Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Khảo sát hàm lượng estrogen và progesrerone trong phân của cầy vòi hương (paradoxurus hermaphroditus pallas, 1777) trong điều kiện nuôi nhốt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.15 KB, 46 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA KHOA HỌC Tự NHIÊN

kMịDẠl IIQC
7______1

THỦ DÀU MỌT
2009 THU DAU MOT UNIVERSITY

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
••

KHẢO SÁT HÀM LƯỢNG ESTROGEN VÀ PROGESTERONE
TRONG PHÂN CỦA CẦY VÒI HƯƠNG
(Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777)
TRONG ĐIỀU KIỆN NUÔI NHỐT

Mã số:

Chủ nhiệm đề tài: Ths. Nguyễn Thị Thu Hiền

Bình Dương, 12/2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA KHOA HỌC TỰ NHIÊN

-V2 _
||I )/XI HỌC



IỊJỊJTHỦDẦUMỘT
2009 THU DAU MOT UNIVERSITY

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
••

KHẢO SÁT HÀM LƯỢNG ESTROGEN VÀ PROGESTERONE
TRONG PHÂN CỦA CẦY VÒI HƯƠNG
(Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777) TRONG
ĐIỀU KIỆN NUÔI NHỐT

Xác nhận của đơn vị chủ trì đề tài
••
(chữ ký, họ và tên)

Chủ nhiệm đề tài
(chữ ký, họ và tên)


Bình Dương, 12/2018


4

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CP:

Corpus leteum

CTAB:

Cetyltrimethyl ammonium bromide

ECG:

Equine chorionic Gonadotropin

ELISA:

Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay

E2:

Estradiol

FSH:

Follicle-Stimulating Hormone

GnRH:

Gonadotropin-Releasing Hormone

HCG:


Human chorionic Gonadotropin

LH:

Luteinizing Hormone

PMSG:
P4:

Pregnant Mare's Serum Gonadotropin
Progesterone


DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH


6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nỗ lực trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong
ống nghiệm hoặc chuyển phôi) phụ thuộc vào kiến thức về sinh lý sinh sản của một
loài nhất định (Schwarzenberger et al., 1996). Đặc biệt, trong thụ tinh nhân tạo, thời
gian chính xác của việc thụ tinh là yếu tố giới hạn chính, sẽ dễ dàng hơn nếu chu kì
động dục có thể được xác định.
Phân tích hormone steroid của tuyến sinh dục là một yếu tố quan trọng đánh
giá tình trạng sinh lí sinh sản của vật ni. Kích dục tố trong huyết thanh là sự phản
ánh chính xác nhất của hoạt động sinh dục, tuy nhiên các kỹ thuật để thu thập thông
tin này qua huyết thanh có thể ảnh hưởng đến phúc lợi động vật (animal welfare) và
khá tốn kém. Lấy mẫu máu lặp lại nhiều lần gây stress, ảnh hưởng đến vấn đề sức

khỏe của động vật và khó khăn để thực hiện trong thực tế, nhất là động vật hoang dã.
Thậm chí việc lấy mẫu máu lặp lại để đo các steroid có thể khơng thực hiện được ở
các lồi động vật có kích thước nhỏ, lấy mẫu gây can thiệp thậm chí dẫn đến các con
vật bị giết chết (Kumar et al., 2013).
Phương pháp không xâm lấn (non-invasive) dễ thực hiện và cho kết quả chính
xác là lựa chọn thay thế tốt hơn. Mặc dù có thể thu thập mẫu nước tiểu và mẫu phân
để đánh giá tình trạng sinh sản ở động vật, nhưng khó khăn trong việc thu thập nước
tiểu đối với các động vật thả rông đã hạn chế việc sử dụng chúng trong việc điều tra.
Vì vậy, mẫu phân là sự lựa chọn thực tế nhất cho mục đích này. Phương pháp đo hàm
lượng các chất chuyển hóa steroid trong phân để đánh giá trạng thái nội tiết của động
vật đã được đi tiên phong vào cuối những năm 1970 ở chim, đầu những năm 1980 ở
động vật có vú và đã được nghiên cứu trong các thập kỷ qua với số lượng ngày càng
tăng ở nhiều lồi (Palme, 2005). Vấn đề thơng tin khơng rõ ràng về tình trạng sinh sản
của động vật cái đã được giải quyết nhờ phương pháp phân tích hormone steroid phân
để đánh giá các hoạt động nội tiết (Kumar et al., 2013). Đánh giá estrogen trong phân
đã được sử dụng như chỉ số đáng tin cậy ở con vật mang thai ở một số động vật móng
guốc (Amer et al., 2007 ; Macchi et al., 2010; Ncube et al., 2011; Monica và et al.,


7

2014) và một số loài linh trưởng (Shideler et al., 1993a, Shideler et al., 1993b,
Heistermann et al., 1993; Ziegler et al., 1996; Maheshwari, 2010). Chúng cũng được
sử dụng để xác định khoảng thời gian trước khi rụng trứng ở động vật ăn thịt (Putranto
et al., 2006; 2011). Phân tích chất chuyển hóa progesterone trong phân đã được sử
dụng thành cơng để theo dõi chức năng thể vàng và mang thai, hư thai, tính chu kì
động dục và các liệu pháp điều trị trong một danh sách mở rộng của nhiều loài.
Ở các loài động vật hoang dã với cấu trúc dân số hạn chế của chúng, xác định
hormone sinh dục không xâm lấn sẽ là một phương pháp hữu dụng đối với các nhà
khoa học trong đánh giá sự thay đổi nội tiết sinh dục, xác định chu kì buồng trứng

đồng thời tìm hiểu và giám sát động thái sinh dục của chúng để cải thiện khả năng
sinh sản trong điều kiện nuôi. Ở Việt Nam, nhiều trang trại nuôi cầy vịi hương đã
được phát triển thành cơng. Ni cầy hương khơng chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho
nơng dân mà còn giúp giảm bớt săn bắt cầy vòi hương (Đặng Huy Huỳnh et al.,
2010). Kết quả của việc sử dụng gonadotropin trong sinh sản cầy vòi hương trong
điều kiện nuôi đã mang lại kết quả khả quan (Nguyễn Thanh Bình, 2015) và góp
phần bảo tồn đa dạng sinh học. Tuy nhiên, việc thiếu thông tin về sự thay đổi
hormone sinh dục của cầy vòi hương cái dẫn đến những khó khăn trong kiểm tra tình
trạng sinh sản của chúng trong điều kiện nuôi, cũng như tra khảo tài liệu trong
nghiên cứu. Do đó, dữ liệu về hormone sinh dục sẽ là cơ sở để đánh giá tình trạng
sinh sản và góp phần vào cơng nghệ hỗ trợ sinh sản trên cầy vịi hương. Vì vậy, đề tài
“Khảo sát hàm lượng Estrogen và Progesrerone trong phân của cầy vòi hương
(Paradoxurus hermaphroditus Pallas, 1777) trong điều kiện nuôi nhốt” được thực
hiện.
2. Mụ ti u đề tài
- Xác định sự thay đổi của hàm lượng strogen và Progesterone trong phân cầy vịi
hương trong điều kiện ni nhốt.
3
. Đối tượng ph m vi á h tiếp ận nghi n ứu
nnn
Nội tiết sinh dục: stradiol ( 2), Progesterone (P4) trong phân của Cầy vịi hương cái
trong điều kiện ni nhốt.


8

3.1.
-

mnn


Cầy vịi hương ni tại trang trại ở xã Xn Đường, huyện C ẩm Mỹ, tỉnh
Đồng Nai và cơ sở nuôi tại phường Phú Tân, thành phố Thủ D ầu Một, tỉnh B
ình Dương.

-

Thời gian t 01 2017-12/2018.
pnnn

-Tiếp cận l thuyết: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến cầy vòi hương
(Paradoxurus hermaphroditus) và xác định hormone sinh dục.
-Tiếp cận thực tế: Nghiên cứu trực tiếp trên khách thể cầy vịi hương tại cơ sở chăn
ni.
ố ụ đề tài
Mở đầu: 3 trang
Chương 1 - Tổng quan tài liệu: 12 trang
Chương 2 - Vật liệu và phương pháp nghiên cứu: 4 trang
Chương 3 - Kết quả và thảo luận: 15 trang
Kết luận và khuyến nghị: 1 trang
Tài liệu tham khảo


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1.

Nghiên cứu ngoài nước

1.1.1.


Nghiên c u về cầy ò ơn

Các đề tài nghiên cứu về Cầy vòi hương trên thế giới chủ yếu công bố các đặc
điểm sinh học của loài này trong điều kiện tự nhiên.
Cầy vòi hương (Paradoxurus hermaphroditus) đã được nghiên cứu ở Vườn
Quốc gia Chitwan Royal- Nepal, để xác định hoạt động hàng ngày và biến đổi dinh
dưỡng theo mùa liên quan đến thực ph m đến sẵn có. Năm cá thể trưởng thành (hai cái
và ba đực) được bắt và gắn với chip để theo dõi. Mỗi con thú đã được theo dõi trong
12 tháng liên tiếp cả đêm lẫn ngày. Kết quả nghiên cứu cho thấy lồi thú này hoạt
động tích cực hơn vào những đêm tối nhiều hơn ban ngày, vào đêm trăng sáng và
thường nghỉ ngơi trong ngày trên những ngọn cây an toàn. Hạt của các loại trái cây đã
được tìm thấy trong 84,5% của 193 dạ dày của cầy vòi hương đã được thu thập. Vào
tháng tư, khi quả chín là khơng có sẵn, một sự thay đổi trong chế độ ăn uống t trái cây
sang động vật có xương sống và khơng xương sống xảy ra. Cầy vòi hương cũng được
cho là ăn mật hoa của Gạo và nhựa t thân của Vallaris solanacea. Ăn thịt và hoạt động
chủ yếu về đêm cho thấy cầy vòi hương hương rất dễ bị ăn thịt bởi động vật ăn thịt lớn
(Joshi et al., 1995).
Cầy vịi hương có khả năng ăn hạt cà phê tuy nhiên không thể tiêu hóa được
hồn tồn quả cà phê ăn vào, nó chỉ tiêu hóa được phần thịt quả cà phê, rồi thải ra
ngồi phần hạt cứng khơng tiêu hóa được. Những hạt này có hương rất khác biệt và
hiếm có (Joshi et al., 1995) nên được chế biến thành một loại cà phê cao cấp và được
gọi là cà phê chồn.
Ngoài tác giả Joshi (1995), một báo cáo của viện nghiên cứu ở Triều Tiên vào
năm 1997 về thói quen ăn uống của cầy vòi hương đã liệt kê ra hàng loạt các loại thức
ăn mà loài này hay ăn bao gồm: nhóm động vật hữu nhũ nhỏ, các lồi thuộc họ chim,
bị sát, lưỡng cư, cá, giáp sát, cơn trùng, trùn đất lớp chân bụng, nhện, và hoa quả.
Trong đó, 4 nhóm thức ăn chính của cầy vịi hương là cơn trùng, trùn đất, hoa quả, và
loài hữu nhũ (Joshi et al., 1995; Chuang-An and Lee, 1997).



Cầy vịi hương châu Á được cho là có một lối sống đơn độc, trừ một thời gian
ngắn vào mùa giao phối. Chúng sống trên cạn và sống trên cây, cho thấy các hoạt
động về đêm ở đỉnh giữa buổi tối muộn đến sau nửa đêm (Grassman, 1998).
Cầy vòi hương đánh dấu mùi hành vi và phản ứng khứu giác khác nhau như
chất tiết của tuyến đáy chậu, nước tiểu và phân khác nhau ở cầy đực và cầy cái.
Hành vi đánh dấu bằng cách kéo các tuyến đáy chậu và để lại sự tiết trên bề mặt là
phổ biến nhất được quan sát ở cả hai giới. Các phản ứng khứu giác thay đổi theo thời
gian và phụ thuộc cả vào loại quan hệ tình dục và bài tiết. Các cầy vịi hương có thể
phân biệt giữa các cá thể, giới tính, và quen thuộc hay khơng quen thuộc bằng mùi
của tuyến giáp tiết đáy chậu (Rozhnov, 2003).
Về thực trạng của lồi trong tự nhiên, nhiều cơng bố cho thấy cầy vòi hương
bị săn bắt và giảm số lượng đáng kể. Theo Esselstyn et al. (2004); Comm. (2006); Su
Su (2005) có đủ bằng chứng để chỉ ra rằng trên phạm vi rộng lớn loài này thường là
một trong những loài phổ biến nhất đã bị săn bắt ở Phillipines, Myanmar, Việt Nam,
Lào... Các khuynh hướng phổ biến cho các cuộc điều tra dùng camera bẫy và chú ý
đến các khối môi trường sống xâm lấn tối thiểu, với trọng tâm là r ng thường xanh,
chắc chắn đã giảm nhiều số lượng gần đây của loài này ở khu vực Đông Nam Á.
Iseborn (2012) đã xác định độ phong phú của cầy vòi hương ở khu bảo tồn động vật
hoang dã Phnom Samkos và Khu bảo tồn Veun Sai-Siem Pang, Campuchia và công bố
chắc chắn gặp phải P. hermaphroditus ở cả hai nơi, nhưng mật độ thấp.
Phân tích tính đa dạng di truyền của họ cầy (Viverridae), phát sinh loài bộ ăn
thịt (Carnivora) lần đầu tiên được khám phá bởi Yu & Zhang (2005) bằng cách giải
trình tự DNA. Nhóm tác giả đã sử dụng hai gen ti thể (ND2 và ND4) và gen nhân
beta-fibrinogen intron 7. Việc kết hợp (ND5, cytb, 12S, và 16SrRNA) và hai gen nhân
(IRBP và TTR) chuỗi locus cũng được kết hợp để tái tạo lại phát sinh lồi của 14 lồi
thuộc họ mèo có quan hệ họ hàng.
Patoua et al., (2008) đã tiến hành giải mã trình tự của hai gen ti thể
(Cytochrome b và ND2) và hai gen nhân (một đoạn không mã hóa: intron 7 của 0frinogen và một đoạn mã hóa: exon 1 của IRBP). Nhóm tác giả kết luận việc bổ sung
các dữ liệu DNA nhân, đặc biệt là các 0 -fibrinogen intron 7, đóng vai trị trọng yếu
cải thiện độ phân giải phát sinh loài của các loài bên trong của Hemigalinae và



Paradoxurinae.
Gần đây nhất, Veron et al., (2015) đã nghiên cứu sự đa dạng di truyền của chi
Paradoxurus bằng cách sử dụng hai gen ti thể (cytochrome b, khu vực kiểm soát CR)
và một gen nhân (intron 7 của P-fibrinogen) đánh dấu. Nhóm tác giả đã sử dụng mẫu
t 85 cá thể thuộc loài P. hermaphroditus (bao gồm 20 mẫu vật bảo tàng) và một đại
diện của mỗi loài khác trong chi Paradoxurus: Paradoxurus jerdoni và Paradoxurus
zeylonensis. Mặt khác, nhóm tác giả kiểm tra đặc điểm hàm và răng t một loạt lớn
các mẫu vật và so sánh sự biến đổi về hình thái với các dữ liệu phân tử. Phân tích
cây sinh dịng của chúng cho thấy rằng P. hermaphroditus là cận ngành. Nhóm tác
giả nhận thấy có ba dịng chính phân phối: (1) trong tiểu lục địa Ấn Độ, phía nam
Trung Quốc, Hải Nam và trong khu vực trên 200 m ở Đông Dương; (2) ở bán đảo
Malaysia, Java, Sumatra và trong khu vực dưới 200 m ở Đông Dương; và (3) ở
Borneo, Philippines và quần đảo Mentawai. Quan sát hình thái học cũng tương đồng
với ba dịng phân tử. Theo kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả thì cầy vịi hương ở
Việt Nam nằm trong 2 nhánh (1) và (2), theo đề nghị thuộc hai loài: P.
hermaproditus (Indian palm civet) và P. musagus (Sumatran palm civet).
1.1.2.
c u xác địn

Tổng quan tình hình nghiên
kì động dục

Kiến thức về sinh học sinh sản của các loài động vật là rất quan trọng để quản
lý bền vững. Đánh giá chính xác tình trạng nội tiết là một trong những yếu tố quan
trọng nhất để tăng hiệu quả các chương trình hỗ trợ sinh sản. Sự nỗ lực trong các kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản (thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm hoặc chuyển phôi)
phụ thuộc vào kiến thức về sinh lý sinh sản của một loài nhất định (Schwarzenberger
et al., 1996). Đặc biệt, trong thụ tinh nhân tạo, thời gian chính xác của việc thụ tinh là

yếu tố giới hạn chính, sẽ dễ dàng hơn nếu chu kì động dục có thể được xác định.
Phân tích hormone steroid của tuyến sinh dục là một điểm quan trọng đánh
giá tình trạng sinh lí sinh sản của vật ni. Kích dục tố trong huyết thanh là sự phản
ánh chính xác nhất của hoạt động sinh dục, tuy nhiên các kỹ thuật để thu thập thơng
tin này qua huyết thanh có thể ảnh hưởng đến phúc lợi động vật (animal welfare) và
khá tốn kém. Lấy mẫu máu lặp lại nhiều lần sẽ gây stress, ảnh hưởng đến vấn đề sức
khỏe của động vật và khó khăn để thực hiện trong điều kiện hiện trường, nhất là động


vật hoang dã. Thậm chí việc lặp lại lấy mẫu máu để đo các steroid có thể là khơng
thực tế ở các lồi động vật có kích thước nhỏ, lấy mẫu gây can thiệp và thậm chí dẫn
đến các con vật bị giết chết.
Phương pháp không xâm lấn (non-invasive) dễ thực hiện và cho kết quả chính
xác là lựa chọn thay thế tốt hơn. Mặc dù có thể thu thập mẫu nước tiểu và phân để
đánh giá tình trạng sinh sản ở động vật được ni nhốt, nhưng khó khăn trong việc thu
thập nước tiểu đối với các động vật thả rông đã hạn chế việc sử dụng chúng trong việc
điều tra. Vì vậy, mẫu phân là sự lựa chọn thực tế nhất cho mục đích này. Phương pháp
đo lưu lượng các chất chuyển hóa steroid trong phân để đánh giá trạng thái nội tiết của
động vật đã được đi tiên phong vào cuối những năm 1970 ở chim, đầu những năm
1980 ở động vật có vú và đã được nghiên cứu trong các thập kỷ qua với số lượng ngày
càng tăng của các loài (Palme, 2005). Nhiều nghiên cứu đã cho thấy mơ hình tương tự
trong huyết thanh là kích thích tố trong phân, và sử dụng các mẫu phân như một công
cụ không xâm lấn được sử dụng rộng rãi để giám sát hoạt động sinh dục. Vấn đề thơng
tin khơng rõ ràng về tình trạng sinh sản của động vật cái đã được giải quyết nhờ
phương pháp phân tích hormone steroid phân để đánh giá các hoạt động nội tiết
(Kumar et al., 2013). Đánh giá estrogen trong phân đã được sử dụng như chỉ số đáng
tin cậy ở con vật mang thai ở một số động vật móng guốc (Amer et al., 2007 ; Macchi
et al., 2010; Ncube et al., 2011; Monica và et al., 2014) và một số loài linh trưởng
(Shideler et al., 1993a, Shideler et al., 1993b, Heistermann et al., 1993; Ziegler et al.,
1996; Maheshwari, 2010). Chúng cũng được sử dụng để xác định khoảng thời gian

trước khi rụng trứng ở động vật ăn thịt (Putranto et al., 2006; 2011). Phân tích chất
chuyển hóa progesterone trong phân đã được sử dụng thành công để theo dõi chức
năng thể vàng và mang thai, hư thai, tính chu kì động dục và các liệu pháp điều trị
trong một danh sách mở rộng của nhiều loài.
1.1.3.

X địn on đ ờng bài ti t hormone steroid

Các loại sản ph m cuối cùng chuyển hóa của steroid trong phân được xác định
bằng các nghiên cứu sử dụng phương pháp sắc ký (HPLC) và xét nghiệm miễn dịch
(RIA hoặc ELISA). Steroid phóng xạ 14C được đưa vào cơ thể qua con đường truyền
vào tĩnh mạch. Phân được thu thập ngay sau khi đi vệ sinh, nước tiểu được lấy mẫu


qua ống thông tiểu cố định ở con cái và sau khi tiểu tiện tự nhiên ở con đực (Palme et
al., 1996). Kết quả nghiên cứu cho thấy các chất steroid có chứa phóng xạ trong huyết
tương kết hợp nhanh chóng và bài tiết vào mật và nước tiểu. Chúng được phân tách
trong ruột và ở hầu hết các loài steroid phân chứa một tỷ lệ steroid tự do cao hơn các
steroid liên hợp. Việc xác định con đường, thời gian và sản ph m bài tiết steroid phân
ngày càng được mở rộng danh sách các loài: c u (Adams et al., 1994); ngựa, lợn
(Palme et al., 1994), voi châu Phi (Wasser et al., 1996), khỉ đầu chó (Wasser et al.,
1996), mèo nhà (Graham and Brown, 1996). Về bản chất, những nghiên cứu này chỉ
ra rằng estrogen trong phân chứa chủ yếu là oestrone, oestradiol- 17a và -170.
Oestrogen là sản phẩm cuối cùng của sự trao đổi chất steroid. Như vậy các hợp chất
trong huyết tương và phân cũng tương tự nhau. Ngược lại, progesterone được chuyển
hóa mạnh mẽ trước khi đào thải qua phân và một số nghiên cứu chỉ ra rằng các chất
chuyển hóa phân của nó bao gồm các chất chuyển hóa từ 5a và 50 - pregnan
(pregnaned- iones, mono và dihydroxylated pregnans (Schwarzenberger et al., 1999;
Heistermann et al., 1993; Mốstl et al., 1993; Shideler et al., 1993b, Wasser et al., 1994;
Graham et al., 1995; Brown, 2011).

1.1.4.

Ly trích steroid

Steroid có thể chiết xuất theo phương pháp ethanol (Hattab et al., 2000;
Kornmatitsuk et al., 2007; Capezzuto et al., 2008) hoặc methanol (Schwarzenberger et
al., 1995, Isobe et al., 2005). Các mẫu phân được thu thập t 2-3 lần mỗi tuần (12
tháng). Các mẫu trong thời gian giữa thời kỳ mang thai được thu thập một lần/tuần
hoặc hai tuần một lần. Các mẫu phân tươi (5 g) được thu gom đặt vào một túi nhựa và
bảo quản (-200C) cho đến khi phân tích. Sau khi giải đơng, 0,5 g được cân và được đặt
trong một lọ thủy tinh có chứa 4 ml đệm chiết dung dịch (20% methanol hoặc
ethanol). Mẫu được đặt trên máy lắc trong 18 giờ ở nhiệt độ phòng. Các chất lỏng này
được chiết vào một ống nghiệm và ly tâm (400 vòng, 15 phút). Sau khi ly tâm, khoảng
1 ml dung dịch nổi được chiết vào ống eppendorf được dán nhãn và lưu trữ đông lạnh
(-200C) cho đến khi sử dụng. Phần còn lại được đưa trở lại vào lọ thuỷ tinh và được
sấy khô để xác định trọng lượng khô của phân. Dung dịch này sẽ được sử dụng trực
tiếp cho phân tích ELISA (Schwarzenberger et al., 1998; Putranto et al., 2006), HPLC
(Putranto et al., 2011) hoặc RIA (Fujita et al., 2001). Gần đây, phương pháp sử dụng


petroleum ether cho chiết xuất progesterone và estrogen được sử dụng (Biancani et al.,
2009). Nghiên cứu cho thấy phương pháp này có tương quan cao (r=0,923) với chiết
xuất ethanol và tiết kiệm thời gian li trích hơn.
Nhiều nghiên cứu về sự thay đổi chế độ ăn uống và dao động hàm lượng nước
giữa các mẫu phân có ảnh hưởng đến nồng độ steroid trong phân hay không. Shideler
et al., (1993) và Wasser et al., (1993) đã kết luận rằng việc lập chỉ mục các steroid
phân không cần thiết. Tuy nhiên, ở một số loài như động vật ăn thịt và voi (Brown et
al., 1994; Brown et al., 1995; Wasser et al., 1996), việc đông khô các mẫu phân trước
khi phân tích và biểu hiện nồng độ steroid trên mỗi gram phân khô là thuận lợi. Tuy
nhiên, Schwarzenberger và cộng sự trong một loạt nghiên cứu lại kết luận rằng với

một số lồi ăn cỏ được ni trong các vườn thú khác nhau và khơng có cùng chế độ ăn
tiêu chu n thì việc khử khơ mẫu phân để xác định steroid là không cần thiết
(Schwarzenberger và Walzer, 1995; Schwarzenberger et al., 1991, 1992, 1993, 1994,
1995). Hơn nữa, Wasser et al. (1993); Wasser et al. (1994) kết luận những thay đổi
đáng kể theo mùa trong chế độ ăn uống của động vật thả rông không ảnh hưởng đáng
kể đến lượng định lượng steroid phân. Ngoài ra, Ziegler et al., (1996) cho rằng việc
loại bỏ chất dịch ra khỏi phân không làm thay đổi cấu trúc steroid, vì nồng độ steroid
giữa mẫu phân đơng lạnh và phân lỏng có mối tương quan cao.
Như vậy, ở các loài động vật hoang dã với cấu trúc dân số hạn chế của chúng,
xác định hormone sinh dục không xâm lấn sẽ là một phương pháp hữu dụng đối với
các nhà khoa học trong đánh giá sự thay đổi nội tiết sinh dục, xác định chu kì buồng
trứng đồng thời tìm hiểu và giám sát động thái sinh dục của chúng để cải thiện khả
năng sinh sản trong điều kiện ni. Cần có thêm nhiều cơng trình và phối hợp giữa các
nhà nghiên cứu trong ngành cơng nghệ sinh học trước khi có thể phát triển các bộ KIT
steroid trong phân nhằm góp phần thành cơng cho công nghệ hỗ trợ sinh sản.
1.2.

Nghiên cứu trong nước
Cầy vịi hương có tên khoa học là Paradoxurus hermaphroditus (Pallas, 1777)

cịn có tên gọi khác là cầy vịi đốm. Nhiều tài liệu gọi loài này là chồn hương, cầy
hương (Nguyễn Lân Hùng và Nguyễn Khắc Tích, 2010). Hiện có nhiều nơi ni cầy
vịi hương với nhiều mục đích khác nhau. Trong đó các trang trại ni lồi này đã sớm


phát triển ở các tỉnh Đắk Lắk, Lâm Đồng, ình ương, Thanh Hóa, ắc Giang, thành phố
Hồ Chí Minh, Long An, Đồng Nai. Hầu hết các trang trại, các hộ gia đình đang ni
cầy vịi hương đều thu lợi nhuận chủ yếu t việc cung cấp con giống, bán thịt cho các
nhà hàng đặc sản. Những năm gần đây, một số hộ chăn nuôi cầy thu lợi nhuận t việc
sản xuất cà phê chồn.

Cầy vịi hương là lồi động vật hoang dã thuộc nhóm động vật ăn tạp, có tập
tính kiếm ăn vào ban đêm. Thức ăn chủ yếu là những loại quả chín của các lồi cây
mọc trong tự nhiên và các lồi gặm nhấm, cơn trùng mà chúng săn bắt được (Phạm
Nhật, 2002). Còn rất nhiều tài liệu khác đề cập đến sinh học, sinh thái học và tập tính
của cầy vịi hương trong tự nhiên. Đây chính là thông tin cơ sở để xây dựng chuồng
trại, chăm sóc và ni dưỡng trong điều kiện ni nhốt. Cầy vịi hương là lồi thích
trái cây mềm và chúng lựa chọn rất kỹ các trái cây để ăn. Chúng cũng ăn quả cà phê
song chỉ chọn những quả chín mọng, có vị ngọt, hương thơm (Joshi et al., 1995;
Nguyễn Vịnh, 2011).
Về phía thức ăn động vật, cầy vịi hương thường ăn những côn trùng như rắn,
bọ hung, giun đất, chuột, trứng chim, về phía thức ăn có nguồn gốc thực vật, chúng ăn
những loại trái cây chín có vị ngọt như nhãn, mít, chuối, đu đủ,... (Nguyễn Lân Hùng
và Nguyễn Khắc Tích, 2010).
Kiểu hình bộ máy tiêu hóa của lồi ăn tạp: dạ dày phát triển, gồm có 4 vùng:
vùng thượng vị, vùng đường cong lớn, vùng trung vị và vùng hạ vị. Đây là kiểu hình
v a tiêu hóa thức ăn tinh v a tiêu hóa thức ăn xanh tùy theo kh u phần. Trong điều
kiện hoang dã, nguồn thức ăn không ổn định về chất lượng và số lượng, nên bộ máy
tiêu hóa đa dạng là một lợi thế. Với tập tính kiếm ăn vào ban đêm, thường là đầu
hơm đến giữa đêm nên thời gian tiêu hóa thức ăn chủ yếu vào ban đêm, giảm hoạt
động vào ban ngày (Joshi et al., 1995; Grassman et al., 1998; Duckworth et al.,
2008). Chính vì thế, nếu thuần hóa và chăn nuôi dạng sinh thái, người chăn nuôi nên
chú đặc điểm này, nên cho ăn bữa ăn chính vào buổi chiều tối, tốt nhất là sau 6 giờ
chiều nhằm không làm thay đổi tập tính vốn có của lồi này (Nguyễn Lân Hùng,
Nguyễn Khắc Tích, 2010). Cầy vịi hương thích ăn trái cây có vị ngọt, hàm lượng
đường trong thức ăn cao (Joshi et al., 1995), nên khi mới tập ăn, nên cho chúng ăn
thức ăn có vị ngọt.


Đặc điểm sinh học của cầy vòi hương hoang dã đã được cứu tại Việt Nam bởi
Roberton (2007). Tuy nhiên, nghiên cứu mới chỉ d ng lại ở mức quan sát một số đặc

điểm sinh học, đánh giá thực trạng, phân bố của loài và đưa ra những cảnh báo về việc
bảo tồn loài này trong điều kiện hoang dã.
Đến năm 2010, Đặng Huy Huỳnh và cs đã mô tả khá chi tiết về đặc điểm phân
bố và đặc điểm sinh học của lồi này ở Việt Nam. Cầy vịi hương cịn có các tên gọi
khác là Vịi đen, Cầy vịi đốm, Chồn ngận hương, Chồn mướp; Hên mng meo
(Tày); nhển moòng, nhển củn (Thái); cui vằng (Mường); đèn bảo minh, đền tây diền
(Dao).
Về đặc điểm hình thái của cầy vịi hương: Cầy vịi hương nặng trung bình từ 3
đến 5 kg. Chiều dài thân khoảng từ 480 đến 700 mm, đuôi dài từ 400 đến 660 mm.
Khuôn mặt dài nhọn đặc trưng của họ Cầy. Các gờ mấu ở xương sọ khá phát triển.
Mấu sau mắt dài. Xương trán tương đối bằng. Eo sau mắt thắt nhỏ (nhỏ hơn gian mắt).
Mấu bên xương chẩm dính với mặt sau bầu nhĩ tạo thành đế khá lớn. Răng nhỏ thấp,
gờ nhai tù. Răng trước hàm số 1 rất nhỏ, có thể mất. Đế bàn chân lớn, đế bàn chân sau
có thùy kéo dài để bám lúc leo trèo (Đặng Huy Huỳnh và cs., 2010).
Cầy vịi hương có tuyến xạ thơm cạnh hậu môn phát triển và thường tỏa mùi
thơm khi hoạt động, nằm sâu phía trong mơng, phân bố hai bên hậu mơn mà khơng lộ
ra ngồi khác với cầy hương tuyến xạ của con đực nằm ngay trước tinh hoàn, lộ ra
ngồi.
Bộ lơng có tính biến dị lớn: Bộ lơng màu xám mốc hoặc hung mốc, mút lông
phớt đen. ọc sống lưng, sườn có đốm màu nâu đen hoặc thường tạo tạo thành sọc chạy
dọc sống lưng t vai đến gốc vai đến gốc tai. Đầu, đuôi và chân chuyển mầu nâu đen;
đi có vệt khơng rõ hoặc màu đen ở phần gốc đi, phần mút đi thường có màu
đen, tuy nhiên ở một số cá thể có thể màu trắng. Mặt có 2 - 3 đốm trắng cạnh mắt hoặc
vệt sáng trắng ở trán qua 2 tai (Đặng Huy Huỳnh và cs., 2010).
Tập tính của cầy vịi hương cơ bản gần giống Cầy vòi mốc (Paguma larvata).
Chủ yếu sống ở rừng. Sinh hoạt kiếm ăn đêm, ngày ngủ (Phạm Nhật, 2002). Loài này
thường hoạt động chủ yếu trên cây ít khi xuống đất. Cầy sống đơn, chỉ ghép đôi trong
mùa sinh sản (Đặng Huy Huỳnh và cs., 2010).
Vào mùa khan hiếm thức ăn, cầy vịi hương cũng có thể kiếm ăn vào ban ngày.



Cầy vịi hương là lồi ăn tạp, thức ăn tự nhiên bao gồm cả thực vật (hành phần thức ăn
chủ yếu gồm các loại quả chín kỹ, nhằn vỏ, nuốt hạt, ...) lẫn động vật (gồm côn trùng,
cua, ốc, ...chiếm tỷ lệ ít); tuy Cầy vịi hương thuộc bộ thú ăn thịt nhưng loài này
thường ăn thực vật nhiều hơn động vật. Trong điều kiện nuôi nhốt Cầy rất tạp ăn kể cả
thịt, cá cơm canh (Đặng Huy Huỳnh và cs., 2010).
Cầy vòi hương động dục vào các tháng 2 - 4, đẻ con vào tháng 5 - 6, mỗi lứa 2
- 4 con. Thời gian chửa 60 - 63 ngày; con sơ sinh nặng 250 - 300g. Cầy béo vào mùa
đông. Tuổi thọ khoảng 14 năm, trong điều kiện ni, có cá thể sống tới 22 năm 5
tháng (Đặng Huy Huỳnh và cs., 2010; Nguyễn Lân Hùng và Nguyễn Khắc Tích,
2010).
Theo Đặng Huy Huỳnh và các cộng sự (2010), cầy vòi hương sống ở rừng cây
gỗ núi đất, núi đá và cả rừng ngập nước ven biển hay rừng tràm ở đồng bằng sơng
Cửu Long. Cầy có thể sống cả ở rừng nguyên sinh và thứ sinh đã bị tác động mạnh.
Lồi Cầy này khơng đào hang ở và khơng có chỗ ở cố định. Cầy thường trú ẩn trong
các bọng cây, trên các tán cây rậm rạp.
Ở Việt Nam, Cầy vịi hương phân bố rộng trên tồn quốc: Lào Cai, Sơn La,
Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hịa Bình, Thanh Hóa,
Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Th a Thiên - Huế, Đà Nẵng, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm
Đồng, Đồng Nai,. (Đặng Huy Huỳnh và cs., 2010).
Về giá trị sử dụng, cầy vòi hương là một lồi có giá trị kinh tế cao cho thịt
ngon, da lơng có giá trị cao. Tuyến xạ (xạ hương) của cầy vòi hương được sử dụng
trong sản xuất mỹ ph m cao cấp. Xạ của cầy vòi hương cũng là một vị thuốc quý trong
Y học cổ truyền và được sử dụng như xạ hương của hươu xạ. Do vậy, cầy vòi hương
bị săn bắt ráo riết và sinh cảnh bị hủy hoại nên hiện nay bị suy giảm nhiều về mặt số
lượng.
Gần đây, một số nghiên cứu về đặc điểm sinh học của lồi trong điều kiện ni
đã được tiến hành. Nguyễn Thanh B ình (2015a,b) đã cơng bố về một số bệnh thường
gặp và ảnh hưởng của PMSG và HCG lên thành tích sinh sản của cầy cịi hương trong
điều kiện ni nhốt. Nguyễn Thị Thu Hiền và cs., (2017a) đã nâng cao hiệu quả của

việc sản xuất cà phê chồn nguyên liệu thông qua chế độ dinh dưỡng hợp lí (80% thức
ăn cơ bản với 50% thức ăn thực vật, 50% thức ăn động vật trong khẩu phần).


Về đặc điểm sinh trưởng của cầy vòi hương trong điều kiện ni, nghiên cứu
cho thấy cầy vịi hương từ 3-24 tháng tuổi có tốc độ tăng khối lượng trung bình là 5.76
g/con/ngày (ở con đực) và 5.22 g/con/ngày (ở con cái). Tốc độ tăng trưởng khối lượng
cao nhất là từ 9-12 tháng tuổi. Tốc độ tăng trưởng chiều dài thân có xu hướng giảm
dần qua các tháng tuổi. Giai đoạn tăng trưởng chiều dài thân nhanh nhất ở giai đoạn 36 tháng với mức tăng trưởng tuyệt đối là 2.87 cm/con/tháng (ở con đực) và 2.57
cm/con/tháng (ở con cái). Tăng trưởng tuyệt đối của chiều dài đi trung bình 0.99
cm/con/tháng (ở con đực) và 0.96 cm/con/tháng (ở con cái). Tăng trưởng tuyệt đối của
vịng ngực trung bình là 0.52 cm/con/tháng (ở con đực); 0.45 cm/con/tháng (ở con cái)
và đạt tốc độ cao nhất ở giai đoạn 9 tháng tuổi (Nguyễn Thị Thu Hiền và cs., 2017b).
Nghiên cứu đặc điểm sinh sản của cầy vịi hương trong điều kiện ni cho thấy
cầy có tuổi thành thục sinh dục trung bình là 11.96 tháng (ở cầy cái) và 10.97 tháng (ở
cầy đực) với khối lượng trung bình 2.50 - 2.52 kg. Thời gian mang thai trung bình
60.9 ngày. Số con cầy vòi hương sinh ra trong mỗi lứa từ 1-4 con, trung bình 2.38
con/lứa. Cầy sơ sinh nặng trung bình 95.16 gram, con non khi cai sữa (45 ngày) nặng
590.83 gram. Tỉ lệ mang thai (66.67 %) và tỉ lệ con non sống khi cai sữa (80.83%)
chưa cao, phụ thuộc vào kỹ thuật chọn thời điểm ghép đôi và điều kiện ni dưỡng
(Nguyễn Thị Thu Hiền và cs., 2017c).
Tóm lại, các nghiên cứu trong nước về cầy vòi hương còn khá khiêm tốn, chủ
yếu nghiên cứu loài này trong tự nhiên, chưa có những nghiên cứu mang tính hệ thống
về các đặc điểm sinh học của Cầy vòi hương trong điều kiện ni, cũng như xác định
chu kì sinh dục của cầy vịi hương cái. Các nghiên cứu về chu kì động dục bằng biện
pháp không xâm lấn (qua steroid phân) cũng chưa được công bố.


CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.


Vật liệu

Tổng số 2.635 mẫu phân được thu thập từ 12 cá thể cầy vòi hương cái trưởng
thành trong 16 tháng. Tất cả các cá thể trong nghiên cứu này được coi là khoẻ mạnh
dựa trên lịch sử theo dõi lâm sàng và khơng có thai khi bắt đầu nghiên cứu.
Bảng 2. 1. Dữ liệu của 12 cá thể cầy được thu mẫu trong nghiên cứu
Tuổi*
Kí hiệu

(Tháng)

Cân nặng

Chiều dài

Số mẫu

(kg)

thân (cm)

phân

F1

18

3.17


67.41

210

a

24

3.32

68.64

224

F3

31

3.43

68.72

210

a

36

3.56


69.26

208

3.51

69.18

227

68.34

224

68.22

210

F2

F4

F5

40

F6

33


3.33

a

30

3.28

F8

32

3.55

68.41

231

a

32

3.48

68.45

231

F10b


32

3.38

68.56

230

F11

27

3.25

67.68

214

F12b

27

3.27

67.72

216

F7


F9

Ghi chú:
a

Cá thể cái đã mang thai trong quá trình nghiên cứu.

b

Những con cái được cho là mang thai giả trong quá trình nghiên cứu.

*

Tuổi, trọng lượng và chiều dài cơ thể khi bắt đầu nghiên cứu
Mang thai và mang thai giả được theo dõi dựa vào ghi chép về thời gian giao phối

và thời gian đẻ. Cá thể được xem là mang thai giả khi có sự thay đổi nội tiết, tăng hormone


P4 sau khi giao phối, nhưng không mang thai, sau giao phối hai tháng khơng có sự đẻ con.

Trang tr i: Cầy vịi hương trong nghiên cứu này được ni tại trang trại của
Trung tâm Công nghệ sinh học Đồng Nai tại xã Xuân Đường, huyện C m Mỹ, tỉnh
Đồng Nai. Trại được bao quanh bằng tường bao chắc chắn cao 2,5 m nhằm tránh cho
cầy thoát ra nhưng vẫn đảm bảo an tồn, tránh được gió lùa trực tiếp, hạn chế ánh
sáng, nền tráng xi măng với độ dốc giúp thốt nước tiểu và nước trong q trình dọn
vệ sinh. Mỗi ơ chuồng có kích thước 1 x 1 x 1,2 m. Chuồng trại được rửa sạch bằng
vòi nước hằng ngày. Công tác vệ sinh sát trùng được tiến hành 1 tháng/lần. Dung
dịch sát trùng được sử dụng là BESTAQUAM-SR.
Thức ăn và nước uống: Thức ăn cơ bản cho cầy vịi hương: Bữa chính: Cháo

được nấu với các thành phần khác nhau như cá, nội tạng, đầu gà. Bữa phụ: trái cây
các loại, chủ yếu là chuối, đu đủ, dưa hấu. Cầy được cho ăn 2 bữa ngày đêm, gồm 1
bữa chính (khoảng 18h) và 1 bữa phụ (khoảng 11h - 12h trưa). Khẩu phần hàng ngày
cho mỗi cá thể cầy có khối lượng 3kg là: năng lượng trao đổi (ME): 450 Kcal,
protein thô (CP): 18 gr, Lipid: 3 gr, chất khô (DM) 105 gr. Nước uống được đặt trong
chuồng để cầy tự uống. Chén nước được vệ sinh hằng ngày và thay nước 1 lần/ngày.

2.2.

Nội dung và phương pháp nghiên cứu

2.2.1.

-

Nội dung nghiên cứu:

Xác định sự thay đổi Estradiol và Progesterone trong phân của cầy cái ở giai
đoạn không mang thai.

-

Xác định sự thay đổi Estradiol và Progesterone trong phân của cầy cái ở giai
đoạn mang thai.

-

Xác định sự thay đổi Estradiol và Progesterone trong phân của cầy cái ở giai
đoạn mang thai giả.
2.2.2.


Thu mẫu và chiết xuất phân

Các mẫu phân được thu thập vào khoảng 18:00-20:00 giờ (cầy vòi hương
thường bài tiết phân vào buổi tối, vào đầu chu kì hoạt động đêm, khoảng 18-19 giờ).
Thu mẫu 3 ngày một lần, liên tục trong 16 tháng. Mẫu phân tươi (5g) được thu thập


trong túi nhựa (kích thước 200 x 140 x 0.04 mm; Uni Pack Mark Series-G, Seisan
Nippon Co., Tokyo, Japan) và được bảo quản ở -20 0C cho đến khi phân tích. Sau khi
rã đơng, 0,2 g đã được cân và đặt vào bình thủy tinh chứa 2 ml methanol 90%. Sau
khi lắc 30 phút (trên máy lắc HS 260 -IKA, Đức), mẫu được ly tâm ở 1.700 vòng
trong 20 phút (trên máy A 20, Đức). Sau khi ly tâm, khoảng 1 ml dung dịch được
chiết vào lọ eppendorf 1,5 ml và đông lạnh ở -20 0C cho đến khi sử dụng (Frederick
et al., 2010). Phần còn lại được cho vào lọ thủy tinh và sấy khô để xác định trọng
lượng khô của phân.
2.2.3.

Xét nghiệm hormone

Lượng P4 và 2 trong phân đã được xác định với hệ thống xử lý ELISA Dynex
DS2 hoàn toàn tự động (Dynex, USA). Bộ KIT ELISA progesterone (DRG
International, Inc., Đức) phản ứng với progesterone (P4) (100%), với phản ứng chéo
với 17 progesterone (0,30%), 11-desoxycorticosterone (1,1%), corticosterone
(0,20%), pregnenolone (0,35%), 11-desoxycortisol (0,10%). Hệ số biến động trong
và ngoài thử nghiệm tương ứng là 6,99% (Mean = 4,67 ng/ml, n = 20) và 4,34%
(Mean = 4,55 ng/ml, n = 12). Bộ KIT ELISA estradiol (DRG International, Inc.,
Đức) phản ứng với estradiol-17B (100%) với phản ứng chéo với estriol (0,05%). Hệ
số biến động trong và ngoài thử nghiệm tương ứng là 2,71% (Mean = 198,05 pg/ml,
n = 20) và 6,72% (Mean = 197,21 pg/ml, n = 12).

Quá trình chạy ELISA tự động được cài đặt sẵn trên máy Dynex DS2, gồm các
bước:
-

Nhỏ 25 ụL của mỗi Chất chuẩn, chất chứng và các mẫu bằng các đầu côn tiêu
hao mới vào các giếng tương ứng.

-

Ủ trong 5 phút ở nhiệt độ phòng.

-

Nhỏ 200 iiL Enzyme liên hợp vào từng giếng.

- Trộn kỹ hỗn hợp (lắc) trong 10 giây.
- Ủ trong 60 phút ở nhiệt độ phòng.
- Rửa sạch các giếng 3 lần bằng dung dịch rửa (400 uL mỗi giếng).
-

Thêm 200 111 dung dịch chất nền vào từng giếng.


-

Ủ trong 15 phút ở nhiệt độ phòng.

-

Ngừmg các phản ứng enzym bằng cách thêm 100 ụL dung dịch dừmg phản

ứng vào t ng giếng.

-

Xác định độ hấp thụ (OD) của t ng giếng ở 450 ± 10 nm với một đầu đọc khay
vi giếng.
2.2.4.

Phân tích dữ liệu

Tất cả các mức độ hormone được biểu thị bằng microgam trên gam phân khô
(ụg/g df). Độ dài của chu kỳ buồng trứng được tính bằng số ngày giữa hai đỉnh của
E2 kế tiếp nhau (không quá 50 ngày). Hàm lượng E2 và P4 cực đại (đỉnh-peak) được
xác định 1à những giá trị 1ớn hơn trung bình của tất cả các giá trị còn 1ại t mỗi cá
thể cầy vòi hương (Putranto, 2011).
Các thơng số thống kê cơ bản như trung bình, độ 1ệch chu n (SD), và T-test
với mức ý nghĩa a=0,05 được tính tốn bằng Microsoft Excel (Verson 2013
Microsoft, USA).


CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1.

Kết quả

3.1.1.

Sự ay đổ àm l ng Estradiol và Progesterone trong phân cầy ò ơn không mang

thai


Sự thay đổi của hàm lượng estradiol (E2) và progesterone (P4) ở cầy không
mang thai trong nghiên cứu này được thể hiện trong bảng 2.1.
Bảng 3. 1. Phạm vi, đỉnh và chu kỳ của P4 và E2 trong thời kỳ khơng mang thai ở cầy
vịi hương
Hormone

Chung (gg/g df)

Đỉnh (gg/g df)

Chu kì (ngày)

Range

Mean ± SD

Range

Mean ± SD

Range

Mean ± SD

E2

0.05-7.01

1.07±0.84


1.13-7.01

3.22 ± 0.64

26.8-33.1 28.6± 2.29

P4

0.15-12.32

1.72±2.16

6.03-12.32

7.26 ± 1.11

26.6-31.3 27.8 ± 2.80

Estradiol trong phân ở cầy không mang thai
Estradiol (E2) là estrogen chủ yếu và có hoạt tính sinh học tiết ra t cả tế bào gốc
và các tế bào hạt của các nang trứng phát triển (Kumar et al., 2013). Nồng độ E2 phân
trong cầy không mang thai trong nghiên cứu này dao động t 0.05 đến 7.01 ụg/g df,
trung bình 1.07 ± 0.84 ụg/g df và đỉnh là 3.22 ± 0.64 ụg/g df. Mặc dù sự thay đổi hàm
lượng estradiol của cầy vịi hương chưa t ng được cơng bố, song các giá trị estradiol
phân ở một số loài động vật khác đã được sử dụng rộng rãi để theo dõi hoạt động sinh
dục của chúng. Ở một số loài thuộc bộ ăn thịt (Carnivora), hàm lượng E2 của loài hổ
Siberi dao động từ 0.39 đến 0.49 ụg/g, trung bình E2 của hổ Bengal là 0.45 ụg/g, và
của hổ Sumatra là 2.36 ụg/g (Putranto, 2011).
Trong nghiên cứu này, đỉnh (peak) của E2 trung bình ở t ng cầy vịi hương riêng

lẻ là 14-16 lần trong 16 tháng (Hình 2.1-2.6). Sự thay đổi nồng độ E2 cho thấy có tính
chu kỳ. Thời gian của mỗi chu kỳ dao động t 26.8-33.1 ngày, trung bình là 28.6 ± 2.29
ngày. Giai đoạn này có thể so sánh với (27.0 ngày) của hổ Siberia (Putranto, 2011) và
hổ Bengal (29.3 ngày) (Putranto et al., 2007), nhưng khác với mèo (21 ngày) hoặc báo
(10 -20 ngày) (Brown, 2011). Putranto (2011) cho rằng bài tiết E2 trong phân có lẽ


song song với sự tăng trưởng nang và sự thay đổi đáng kể có tính chu kỳ của E2 trong
phân cho thấy sự thay đổi thường xuyên của chu kỳ buồng trứng. Hình 2.1- 2.6 cũng
cho thấy, trung bình t 26.8-33.1 ngày có một đỉnh của E2, tuy nhiên, trong suốt thời
gian theo dõi, ở mỗi cá thể chỉ có t 2-3 chu kì có đỉnh E2 cao vượt trội (hơn 4 ụg/g df).
Những đỉnh này phân bố vào các tháng 2-5 hoặc 9-12. Điều này cũng phù hợp với mùa
sinh sản của cầy trong tự nhiên là tháng 2-4 và 10-12 (Đặng Huy Huỳnh và cs., 2010).
Progesterone trong phân ở cầy vịi hương khơng mang thai
Progesterone (P4) là một hormone steroid chủ yếu được tiết ra chủ yếu t hồng
thể (CL) điều hịa chu kỳ động dục và duy trì thai ở tất cả các động vật có vú. Vỏ
thượng thận và nhau thai cũng tiết ra một lượng progesterone nhất định trong một số
giai đoạn sinh lý nhất định (Kumar et al., 2013).
Trong nghiên cứu này, các chất chuyển hóa progesterone trong phân của cầy cái
khơng mang thai có mức dao động từ 0.15 đến 12.32 ụg/g với trung bình chung là 1.72
± 2.16 |J.g/g (Bảng 2). Để so sánh, mức progesterone phân của hổ Siberia dao động từ
0.27 đến 38.19 ụg/g và của hổ Sumatra dao động từ 0.09 đến 18.52 ụg/g, và hàm lượng
này ở Bengal Tigers là 36.05 ụg/g (Putranto, 2011).
Hàm lượng progesterone ở cầy vòi hương cũng thay đổi theo thời gian. Đỉnh
progesterone phân bố từ 6.03-12.32 (ug/g) với trung bình 7.26 ± 1.11 (^g/g). Chu kỳ
thay đổi mức progesterone dao động t 26.6 đến 31.0 ngày với trung bình 27.8 ± 2.80
ngày.


Hình 2. 1. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vịi hương khơng mang thai (F1)


Hình 2. 2. Sự thay đổi hàm lượng P4 và E2 ở cầy vịi hương khơng mang thai (F3)


×