Câu 4: Theo Thầy/Cô, phần mở rộng vốn từ được đưa vào sách giáo khoa ở khối
lớp đồng chí dạy có hợp lí khơng? tại sao?
*Kết quả khảo sát
Câu 1: 50/50 Giáo viên trả lời dạy mở rộng vốn từ là cần thiết nhằm mục đích:
- Giúp học sinh nắm thêm các từ mới, còn các từ đã biết được sắp xếp lại, hệ
thống lại.
- Làm phong phú hóa kiến thức về chữ và nghĩa cho học sinh, giúp học sinh
giàu vốn từ khi nói và viết.
- Nâng cao kiến thức cho các em trong phân môn Tiếng Việt.
- Nắm vững ngôn ngữ dân tộc, hiểu ý nghĩa của từ khi sử dụng trong cuộc
sống.
Câu 2: 50/50 trả lời dạy mở rộng vốn từ cho học sinh là cần thiết. Vì:


×