Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

SỬ LIỆU VIỆT NAM THỜI cận đại (sử LIỆU hán nôm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.48 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

KHOA LỊCH SỬ

ĐỀ TÀI

SỬ LIỆU HỌC: NỘI DUNG, CHƯƠNG TRÌNH
VÀ TỔ CHỨC GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
••
★★★

Chuyên đề

SỬ LIỆU VIỆT NAM THỜI CẬN ĐẠI
(SỬ LIỆU HÁN NÔM)
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI

NGƯỜI THỰC HIỆN

TS. Nguyễn Văn Hiệp

TS. Trần Thuận

BÌNH DƯƠNG - THÁNG 12 NĂM 2014


Chuyên đề

SỬ LIỆU VIỆT NAM THỜI CẬN ĐẠI
(SỬ LIỆU HÁN NƠM)



1. Giá trị của sử liệu Hán Nơm
••
Lâu nay khi đề cập đến vấn đề tư liệu lịch sử của nước Việt Nam ghi bằng
loại chữ khối vuông, người ta chỉ tập trung sự chú ý vào những pho sử đồ sộ ghi
bằng chữ Hán. Đó là những tài liệu hoặc do cơ quan chuyên viết sử của triều đình
phong kiến biên soạn, hoặc do các sử gia có tâm huyết với lịch sử đất nước viết
ra. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhất là trong vòng mấy chục năm lại
đây, các nhà nghiên cứu lịch sử đã chú trọng hơn việc sử dụng tư liệu lịch sử. Tư
liệu lịch sử bằng chữ viết cần được khai thác để đánh giá đúng về lịch sử phát
triển của dân tộc, đã được mở rộng ra cả các loại sách: địa chí, hương ước, thần
phả, gia phả, bằng sắc, những bản cơng văn hành chính, những tài liệu khoa học
kỹ thuật v.v... Song những tài liệu mới được chú ý tới này hầu hết chỉ là những tư
liệu được viết bằng chữ Hán. Trước đây những tài liệu do Viện Sử học cho dịch
để tham khảo như các bộ sử, địa bạ, hương ước đều là những văn bản chữ Hán,
cịn các văn bản Nơm chỉ thấy ở Viện Văn học cho dịch. Dường như người ta có
ấn tượng rằng số văn bản Nơm cịn lại ít ỏi đó chỉ có thể khai thác tư liệu về mặt
văn học, nhất là văn học dân gian mà thôi. Đúng là số lượng văn bản Nơm ít hơn
nhiều lần so với văn bản chữ Hán, song có phải vì thế mà nó không thể cung cấp
cho bộ môn nghiên cứu lịch sử những tư liệu cần thiết cho việc tìm hiểu lịch sử
dân tộc về các mặt: đấu tranh giải phóng dân tộc, sản xuất nơng nghiệp, thủ cơng
nghiệp, văn hóa hay khơng ?
Chúng ta đều có thể dễ dàng thống nhất với nhau rằng việc ghi lại những
tâm tư tình cảm, những nhận thức về thế giới khách quan của con người bằng
tiếng mẹ đẻ thường là đầy đủ chuẩn xác hơn bằng tiếng nước ngồi. Nhìn vào các
văn bản Nơm, ở một chừng mực nào đó chúng ta cũng có thể thể nghiệm được
điều đó. Chẳng hạn như sự thất bại thảm hại của hai mươi vạn quân xâm lược nhà
Thanh hồi cuối thế kỷ XVIII được nhiều bộ sử của ta và cả của nhà Thanh ghi lại
khá đầy đủ, thế nhưng trong bài Thiên triều văn viết bằng lối ca lục bát vẫn có
được một ý vị riêng biệt mà ở các bộ sử chữ Hán khơng có. Bằng giọng văn cầu

hồn ai oán thống thiết, tác giả miêu tả rất đầy đủ về cái chết của bọn giặc cướp:
“... Thương thay hỡi các chú ơi
2


Ăn uống no rồi ta kể một văn.
Quý Tỵ giữa ngày mồng năm
Giờ Dần chính nguyệt ầm ầm huyên hoa.
Một chi đánh ở Đống Đa,
Cầu Duệ kéo đến tốt xa muôn phần.
Phép voi bại trận tiên phong
Cầu Tương sụt cả xuống sông Bồ Đề.
Đạo binh tử trận đầy khe
Dọc đường gài gác nằm kề năn năn.
Chú sang cứu viện nước Nam
Chẳng may gặp phải suối vàng thương thay.
Chú thì thắt cổ trên cây
Chú thì tự vẫn ở ngay trong nhà.
Chú thì thác xuống Diêm La
Chú thì cịn sống về nhà Đại Minh.
Ai ai là chẳng đeo tình
Di Đà tiếp dẫn chúng sinh cơ hồn.
Chú nào có vợ có con
Có cha có mẹ hãy cịn giỗ chung.
Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đơng,
Nam Kinh, Quảng Bắc có lịng sang đây...”
Văn bản Nơm cịn ghi được khá chính xác tên gọi các lồi vật, tên đồ dùng
vật dụng, tên sông, tên núi, tên người, tên địa phương v.v... Vì vậy nó có thể giúp
chúng ta tìm hiểu về phong tục tập quán, về trình độ sản xuất của nhân dân ta
trong quá khứ. Ví dụ tìm hiểu các giống lúa trồng cấy ở nước ta trong mấy thế kỷ

trước, nếu bằng vào các tài liệu chữ Hán chúng ta có thể nhận biết tên gọi đích
thực mà người dân quê thường dùng của các giống lúa ấy, thế nhưng riêng Chỉ
nam ngọc âm giải nghĩa đã cho chúng ta biết được hàng chục giống lúa nếp tẻ
khác nhau trồng cấy ở lưu vực sơng Hồng thời Lê:
“... Hịa cốc trăm giống kể bày
Thiên hạ bảo vật ta rày dưỡng thân.
3


Cùng thì hưởng lộc thiên ân
Mỹ tắc nếp mỡ bội phần dẻo lên.
Đương tắc nếp quảng tốt nên
Ác thủ nếp ác màu đen tựa trầm.
Mãn tắc nếp vang đỏ hâm
Hương đạo thực ấy nếp hương dẻo dầy.
Bạch đạo nếp trắng dây dây
Hẩm vang Xích đỗ muộn thay hội mùa.
Lương canh lúa tám thơm tho
Lai mạch lúa sớm rủ câu đen vàng.
Lục mạch chín trước tưng bừng
Hồng vân lúa hỗ thức vàng tựa mây.
Đồng chí lúa châm muộn thay
Đại mạch lâu chầy lúa chín tháng năm...”
Về mặt ghi chép những truyền thuyết lịch sử thì các văn bản Nơm phần
nào tỏ ra đầy đủ tỉ mỉ hơn. Nhiều mẩu chuyện, nhiều tình tiết trong chính sử, nhất
là những tài liệu chữ Nôm lại được ghi lại rất sống động, thể hiện sức sáng tạo
của quần chúng. Chẳng hạn nhân vật Dương Tự Minh trong Đại Việt sử ký toàn
thư chép rất sơ sài: “Đinh Mùi, Thiên Phù Khánh Thọ năm thứ 11... tháng 12...
đem cơng chúa Diên Bình gả cho thủ lĩnh Phú Lương là Dương Tự Minh...”,
phần dưới nói thêm việc Dương Tự Minh tham gia vào việc lật đổ quyền thần Đỗ

Anh Vũ, việc không thành Dương bị đày đi nơi xa. Thế nhưng trong sách Việt sử
diễn âm, nhân vật Dương Tự Minh lại xuất hiện với một thân phận khác hẳn.
Dương vốn con nhà nghèo làm nghề kiếm cá nuôi mẹ. Một lần Dương đến trú ở
chiếc cầu đổ, có con yêu ma đến nhờ Dương dạy chữ và tặng cho chiếc áo.
Dương mặc áo đi về nhà, mẹ Dương khơng nhìn thấy. Khi cởi áo ra thì bà mẹ
mới nhìn thấy ơng. Biết áo có phép lạ, Dương nảy ra ý định mặc áo đi ăn cắp của
trong kho nhà vua. Sau bị bắt, Dương xin đi đánh giặc Tống chuộc tôi. Xin dẫn
một đoạn Dương mặc áo ma vào kho nhà vua:
“... Tự Minh ra dạ chẳng ngay,
Liền vào ăn trộm của nay nội đền.
Giữ kho túc trực bốn bên
Tự Minh trộm được ai nào biết hay.
Rạng ngày quan kho tâu bày:
4


“Rằng thằng ăn trộm đêm này kho vua”.
Cửa kho khóa kín bo bo
Của thì đã mất khơn lo sự nào.
Anh Tơng mới hỏi thấp cao:
“Chúng bay có thấy sự nào lạ chăng”?
Quan kho mới tâu lại rằng:
“Thấy có cái bướm thung thăng ra vào”.
Vua liền phán bảo: “Đêm sau
Dẫu thấy nó vào lấy lưới ra vây”.
Đêm ấy vắng vẻ canh chầy
Liền thấy cái bướm lại bay vào thành.
Quân liền lấy lưới vây quanh
áo ma mắc lưới khơn mình ra đi.
Qn liền bắt được đem về

Lột ra mới thấy tên là Tự Minh...”
Một vài ý kiến đánh giá nhận xét như trên, phần nào đã đề cập tới giá trị
của các tư liệu lịch sử có trong các văn bản Nơm. Thật vậy, tuy nói rằng ít ỏi về
số lượng nhưng những tư liệu hiếm hoi quý giá ấy vẫn có thể bổ sung, minh xác
thêm cho những tài liệu chữ Hán. Để làm sáng tỏ thêm vấn đề này chúng ta hãy
tìm hiểu phân tích thêm những văn bản Nơm hiện lưu giữ trong kho sách của
Viện Nghiên cứu Hán Nơm.

2. Các thể loại sử liệu Hán Nơm
••
1. SÁCH NƠM
Như phần trên đã đề cập tới, số sách Nôm hiện có ở Viện Nghiên cứu Hán
Nơm, ở các thư viện lớn của các viện nghiên cứu và một số trường đại học, sở
văn hóa và trong dân gian ít hơn nhiều so với sách chữ Hán. Theo số liệu điều tra
của một số nhà nghiên cứu đã công bố trên sách báo, số sách Nôm ở riêng Thư
viện Viện Nghiên cứu Hán Nơm có khoảng 1.500 cuốn.
Nếu dựa vào đặc điểm tỉ lệ số lượng chữ Nôm trong văn bản mà phân chia,
thì trong số 1500 cuốn sách Nơm đó có 500 cuốn sách thuần Nơm, nghĩa là gồm
những tác phẩm hồn tồn ghi bằng chữ Nơm hoặc chữ Nơm chiếm phần chủ
yếu, số còn lại là những sách vừa Nôm vừa Hán mà phần Nôm chỉ là thứ yếu,
trong đó có 150 cuốn dịch từ Hán sang Nơm.
5


Nếu dựa vào nội dung tác phẩm phản ánh, giống như cách phân chia của
Thư mục Hán Nôm do Thư viện Khoa học Xã hội biên soạn trước đây, thì những
sách Nơm có chứa tư liệu lịch sử (gồm cả sách địa chí, gia phả, hương ước, địa
bạ v.v...) chỉ có 324 cuốn.
Theo quan niệm mới về tư liệu lịch sử bằng chữ viết, số sách Nơm này có
thể phân ra thành mấy loại:

Tài liệu chính sử:
Về các bộ sử ghi theo lối kỷ truyện hoặc biên niên bằng chữ Nơm trước
kia hầu như khơng có, mãi đến đầu đời Nguyễn mới thấy xuất hiện, song cũng
chỉ là những sách tóm lược hoặc bổ sung từng phần vào lịch sử Việt Nam viết
bằng chữ Hán có trước đó, ví dụ: Sử nam chí dị, Việt Nam sử ký quốc ngữ, Việt
Nam sử lược bổ di v.v... Hoặc một số sách dịch từ nguyên bản chữ Hán, như: Việt
Nam khai quốc chí diễn âm, Đại Nam hội điển sự lệ quốc âm, Quốc triều sử diễn
âm v.v...
Diễn ca lịch sử:
Gồm những tác phẩm diễn Nôm viết theo thể văn vần, chủ yếu là lục bát
và song thất lục bát. Tuy rằng sử dụng các tư liệu của chính sử, song diễn ca lịch
sử có được một bút pháp riêng về việc ghi chép các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch
sử, đặc biệt là đã mạnh dạn thu nhặt những tư liệu dã sử, những truyền thuyết dân
gian. Những sử liệu lấy từ dã sử này không chỉ đơn thuần bổ sung cho chính sử,
mà đơi khi cịn đối lập hẳn với chính sử. Có loại dựa vào bộ sử biên niên diễn ca
toàn bộ lịch sử Việt Nam từ thời Hùng Vương dựng nước cho đến thời đại của tác
giả, như Thiên Nam quốc ngữ thực lục, Việt sử diễn âm, Đại Nam quốc sử diễn
ca v.v... Có loại chỉ viết về một triều đại hoặc một vài nhân vật lịch sử tiêu biểu,
như Mạc sử diễn âm, Lê Thái Tổ lịch sử ca v.v...
Hương ước, khoán ước:
Hương ước, khoán ước là loại sách ghi chép các quy định ước lệ chung về
nếp sống sinh hoạt ở hương thôn như nghi thức tế lễ, ma chay, hội hè, đình đám,
bầu lý trưởng, bán ruộng v.v... Do ghi chép bằng chữ Nôm nên nhiều phong tục
tập quán, điều kiện sinh hoạt của cộng đồng người Việt trong các làng xã được
phản ánh một cách đầy đủ chính xác hơn, ví dụ như: Vân Trục tổng các xã thơn
hương ước, Văn khốn ước cúng lễ hội đàn của xã Phù Lễ, Đông Trù kê hương
ước, Hương ước các làng v.v...
Sách từ vựng dạy học:
Loại sách từ vựng tiểu phẩm có thể coi là những bộ tự điển hai thứ tiếng
đầu tiên của nước ta, từ điển Hán Việt. Các từ Hán được giải thích ra tiếng Việt

6


và sắp xếp theo các chủ đề: thiên văn, địa lý, nhân ln, thân thế, tơn giáo, canh
nơng, khí cụ v.v... Những chủ đề này đã đề cập đến mọi mặt sinh hoạt của xã hội,
từ những công việc hàng ngày trong sản xuất, trong đời sống của nhân dân lao
động cho đến các việc chính sự trong triều đình, trong cung cấm, ví dụ: Chỉ nam
ngọc âm giải nghĩa, Đại Nam quốc ngữ, Nhật dụng thường đàm, Tự loại diễn
nghĩa v.v...
Sách y học:
Số sách y học cũng có thể chia làm hai loại nhỏ. Một loại là sách dịch từ
nguyên bản chữ Hán, như Hồng nghĩa giác tư y thư, Bảo thai thần hiệu toàn thư
quốc âm, Thực vật bản thảo v.v... Một loại chiếm số lượng lớn hơn là những bài
thuốc, những cách chữa bệnh rút ra từ kinh nghiệm thực tế viết lại dưới dạng văn
vần, như: Gia truyền thiên kim quốc ngữ, Chủng tử bảo thai quốc âm, Chẩn đậu
gia truyền quốc âm v.v...
Văn Nôm biền ngẫu như: Hịch, dụ, cẩn khải, văn tế, văn chiêu hồn
Loại tài liệu này thường là gắn với một sự kiện lịch sử cụ thể và nằm rải
rác trong văn bản chữ Hán, ví dụ bài Khải của Nguyễn Lệnh Danh dâng lên chúa
Trịnh nói về cuộc đấu tranh ngoại giao quyết liệt giữa triều đình Lê - Trịnh và sứ
thần nhà Thanh; bài Biểu dụ quân dân hai xứ Thuận Quảng của Hồng Ngũ Phúc
kể về việc triều đình Lê - Trịnh huy động sức người sức của ở xứ Thuận Quảng
phục vụ cho cuộc chinh phạt chúa Nguyễn hồi đó v.v...
Sách quân sự
Về mặt quân sự, tài liệu trong sách Nôm chủ yếu đề cập đến phương án tác
chiến, như cách đánh địch ở đồng bằng, ở miền núi cao, ở miền đầm lầy, hoặc
cách công phá đồn lũy, cách đánh quân cứu viện và thường được trình bày dưới
dạng “trả lời câu hỏi”, ví dụ: Thảo tặc vấn đối quốc âm luận, Gia truyền giải âm
tổng yếu, Vũ nghệ quốc ngữ ca v.v...
Kinh Phật

Số sách Nôm ghi chép về đạo Phật chiếm gần một phần tư số sách Nơm
hiện cịn, nhiều cuốn có niên đại rất sớm. Phải thừa nhận rằng những chứng tích
xưa nhất về chữ Nơm mà ngày nay ta có được phần lớn nằm trong các sách ghi
chép về đạo Phật. Đặc điểm này khiến nó khơng chỉ cung cấp cho các nhà nghiên
cứu những tư liệu quý giá để nghiên cứu đạo Phật ở Việt Nam, nghiên cứu nguồn
gốc cấu tạo và diễn biến của chữ Nơm, mà cịn cung cấp nhiều tư liệu có giá trị
khác. Ví dụ, vấn đề tên nước Việt Nam có tự bao giờ ? Nhiều tài liệu chữ Hán
đều khẳng định có từ đời Nguyễn (1802-1945), nhưng trong sách Nơm Phật giáo
lại thấy có xuất hiện sớm hơn. Hòa thượng Chân Nguyên Tuệ Đăng, một vị Thiền
sư có danh tiếng trong phái Trúc Lâm sống ở đầu thế kỷ XVIII, đã hai lần nói đến
7


tên nước Việt Nam trong tác phẩm của mình, là Nam hải quan âm bản hạnh ngữ
lục:
“Việt Nam Yên Tử Quỳnh Lâm,
Sát tiêu cực lạc cổ câm những là”.
Và Trần triều Thiền tông bản hạnh truyền tâm quốc ngữ hạnh:
“Việt Nam thắng cảnh Hoa Yên
Sát tiêu cực lạc tây thiên những là.”
2. VĂN BIA
Bia chữ Nôm không nhiều, song rải rác các đời Lê, Nguyễn đời nào cũng
có. Ngồi một số bia ghi lại trọn vẹn một bài thơ Nôm của một danh nhân nào đó,
cịn thấy có một số bia ghi chép hương ước, lệ làng, việc thờ cúng thần Phật, như
Cao Mại bi, Lâm Tế chính phái v.v... Đáng lưu ý hơn nữa là khá nhiều văn bia đã
dùng chữ Nôm để ghi tên núi, tên sông, tên xứ đồng có liên quan mật thiết với
những chiến cơng chống ngoại xâm hiển hách, hay một sự kiện lịch sử đáng ghi
nhớ.
3. BẰNG SẮC
Bằng sắc bằng chữ Nôm do triều đình phong kiến ban cho các quan lại địa

phương cũng cịn lại khá nhiều. Có dịng họ vẫn cất giữ gần như nguyên vẹn
hàng chục tấm sắc phong. Gần đây các nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử đã phát
hiện được tại dòng họ quan lang ở Phủ Quỳ, Nghệ An có hịm đựng gia bảo,
trong đó có hơn mười sắc phong bằng chữ Nôm thời Tây Sơn. Một vài chuyến đi
công tác của anh em khác về Chương Mỹ, Hà Tây; Gia Lương, Bắc Ninh cũng
thu được kết quả tương tự...
Ngồi số sách Nơm, bia chữ Nơm, bằng sắc Nơm cịn có câu đối ở đền
miếu và gia đình, ván khắc in, tranh vẽ dân gian có chua chữ Nơm cũng là những
văn bản Nơm có chứa đựng nhiều tư liệu lịch sử.
Thành tựu nghiên cứu của ngành khảo cổ, văn hóa dân gian trong những
năm gần đây phát hiện từ trong lịng đất, tìm thấy từ trong dân gian nhiều tư liệu
quý giá cung cấp cho bộ môn sử học. Mong rằng ngành thư tịch học, nhất là
những người nghiên cứu văn bản Nôm trong những năm tới đây cũng cố gắng
tìm tịi nghiên cứu khai thác những tư liệu lịch sử quý giá hiện đang tiềm tàng
trong các văn bản Nôm của nước ta, nghĩa là ở một chừng mực nào đó cũng cung
cấp cho bộ môn sử học những tư liệu thực sự cần thiết.

8


3. Tư liệu Hán Nôm, nguồn sử liệu quan trọng tại các di
tích
Tài liệu Hán Nơm ở các di tích lịch sử văn hoá là một nguồn sử liệu chữ
viết rất đa dạng và phong phú. Ở chúng còn ẩn chứa nhiều thông tin quan trọng
cho bản thân các di tích ấy và những thơng tin quan trọng trong nhiều lĩnh vực
khác nhau không những của khoa học xã hội nhân văn, mà còn của những lĩnh
vực khác như kiến trúc, quân sự và những hoạt động kinh tế khác nữa. Bài viết
này, chúng tôi xin được giới thiệu về những thơng tin q giá ấy cịn được lưu
giữ trên các vật ghi tin hiện còn được bảo lưu ở các di tích lịch sử văn hố ở miền
Bắc Việt Nam hiện nay.

Như chúng ta đã biết, di tích lịch sử văn hố là những dấu tích, vết tích
hoạt động của con người trong quá trình lịch sử. Ở Việt Nam (hay đúng hơn là ở
miền Bắc Việt Nam), các di tích hiện cịn, hầu hết có niên đại từ thời Hậu Lê trở
lại đây. Các di tích kiến trúc gỗ thuộc thời Lý hiện khơng cịn, chỉ cịn lại số ít bộ
phận của bộ khung kiến trúc gỗ thời Trần như: Bộ khung gỗ thượng điện chùa
Dâu (Bắc Ninh), thượng điện chùa Bối Khê (Hà Nội), thượng điện chùa Thái Lạc
(Hưng Yên). Ở các di tích lịch sử văn hoá, các nhà khoa học đã khai thác được
khá nhiều thông tin thông qua nguồn sử liệu trực tiếp từ bản thân các di tích và
các di vật hiện cịn của chúng. Trong số các nguồn sử liệu quan trọng ấy, nguồn
sử liệu có từ các văn bản Hán Nơm là một trong những nguồn sử liệu viết quan
trọng góp phần nghiên cứu các di tích và nhiều vấn đề lịch sử có liên quan đến
nhiều ngành khoa học khác nhau như sử học, dân tộc học, kiến trúc, địa lý, tôn
giáo v.v.
Tài liệu Hán Nôm hiện tồn tại ở các di tích lịch sử văn hố được hiển hiện
ở các văn tự trên các vật ghi tin bằng chất liệu khác nhau như: đá, đồng, gỗ, giấy.
Ở chất liệu đá ta có các loại văn tự trên bia đá, khánh đá mà văn bản được người
xưa khắc trên đó được gọi là văn khắc, hay văn bia. Ở miền Bắc Việt Nam, tấm
bia sớm nhất được biết đến là bia "Đại Tuỳ cửu châu quận bảo an đạo tràng chi bi
văn" ở Thanh Hố. Bia có niên đại năm Đại Nghiệp 14 (618), niên hiệu đời Tuỳ.
Nội dung văn bia cho biết ở xã Đông Minh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hố có
ngơi đền thờ Lê Ngọc, hay lê Cốc, Thứ sử quận Cửu Chân đời Tuỳ đã chết và
được chôn cất ở đây. Vị Thứ sử này cũng là người tôn sùng phật giáo, nên sau khi
mất được người đương thời lập Bảo An đạo tràng và dựng bia kỉ niệm. Từ "đạo
tràng" ở đây cũng là từ chỉ ngôi chùa, bởi vào năm Đại Nghiệp thứ 9 (613) Tuỳ
Dưỡng Đế xuống chiếu đổi "tự" (chùa) thành "đạo tràng". Có thể hiểu rằng ngơi
đền ngày nay mà chúng ta đang nhìn thấy vốn có nguồn gốc từ ngơi chùa có niên
đại khởi dựng vào đời Tuỳ năm (618). Như vậy là dựa vào văn khắc Hán Nôm
trên bia đá, chúng ta biết được nguồn gốc của ngôi đền trước đây vốn là một ngôi
9



chùa. Ở một khía cạnh khác, dựa vào minh văn cịn lại ta biết được ngơi đền này
có niên đại khởi dựng vào nửa đầu thế kỷ thứ 7. Đây là tài tiệu lịch sử quan trọng
nói về niên đại xây dựng cho một di tích. Khác với các tài liệu về sau này trong
các văn bản Hán Nôm thường chỉ nói đến niên đại trùng tu chứ khơng nhắc tới
niên đại khởi dựng.
Sự thay đổi về tên gọi của các di tích kiến trúc tơn giáo như đền biến thành
đình cũng được tư liệu Hán Nơm ở đình Xn Đỗ Hạ, phường Cự Khối, quận
Long Biên, thành phố Hà Nội làm sáng tỏ. Ở trước mặt đình Xuân Đỗ Hạ hiện
còn lưu giữ được một tấm bia cổ. Bia do không được bảo quản tốt nên hiện nay
đã bị mờ gần hết, nhưng may thay tên bia vẫn còn đọc được như sau "Hưng tạo
thần từ công đức bi" (tạm dịch là "Bia ghi công đức tôn tạo đền thờ thần"), bia có
niên đại năm Vĩnh Tộ thứ 7 (1626). Từ những dịng chữ tên bia trên, có thể nghĩ
rằng, trước đây trên mảnh đất này mà ngày nay tồn tại đình Xuân Đỗ Hạ, ngày
trước đã từng tồn tại một ngôi đền cổ thờ thần như tên gọi của bia đã ghi lại. Thế
rồi qua biến đổi của thời gian, ngôi đền ngày trước, nay đã được nhân dân gọi là
đình. Bằng cơng nhận di tích lịch sử văn hố do Bộ trưởng Trần Hồn ký năm
1994 cũng gọi là đình Xuân Đỗ Hạ. Nhìn vào những đơn nguyên kiến trúc hiện
nay, người ta cũng dễ ràng nhận ra đây vốn khơng phải là một ngơi đình có kiểu
dáng kiến trúc truyền thống, trên lãnh thổ miền Bắc Việt Nam.
Tại cố đơ Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, có một ngôi chùa tên gọi là chùa Bà
Ngô. Tương truyền, chùa Bà Ngô được xây dựng từ thời Đinh. Đáng chú ý hơn là
ở chùa Bà Ngơ có một tấm bia đá. Bia có niên đại thời Nguyễn, minh văn trên
tấm bia này có ghi "Chùa Bà Ngơ trong ấp ta là một danh lam ở cố đô cũ nước
Cồ Việt" Cồ Việt tức Đại Cồ Việt, quốc hiệu của Việt Nam thời Đinh. Chùa này
thờ Bà Ngô là một nữ thần. Có thể tín ngưỡng thờ nữ thần nơng nghiệp là thần
mây, thần mưa, thần sấm, thần chớp của tín ngưỡng tứ pháp ở trung tâm Luy lâu
đã phát triển và vào thế kỷ thứ X đã kịp lan toả, giao lưu, tiếp xúc và gắn với tín
ngưỡng Phật giáo ở kinh đơ cũ Ninh Bình.
Cũng ở cố đơ Hoa Lư, từ năm 1963, người ta đã liên tiếp tìm được những

cột đá có khắc minh văn liên quan đến Phật giáo. Các cột đá này có chiều dài từ
0,5m đến 0,7m và có 8 mặt. Ở các mặt đều có khắc bài thần chú mà nhà nghiên
cứu phật học, GS. Hà Văn Tấn, cho rằng đó là bài thần chú "Phật đỉnh tôn thắng
đà la ni" bằng chữ Hán ghi âm chữ Phạn của Mật giáo. Đặc biệt hơn, trên một cột
kinh được tìm thấy năm 1964, ngồi bài chú "Phật đỉnh tơn thắng đà la ni", cịn
có một bài kệ chữ Hán khá dài. Thông qua bài kệ này chúng ta còn thấy một thần
điện Phật giáo đại thừa với rất nhiều Phật, nhiều Bồ tát và nhiều các thiên thần
Phật giáo khác nữa.
Như vậy, tư liệu Hán Nôm ở chùa Bà Ngô và những cột kinh ở kinh đô
10


Hoa Lư đã cung cấp cho chúng ta rất nhiều thơng tin liên quan đến tín ngưỡng,
tơn giáo. Dựa vào những thơng tin đã dẫn ở trên, có thể khơng sai khi cho rằng,
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam những năm đầu Công nguyên đã là Phật
giáo Đại thừa và nó tiếp tục phát triển trên mảnh đất này cho đến thế kỷ thứ X
vẫn là Đại thừa giáo. Mặc dù vào thế kỷ X, dịng Mật tơng đã rất phát triển,
nhưng cũng vẫn hoà nhập, đan xen với những tơng phái khác. Bởi vì Phật giáo
Việt Nam ở mọi thời điểm luôn hội đủ 3 yếu tố chính là Thiền- Tịnh- Mật.
Liên quan đến những thơng tin về vấn đề tơn giáo cịn có minh văn trên bia
chùa Báo Ân. Chùa Báo Ân trước thuộc hương Siêu Loại, xứ Kinh Bắc nay thuộc
xã Dương Quang, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Chùa Báo Ân hiện nay
còn lưu giữ khá nhiều bia đá. Minh văn trên bia đá mà chúng tôi muốn giới thiệu
là ở dạng bia bảo tháp (bia mộ). Bia có 4 mặt, trong đó 3 mặt khơng có chữ, mặt
trước lõm vào trong cịn 4 chữ Hán có thể đọc được là Nam thiên trúc quốc, bia
có niên đại thời Nguyễn. Đây là bia mộ của một nhà sư người Ấn Độ. Những
thông tin trên bia mộ gợi cho chúng ta nhớ lại một sự kiện lịch sử, rằng vào năm
1318, nhà sư Pháp Loa vâng chiếu của vua Trần Anh Tơng đi tìm một nhà sư Ấn
Độ có tên là Ban Đề Đa Ô Tha Thất Lợi để dịch một bộ kinh Phật giáo có tên là
"Bạch tấn cái thần chú". Nhà sư Ấn Độ đã đến chùa Báo Ân cùng với Pháp Loa

để dịch kinh Phật giáo, có thể sư đã lưu lại và qua đời ở đây. Cho nên người đời
sau mới lập bia mộ để ghi nhớ sự đóng góp của sư cho Phật giáo Việt Nam. Như
vậy, trong thời Trần, ngoài ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Việt
Nam vẫn còn tiếp tục chịu sự ảnh hưởng của phật giáo Ấn Độ do các nhà sư Ấn
Độ bằng nhiều lý do khác nhau đã đến Việt Nam dịch kinh và trực tiếp truyền bá
đạo Phật.
Như chúng ta đã biết, đạo Phật được truyền vào Việt Nam ngay từ những
năm đầu công nguyên. Nhưng phải đợi đến thời Lý, đạo Phật mới phát triển có
thể nói là thịnh vượng nhất tính đến thời điểm này. Ở thời Lý, Nhà nước đã trực
tiếp quản lý các ngôi chùa nổi tiếng. Những ngôi chùa này, phần lớn do Nhà nước
bỏ tiền ra xây dựng. Có thể chia chúng thành ba loại là: đại danh lam, trung danh
lam và tiểu danh lam . Nhưng bước sang thế kỷ 16, quyền sở hữu các ngôi chùa
của tầng lớp quý tộc thời Lý - Trần dần dần được chuyển sang sở hữu của cộng
đồng làng xã. Vì vậy, tín ngưỡng Phật giáo từ thế kỷ 16 trở đi có pha trộn nhiều
yếu tố dân gian, do đó hệ thống tượng thờ trong các chùa cũng ngày càng đa dạng
hơn. Một lần nữa minh văn trên bia đá có niên đại 1556 thuộc thời Mạc ở chùa
Phúc Giao thôn An Tiêm, xã Thụy Dân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình lại
chứng tỏ điều đó. Theo minh văn thì chùa này ở thế kỷ 16 có 10 pho tượng thờ
là: Thích ca, Kim thân, Nam tào, Bắc đẩu, Thánh phụ, Thánh mẫu, Diệu âm, Diệu
nhan, Kim đồng, Ngọc nữ, cùng 2 pho tượng Hộ pháp. Rõ ràng là ở phật điện này
11


chỉ có Thích ca, Kim thân, Hộ pháp là tượng thờ của chùa Phật, số còn lại là
tượng thờ của Quán đạo. Trong khi đó ở chùa Sổ (Hà Nội), số lượng tượng cịn
lại khá đầy đủ nhưng lại khơng có tài liệu nào nhắc tới cách gọi tên cụ thể các
loại tượng đó, làm cho nhiều nhà khoa học lúng túng trong nghiên cứu. Như vậy
tên gọi các loại tượng thông qua minh văn của bia chùa Phúc Giao sẽ bổ sung cho
tên gọi của những pho tượng còn chưa được gọi tên ở chùa Sổ và những ngôi
chùa khác trên miền Bắc Việt Nam cũng ở tình trạng tương tự.

Trước đây, khi nghiên cứu về chùa Thầy (Quốc Oai- Hà Tây), một số tác
giả như Hà Kỉnh (1985) cho rằng: Vào thời Lý có bà chúa Nành đã đứng ra hưng
công sửa chữa chùa Thầy và làm to như bây giờ. Nhưng theo minh văn của bia có
niên đại 1673 hiện còn trên núi Thầy cho biết : Cung tần Lê Thị Ngọc Trác quê ở
phủ Thường Tín, huyện Thượng Phú, xã Thượng Dực đã cúng số ruộng của mình
cho xã Thụy Khuê, huyện An Sơn, phủ Quốc Oai. Ngồi ra, bia "Hưng tạo sự
cơng" niên đại năm Dương Đức thứ 7(1673), hiện ở nhà tổ chùa Thầy cũng nói
về người cúng ruộng cơng đức là bà Lê Thị Ngọc Trác.
Những tư liệu ít ỏi của minh văn 2 bia có cùng niên đại 1673 và cùng nói
về việc cúng ruộng công đức của bà Lê Thị Ngọc Trác để hưng công sửa chữa
chùa Thầy càng làm cho chúng ta tin rằng: bà chúa Nành, hay là bà Lê Thị Ngọc
Trác đã góp tiền của để sửa chữa chùa Thầy, về thời gian, vào thời Hậu Lê chứ
không phải là vào thời Lý như một số người đã nghĩ.
Tư liệu Hán Nơm ở các di tích lịch sử văn hố cịn để lại rất nhiều thơng
tin có giá trị thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: quân sự, địa danh, nhân danh,
địa lý hành chính. Chúng được hiển hiện ở những vật ghi tin bền vững không
thua kém gì chất liệu đá, đó là vật liệu đồng. Trên các chuông đồng thời Tây Sơn
ở chùa Chúc Thánh thôn Nhân Trạch, xã Phú Lương, Thanh Oai, Hà Nội có ghi
về cấp bậc và tước hiệu trong quân đội: Đại đô đốc Quảng Uy Hầu, đại đô đốc
Phong Thức Hầu, Đại đơ đốc Đơng Lĩnh Hầu, Tham lĩnh Thái Hồ Hầu, Phó đề
lĩnh Nhật Đức Hầu, Chưởng cơ Trần Võ Hầu.
Về bộ máy hành chính ở địa phương, minh văn chng qn Thiền Vương hiện
lưu giữ tại đền Sóc (quận Tây Hồ, Hà Nội) thời Tây Sơn có ghi: Quan viên
hương lão, sắc mục, cai trưởng xã, khám, thôn trưởng.
Về địa danh hành chính ở, minh văn trên chng đồng thời Tây Sơn ở một
số ngôi chùa ở Hà Nội cũng cho chúng ta hiểu biết thêm về tên các địa danh cũ,
vùng đất cũ trước kia thuộc vùng đất nào của nước Đại Việt. Ví dụ như minh văn
chùa Hộ Quốc (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) có ghi: Lương y Hồng Cơng Huấn
ở thơn Đơng, xã n Lý, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu (Nghệ An); Hội chủ
Lưu Bá Thực tự Chiêu Bảo quê ở thôn Quan Nhân, xã Nhân Mục Môn, cư trú tại

giáp Thượng Môn hạ, phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên,
12


kinh đô Thăng Long; Hội chủ Trần Văn Nghiên, quê ở xã Phú Đường, huyện
Giao Thuỷ, phủ Thiên Trường cư trú tại châu Hộ Quốc, huyện Thọ Xương, kinh
đô Thăng Long.
Như vậy, thông qua tư liệu được ghi trên các bài minh văn của các chuông
đã dẫn ở trên. Chúng ta có thể rút ra phiên chế hành chính của triều đại Tây Sơn
từ triều đình trung ương xuống đến các địa phương là: Nước (Quốc gia)- đạophủ- huyện- xã- thơn. Nếu ở kinh thành thì phiên chế sẽ là: Nước- đạo- phủhuyện- phường- giáp. Nếu tổng hợp địa chỉ của các di tích, địa chỉ quê quán, nơi
cư trú của những người công đức ở minh văn của chuông đồng riêng ở thời Tây
Sơn thơi, chúng ta sẽ có một nguồn tài liệu về một số mặt ở một số nơi khơng
những ở khu vực Hà Nội mà cịn có cả một số địa phương khác nữa.

liệu
Hán
Nơm
hiện
cịn
tại
các
di
tích
lịch
sử
văn
hố
hiện
nay
liệu

đang
chữ

viết
những
hiện
nguồn
vắng
mặt
liệu
trên
q
các
giá
cuốn
bổ
sử
sung
biên
cho
niên
nguồn
cịn
sử
lưu
giữ
chúng
được
ta
của

hiện
nước
nay
ta
vốn
hiện
đã
ít
nay.
ỏi

Những
những
sự
kiện
được
ghi
của
chép
nhiều
trong
những
thơng
trang
tin
về
dịng
các
lĩnh
của

những
vực
khác
cuốn
nhau
sử
ấy
của
vẫn
nhiều
cịn
thiếu
mặt
hoạt
rất
động
các
văn

hội.
bản
Hán
Khai
Nơm
thác
tại

các
sử
di

dụng
tích
triệt
lịch
để
sử
những
văn
hố
thơng

việc
tin
từ
làm
khơng

lĩnh
phải
vực
chỉ
nghiên
riêng
cứu
của
các
nhiều
nhà
hoạt
khoa

động
học
Bảo
của
tàng,
nhiều


lĩnh
cịn
vực
bản
khác
học,
nữa
lưu
như
trữ
sử
học
học,
v.
v.
dân
Ngày
tộc
nay
học,
tại
hán

nơm
di
học,
tích
văn
lịch
học,
sử
văn
hố,
mức
của
nguồn
các
sử
nhà
liệu
quản
q
lý,
gía
thậm
này
chí
vẫn
kể
chưa
cả
được
các

ban
sự
quan
quản

tâm
di
đúng
tích
khắp
sẽ
cả

nước.
ý
thức
Chúng
nhiều
tơi
hơn,
mong
cao
rằng,
hơn
trong
nữa
coi
thời
những
gian

tài
tới
sản
trên
gìn,
thu
như
những
thập

tài
dịch
sản
ra
Việt
chính
văn
nhà
nhiều
mình,
hơn
để
nữa
bảo
để
quản,
sử
dụng
giữ


khai
thác
tay
triệt
chúng
để
ta,
nguồn
khơng

phải
liệu
đi

tìm
cùng
đâu
phong
xa
để
phú
khai
hiện
thác
đang


đặc
việc
biệt

sử
dụng
khơng
bản
phải
quyền
mất
.tư
tiền
để
mua
tài
liệu

trả
tiền
cho

CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
TS. Nguyễn Văn Hiệp

NGƯỜI THỰC HIỆN
TS. Trần Thuận

13



×