Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Các yếu tố hình thành Tư Tưởng Hồ Chí Minh? Trong các yếu tố đó, Yếu tố nào đóng vai trò quyết định với bản chất khoa học và cách mạng của Tư Tưởng Hồ Chí Minh? Tại sao?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA: MARKETING THƯƠNG MẠI
--------    --------

BÀI THẢO LUẬN
Mơn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhóm: 08
Lớp HP: 2004HCMI0111
Giảng viên hướng dẫn: Bùi Hồng Vạn
Đề tài:
1. Các yếu tố hình thành Tư Tưởng Hồ Chí Minh? Trong các yếu tố đó, Yếu tố
nào đóng vai trị quyết định với bản chất khoa học và cách mạng của Tư Tưởng
Hồ Chí Minh? Tại sao?
2. Vận dụng các chuẩn mực trung với nước, hiếu với dân, cần kiệm liêm chính,
chí cơng vơ tư trong Tư Tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng đạo đức, lối sống cho
sinh viên Việt Nam hiện nay.
Hà Nội, tháng 4 năm 2020
1


“Cần,
Liêm, là
của
Nhưng
cây cần
rễ, lại
cành, lá,
quả mới
tồn.
người
Cần,


Liêm,
cịn phải
mới là
hồn
Hồ Chí

Kiệm,
gốc rễ
Chính.
một
có gốc
cần có
hoa,
là hồn
Một
phải
Kiệm,
nhưng
Chính
người
tồn.”
Minh

MỤC

LỤC

2



Đề 1: Các yếu tố hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh? Trong các yếu tố đó, yếu tố nào
đóng vai trò quyết định đối với bản chất khoa học và cách mạng của TTHCM? Tại
sao?
LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua bao nhiêu năm dân tộc ta kháng chiến đánh đuổi giặc ngoại xâm cho tới nay,
Việt Nam ta phải đối mặt với giặc đói, giặc dốt và cả các thế lực phản động ln âm mưu
tìm cách đáng đổ Đảng ta. Bên cạnh đó khi đất nước cũng ngày một thay đổi, đã hịa
mình vào dịng chảy của thế giới. Và trong một thời đại mới chúng ta vẫn thấy được vai
trò của Đảng lãnh đạo dưới sự soi sáng của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể nói TTHCM
chính là sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lenin vào điều kiện cụ thể đất nước
ta.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm tồn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã
hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lenin
vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”.
Từ khái niệm về TTHCM ta có thể hiểu rõ ràng rằng:
Thứ nhất, TTHCM là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc, tư tưởng của
Người là một hệ thống thống nhất như một cơ cấu hồn thiện, trong đó bao gồm các luận
cứ, luận điểm về các giai đoạn cách mạng Việt Nam. Các quan điểm đó bao gồm:
- Tư tưởng về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc.
- Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.
- Tư tưởng về dân chủ và xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Tư tưởng về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới.
Ở mỗi quan điểm này Người lại đi từ việc giải thích vấn đề trước rồi mới đi sâu, chi tiết
vào từng nội dung.
3



Thứ hai, TTHCM là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lenin vào điều
kiện cụ thể của nước ta. Khi tìm được đến với chí nghĩa Mác – Lenin, Người đã mừng
khôn xiết, từ đây Người đã tìm được con đường cứu nước. Tuy mừng khôn xiết như vậy
nhưng khi áp dụng vào cách mạng Việt Nam Người cũng sáng suốt ở chỗ chỉ học hỏi tinh
thần và phương pháp giải quyết vấn đề trong chủ nghĩa Mác – Lenin để giải quyết các
vấn đề của Việt Nam, chứ khơng máy móc, dập khn.
Thứ ba, TTHCM là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại. Thật như vậy, trong các
quan điểm của Người, Người luôn muốn phát huy các giá trị tinh hoa của dân tộc điển
hình là lịng u nước của nhân dân. Người biết những giá trị tinh hoa dân tộc đó chỉ cần
được kết hợp và dẫn dắt của những tri thức tiên tiến trên thế giới thì sẽ trở thành sức
mạnh vô cùng to lớn.
PHẦN NỘI DUNG
I, Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.Cơ sở khách quan:
a. Bối cảnh lịch sử:
*Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến
động.
Trong nước, chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước cuộc xâm lược của
tư bản Pháp, biểu hiện cụ thể bằng việc lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, thừa nhận
nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam.
Cho đến cuối thế kỷ XIX các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “cần vương" do
các sĩ phu, văn thân lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi
thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
Các cuộc khai thác của thực dân Pháp cũng khiến cho xã hội nước ta có sự biến chuyển
và phân hóa, tầng lớp.
Tiểu tư sản và tư sản bắt đầu xuất hiện, tạo ra những tiền đề bên trong cho phong trào yêu
nước - giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Cùng vào thời điểm lịch sử đó, các “tân thư”, “tân văn”, tân báo” và những ảnh hưởng
của trào lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung Quốc tràn vào Việt Nam, phong trào yêu nước

của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản.
4


Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, các sĩ phu nho học có tư tưởng tiến bộ, thức
thời, tiêu biểu như Phan Bội Châu. Phan Chu Trinh đã cố gắng tổ chức và vận động cuộc
đấu tranh yêu nước chống Pháp theo mục tiêu và phương pháp mới. Song, chủ trương cầu
ngoại viện, dùng bạo lực để khôi phục độc lập của Phan Bội Châu đã thất bại. Chủ trương
“ ỷ Pháp cầu tiến bộ”, khai thông dân trí, nâng cao dân khí trên cơ sở đó mà lần lần tính
chuyện giải phóng... của Phan Chu Trinh cũng khơng thành cơng. Cịn con đường khởi
nghĩa của người anh hùng Hồng Hoa Thám thì vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến”,
chưa phải là lối thoát rõ ràng, hướng đi đúng đắn. Phong trào cứu nước của nhân dân ta
muốn giành được thắng lợi, phải đi theo một con đường mới.

*Bối cảnh quốc tế:
Khi con thuyền Việt Nam còn lênh đênh chưa rõ bờ bến phải đi tới thì lịch sử thế giới
trong giai đoạn này cũng đang có những biến chuyển to lớn.
Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc quyền, đã
xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở
thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.
Có một thực tế lịch sử là trong quá trình xâm lược và thống trị của chủ nghĩa thực dân
tại các nước nhược tiểu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ - latinh, sự bóc lột phong kiến
trước kia vẫn được duy trì, và bao trùm lên nó là sự bóc lột tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh
các giai cấp cơ bản trước kia, đã xuất hiện thêm các giai cấp. tầng lớp xã hội mới.
Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản cuối thế kỷ XIX và nhất là
“sự thức tỉnh châu Á” đầu thế kỷ XX đã dẫn đến một cao trào mới của cách mạng thế
giới với đỉnh cao là Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập Chính quyền Xơ viết,
mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười, nhiều dân tộc vốn là thuộc địa của đế quốc Nga đã được tự do, được hưởng quyền

dân tộc tự quyết, hình thành nên các quốc gia độc lập và dẫn đến sự ra đời của Liên bang
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết (1922).
Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga , với sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (3-1919),
phong trào công nhân trong các nước tư bản phương Tây và phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa phương Đơng càng có quan hệ mật thiết với nhau hơn trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.

5


Ở Hồ Chí Minh cũng như ở nhiều anh hùng, danh nhân khác của dân tộc ta, sự kết hợp
hài hòa giữa những điều kiện khách quan và chủ quan chính là nhân tố có ý nghĩa quyết
định dẫn tới hành động cách mạng và giành thắng
b. Tiền đề tư tưởng Hồ Chí Minh:
*Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Quá trình dựng nước và giữ nước đã hình thành nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam. Đó là truyền thống u nước, đồn kết, là sự cần cù, sáng tạo trong lao động,
anh dũng kiên cường trong chiến đấu, là ý chí vươn lên vượt qua khó khăn, thử thách, là
tinh thần tương thân, tương ái … Trong các giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước truyền thống là
giá trị xuyên suốt lịch sử dân tộc Việt Nam, là tư tưởng, tình cảm cao quý và thiêng liêng
nhất, là chuẩn mực đạo đức cơ bản nhất của dân tộc, là cội nguồn trí tuệ sáng tạo và lòng
dũng cảm của con người Việt Nam.
*Tinh hoa văn hóa nhân loại:

• Văn hố phương Đơng
Về Nho giáo: Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình nhà Nho yêu nước, từ rất sớm đã
chịu ảnh hưởng của Nho học từ người cha và nhiều nhà Nho yêu nước ở quê hương.
Người tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo như: Triết lý hành động, tư tưởng nhập
thế, hành đạo giúp đời, là khát vọng về một xã hội đại đồng, là hòa mục, hòa đồng, là triết
lý nhân sinh tu thân dưỡng tính, đề cao văn hóa, lễ giáo, hiếu học và Người đã phê phán

loại bỏ những yếu tố tiêu cực và thủ cựu của nó.
Về Phật giáo: Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc những tư tưởng tốt
đẹp của Phật giáo như: vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể
thương thân, nếp sống đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo việc thiện, ca ngợi lao động,
phê phán lười biếng, chủ trương gắn bó với dân, với nước.
Khi trở thành người mác xít, Hồ Chí Minh chú ý tìm hiểu chủ nghĩa “Tam Dân” dân
tộc độc lập; dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc của Tơn Trung Sơn, vì thấy trong đó
“những điều thích hợp với điều kiện nước ta”.

• Văn hố phương Tây:
Cùng với tư tưởng triết học phương Đông, Hồ Chí Minh cịn tiếp thu nền văn hóa dân
chủ và cách mạng của phương Tây. Người chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng tự do, bình
đẳng trong Tun ngơn độc lập của nước Mỹ, năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của Đại Cách mạng Pháp, năm 1791.
6


• Chủ nghĩa Mác – Lênin:
Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin trên nền tảng những tri thức văn hóa
tinh túy của nhân loại cùng với sự hiểu biết chính trị phong phú được tích lũy qua hoạt
động thực tiễn đấu tranh vì mục tiêu cứu nước, giải phóng dân tộc của chính mình.
Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đi vào nghiên cứu chủ
nghĩa Mác. Người tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp macxít, nắm lấy cái
tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp biện chứng
của Chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt
Nam, chứ khơng đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở.
Như vậy, chính thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã
giúp Hồ Chí Minh vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình để từ
đó tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ta.

Trong các tiền đề trên, chủ nghĩa Mác- Lênin là tiền đề quan trọng nhất là vì: Chủ
nghĩa Mác- Lênin là thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, là
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,cách mạng nhất, đã chỉ ra con đường giải
phóng dân tộc và phát triển cho dân tộc ta.
1.2.Nhân tố chủ quan:
a. Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh:
Những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới để học tập, nghiên
cứu, Hồ Chí Minh đã khơng ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn, làm phong phú thêm sự
hiểu biết của mình, đồng thời hình thành những cơ sở quan trọng để tạo dựng nên những
thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của Người về sau.
Các nhà yêu nước tiền bối và cùng thời với Hồ Chí Minh tuy cũng đã có những quan
sát, nhưng họ chưa nhận thấy, hoặc nhận thức chưa đúng về sự thay đổi của dân tộc và
thời đại. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh khám phá các quy luật vận
động xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể
để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm
trong thực tiễn. Nhờ vào con đường nhận thức chân lý như vậy mà lý luận của Hồ Chí
Minh mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa học.
b. Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn:

7


Mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của thời đại và sự nhận
thức đúng đắn về thời đại đã tạo điều kiện để Hồ Chí Minh hoạt động có hiệu quả cho
dân tộc và nhân loại.
Có được điều đó là nhờ vào nhân cách, phẩm chất và tài năng trí tuệ siêu việt của Hồ
Chí Minh.
Phẩm chất, tài năng đó được biểu hiện trước hết ở tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,
cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nhận xét, đánh giá các sự vật,
sự việc chung quanh.

Phẩm chất, tài năng đó cũng được biểu hiện ở bản lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân
dân; khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi; nhạy bén với cái mới, có phương pháp biện chứng,
có đầu óc thực tiễn. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã khám phá ra lý luận cách mạng thuộc
địa trong thời đại mới, trên cơ sở đó xây dựng một hệ thống quan điểm tồn diện, sâu sắc
và sáng tạo về cách mạng Việt Nam, kiên trì chân lý và định ra các quyết sách đúng đắn,
sáng tạo để đưa cách mạng đến thắng lợi.
Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh cịn biểu hiện ở sự khổ công học tập để chiếm
lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại, là tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính, một chiến
sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước thương dân, sẵn sàng chịu đựng
hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của đồng bào.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hịa của những điều kiện khách quan
và chủ quan, của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.
Từ thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển hóa sắc sảo, tinh
tế với một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tư
tưởng Việt Nam hiện đại.
II. Yếu tố đóng vai trị quyết định đối với bản chất cách mạng và khoa học của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
2.1.Yếu tố đóng vai trị quyết định đối với bản chất cách mạng và khoa học của tư
tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
Đối với Người, đến với chủ nghĩa Mác-Leenin cũng có nghĩa là đến với con đường
cách mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước chân chính, triệt
để: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường
8


cách mạng vơ sản” và “Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân
tộc; Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của
cách mạng thế giới ”

So với chủ nghĩa Mác-Leenin; tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh có bước nhảy vọt
lớn: Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp dân tộc với giai
cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; nâng chủ nghĩa yêu nước lên một trình độ mới
trên lập trường chủ nghĩa Mác-Lenin.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Chủ nghĩa
Mác-Lenin là chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất, “Muốn cách
mạng thành công, phải đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ nghĩa Lenin”. Đối với
Người, chủ nghĩa Mác-Lenin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học để giải
quyết những vấn đề do thực tiền đặt ra. Người không bao giờ rời xa chủ nghĩa MácLênin, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.
Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu bản chất
khoa học và cách mạng của học thuyết này. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Kết quả vận dụng sáng tạo và
phát triển đó là tư tưởng Hồ Chí Minh, sự bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
2.2. Lý giải (các) yếu tố đóng vai trị quyết định đối với bản chất CM và KH của
TTHCM:
Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống các quan điểm lý luận và phương pháp khoa
học được kết tinh và là đỉnh cao thành tựu trí tuệ của lồi người, của tinh hoa văn hoá mà
nhân loại đã sáng tạo ra.
Mác-Ăngghen cũng như Lênin đã kế thừa có chọn lọc những thành tựu khoa học,
những giá trị tư tưởng và văn hố, những tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội mà nhân loại đã
đạt được; bằng thiên tài của trí tuệ cộng với sự lao động nghiêm túc, vượt lên mọi trở
ngại, khó khăn, những cám dỗ của vật chất của chế độ chính trị đương thời, các ơng đã để
lại cho nhân loại một di sản vô cùng quý báu, một cơ sở lý luận khoa học. Đây là học
thuyết duy nhất nêu lên mục tiêu chung là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải
phóng con người đem lại cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho con người và chỉ ra
lực lượng, con đường, phương thức đạt mục tiêu đó. Từ khi ra đời chủ nghĩa Mác-Lênin
9



luôn đặt ra mục tiêu, chỉ rõ con đường giải phóng triệt để giai cấp cơng nhân, nhân dân
lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới thốt khỏi tình trạng bị nơ dịch và bóc lột,
thốt khỏi đói nghèo và tha hố về nhiều mặt. Đồng thời, học thuyết đó chỉ ra lực lượng
cách mạng thực hiện sự nghiệp giải phóng và phát triển xã hội là giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, đem lại cho họ niềm tin vào khả năng và sức mạnh của chính mình.
Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng.
Học thuyết đó cũng đã chỉ ra quy luật của sự giải phóng và phát triển xã hội. Đó là quy
luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; về sự chuyển biến từ
hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác không phải diễn ra một
cách tự phát mà phải thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt. Từ đó, MácĂngghen và Lênin đã trực tiếp nghiên cứu sự vận động của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa, tìm ra quy luật về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản cũng như thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội như một tất yếu thông qua cuộc cách mạng xã hội.
Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin còn thể hiện ở chỗ: Đó là
học thuyết mở, khơng cứng nhắc, bất biến mà nó địi hỏi ln được bổ sung, tự đổi mới,
tự phát triển trong dịng phát triển trí tuệ của nhân loại.
Mác-Ăngghen cũng như Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông không
phải là cái đã xong xuôi, bất biến, không phải là giáo điều mà chỉ là kim chỉ nam cho
hành động. Nó gắn liền với sự phát triển của phong trào cách mạng, với thực tiễn vận
động của lịch sử, hay nói cách khác, học thuyết đó chỉ đưa ra cơ sở và phương pháp luận
cho suy nghĩ và hành động. Điều đó hồn tồn xa lạ với chủ nghĩa giáo điều xơ cứng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về sự phát triển, bao hàm cả sự phát triển của
chính học thuyết đó với tinh thần phê phán và tự phê phán. Bởi lẽ, có nhiều vấn đề mà
các ơng chưa có điều kiện, thời gian nghiên cứu, làm sáng tỏ hoặc do hạn chế của lịch sử
nên những luận điểm của các ông cần phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Các ơng
địi hỏi những người cách mạng đời sau bổ sung và phát triển làm cho học thuyết đó hồn
chỉnh. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học
của Hồ Chí Minh, nhờ đó mà Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã có bước phát triển về
chất từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn. Thế giới quan và phương pháp luận Mac – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh
tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước: “trong cuộc
10


đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mac – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi
hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới”; “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lênin”.
Chính trên cơ sở của lý luận Mác-Lênin, Người đã tiếp thu và chuyển hố những nhân
tố tích cực, những giá trị và tinh hoa văn hoá của dân tộc và của nhân loại để tạo nên tư
tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định
điều đó. Khi chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin vào nước ta
với tư tưởng chỉ đạo: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào
khách, con đường cách mạng vô sản”, cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta mới thốt
ra khỏi cuộc khủng hoảng về tư tưởng và có được tơn chỉ hành động đúng đắn. Từ chủ
nghĩa yêu nước đó là cơ sở ban đầu thúc đẩy Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin, làm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam nâng tầm cao mới, “độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội”. Chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ
Chí Minh, giúp cho việc phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại có định hướng khoa học và cách mạng đúng đắn. Tư tưởng
văn hóa nhân loại làm phong phú và sâu sắc thêm chủ nghĩa yêu nước và tư tưởng xã hội
chủ nghĩa ở Hồ Chí Minh.

Như vậy, có thể nói chủ nghĩa Mác – Lênin chính là yếu tố quan trọng và quyết định
trực tiếp tới bản chất khoa học và cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh.
TỔNG KẾT
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã hồn thành sự nghiệp
cách mạng dân tộc dân chủ. Sau hơn 35 năm đổi mới, nước ta đã chuyển sang thời kì phát
triển mới, thế và lực được nâng cao. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng. Chính vì thế tồn Đảng, tồn dân cần tiếp tục nghiên cứu và
quán triệt sâu sắc, vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, nắm vững quy luật độc lập dân tộc gắn liền
với dựng nước và giữ nước, thực hiện chính sách đối ngoại hịa bình, tự chủ, hợp tác và
phát triển, góp phần hình thành một trật tự thế giới mới cơng bằng và bình đẳng.
Tài liệu tham khảo:
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB: Chính trị quốc gia
11


Hồ Chí Minh: tồn tập, t.6, tr.320-321

Đề 2: Vận dụng các chuẩn mực trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính,
chí cơng vơ tư trong Tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng đạo đức, lối sống cho sinh
viên Việt Nam hiện nay.
LỜI MỞ ĐẦU
12


Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi
đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng thì mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có
nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người

cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng
lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”.
Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh khơng có nghĩa là tuyệt đối hố mặt đức,
coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà khơng có đức là người vơ dụng nhưng có đức
mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết
hợp với nhau để hồn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, có thể khái quát những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người
Việt Nam trong thời đại mới là: Trung với nước, hiếu với dân; Yêu thương con người;
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư và tinh thần quốc tế trong sáng.
PHẦN NỘI DUNG
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các chuẩn mực trung với nước, hiếu với dân; cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
1.1.Các chuẩn mực: trung với nước, hiếu với dân
Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đơng,
được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Trung
với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành
độc lập dân tộc và làm cho đất nước "sánh vai với các cường quốc năm châu". Nước là
của dân, dân là chủ đất nước, cho nên "trung với nước" là trung với dân, trung thành với
lợi ích của nhân dân, "bao nhiêu quyền hạn đều của dân"; "bao nhiêu lợi ích đều vì dân"...
Hiếu với dân là Đảng, Chính phủ, cán bộ nhà nước phải là "đầy tớ trung thành của dân";
phải "tận trung với nước, tận hiếu với dân".
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân phải gắn bó với dân, gần
dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm
cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của
người làm chủ đất nước.
13



1.2. Các chuẩn mực: cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư
- Cần: là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất
cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỉ lại, không dựa
dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc
của mỗi chúng ta”
- Kiệm: là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm của dân, của nước, của
bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa
bãi, khơng phơ trương, hình thức, …”. Cần, kiệm là phẩm chất của tất cả người lao động
trong đời sống, trong công tác.
- Liêm: là trong sạch, là “luôn tơn trọng, giữ gìn của cơng và của dân”, “khơng xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; không tham địa vị, không
tham tiền tài, …”. Liêm là phẩm chất của người cán bộ trong thi hành cơng vụ.
- Chính: là ngay thẳng, khơng tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình khơng tự cao,
tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ
chân thành, khiêm tốn, đồn kết. Đối với việc thì để việc cơng lên trên, lên trước việc tư,
việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng
làm; việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh”.
- Chí cơng: là rất mực cơng bằng, cơng tâm; vơ tư là khơng được có lịng riêng, thiên
tư, thiên vị “tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán”, đem lịng chí cơng, vơ tư đối với người,
với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình
nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn “chí cơng vơ tư” phải chiến thắng
được chủ nghĩa cá nhân. Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người “giữ cán cân cơng
lý”, khơng được vì lịng riêng mà chà đạp lên pháp luật.

 Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau, với chí cơng vơ tư. Cần,
kiệm, liêm, chính dẫn đến chí cơng vơ tư. Ngược lại, đã chí cơng vơ tư thì nhất
định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.

II. Vận dụng vào cơng cuộc xây dựng đạo đức, lối sống cho sinh viên
2.1.Thực trạng sinh viên hiện nay

a.Tích cực
Ln được trau dồi, bồi dưỡng đạo đức Cách Mạng.
14


Cố gắng học tập tốt, rèn luyện tốt, hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình hay tham gia
nghiên cứu khoa học. Các bạn học sinh, sinh viên ln tích cực tham gia các hoạt động
tình nguyện như đi giúp đỡ các bà con ở vùng khó khăn, tổ chức các chương trình cho
các em nhỏ ở trại mồ cơi,.. hay đơn giản hơn các CLB vận động hiến máu luôn diễn ra
thường xuyên ngay tại cổng trường đại học thu hút nhiều sinh viên tham gia.

Tự giác thực hiện chính sách, pháp luật, tơn trọng kỷ cương. Chỉ những việc như chấp
hành luật giao thông cũng đã thể hiện ý thức của mỗi người hay chỉ đơn giản như việc
không gian lận trong việc thi cử cũng thể hiện được phẩm chất của 1 người sinh viên.
Phần lớn sinh viên đều có lựa chọn ngành học của mình và bắt đầu đi làm thêm, trau
dồi kĩ năng khi còn đang trong q trình đi học.
Ln ủng hộ, tun truyền những văn hóa, hành động tốt đẹp và tẩy chay những việc
làm, hành động xấu ảnh hưởng đến cộng đồng và mọi người xung quanh.

15


Lao động tích cực, hăng hái, làm giàu chính đáng. Ở Việt Nam có rất nhiều sinh viên
khởi nghiệp với những món đồ tưởng chừng nhỏ nhưng đem lại ý nghĩa rất lớn như ống
hút tre bảo vệ môi trường,…

Giới trẻ hưởng ứng hoạt động Ống hút tre vì mơi trường
Hay đơn giản là có ý thức bảo vệ mơi trường, không vứt rác bừa bãi, không tàn phá
rừng, không hủy diệt muông thú. Trong thời điểm dịch bệnh lây lan, có rất nhiều các bạn
trẻ cùng nhau kêu gọi ủng hộ và quay các video clip tuyên truyền về việc phịng tránh và

chống dịch
Và thậm chí, nói một câu tiếng Việt đúng ngữ pháp, văn cảnh, thể hiện sự tự tơn với
ngơn ngữ, văn hóa của dân tộc mình, cũng là biểu hiện của lịng u nước.
Trong tình hình dịch diễn biến khá phức tạp thì chúng ta cũng có thể nhìn thấy được
lịng u nước cũng như đức tính của đại bộ phận sinh viên Việt Nam nói riêng và tồn
thể nhân dân Việt Nam nói chung. Ln có ý thức phịng chống dịch, ủng hộ nước nhà kể
cả từ những việc nhỏ như nhường lại kí túc xá phục vụ cơng tác cách ly, tun truyền có
chia sẻ những thông tin đúng đắn về dịch bệnh,…. Bộ phận du học sinh từ nước ngoài trở
về thực hiện tốt công tác khai báo và cách ly để tránh lây nhiễm, nhiều bạn còn chia sẻ về
cuộc sống của mình trong khu cách ly đem lại những phản hồi tích cực từ cho mọi người.

16


Hình ảnh tồn bộ sinh viên ở khu kí túc xá Mỹ Đình nhường chỗ cách ly phịng chống
dịch COVID19
b, Những biểu hiện suy thoái của sinh viên.
Thứ nhất: Nhận thức mơ hồ về chính trị- xã hội, phai nhạt về mục tiêu lý tưởng cách
mạng
Hiện nay, nhiều sinh viên có nhận thức mơ hồ về chính trị- xã hội, phai nhạt về mục
tiêu lý tưởng cách mạng. Họ thiếu niềm tin vào con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta mà gọi chung là suy thối về tư tưởng chính trị. Những biểu hiện về suy thối
tư tưởng chính trị là: Phai nhạt lý tưởng cách mạng, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai
trái; Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính
trị, lười học tập Chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,...
Một bộ phận thanh niên còn mơ hồ về lý tưởng, chưa nhận thức được tình hình, nhiệm
vụ của giai đoạn cách mạng mới, chưa xác định được trách nhiệm của thanh niên nói
chung và của bản thân nói riêng. Theo báo cáo của Vụ Công tác học sinh sinh viên ( Bộ

Giáo dục và Đào tạo) cho biết có “ làn sóng ngầm” trong sinh viên khi thể hiện thái độ
đòi bỏ các môn khoa học Mác Lê- nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại
17


học, cao đẳng,... Trung ưng Hội sinh viên Việt Nam đã tổng kết: Vẫn còn một bộ phận
nhỏ sinh viên nhận thức chính trị kém, khơng chịu phấn đấu rèn luyện, lập trường tư
tưởng không vững vàng, mờ nhạt về lý tưởng, lối sống buông thả chạy theo đồng tiền và
những thị hiếu tầm thường, dễ bị lôi kéo vào những tệ nạn xã hội,...
Nhiều sinh viên thường ca cầm về sự thiếu thốn, lạc hậu của đất nước, chê bai đất
nước và con người Việt Nam.
Đặc biệt một số nơi sinh viên còn mơ hồ về âm mưu, hoạt động chống phá cách mạng
Việt Nam của các thế lực thù địch và đã bị kích động, lơi kéo, tiếp tay cho họ thực hiện
âm mưu “ Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng- văn hóa.

Một trong những nhóm do một số thành phần phản động lập nên để chống phá, bôi
nhọ danh dự của Đảng và Nhà nước
Thứ hai: Thiếu ý thức tập thể, ý thức trách nhiệm vì cộng đồng, tơn thờ lối sống vị kỉ.
Sinh viên hiện nay thường mắc “ bệnh vô cảm”, mang trái tim xơ cứng, không cảm
xúc buồn vui trước nỗi đau của người khác, không “ dị ứng” với cái ác, cái xấu, cái phi
nhân tính đang diễn ra,.. Họ thường sống khép mình, đề cao và chạy theo lối sống thực
dụng, sống vội, sống ích kỉ, ham hưởng thụ,...
18


Một sự thật đau lòng mà chúng ta vẫn thường “ được” chứng kiến, đó là trong những
cuộc ẩu đả, bạo lực học đường có rất nhiều người đứng vây quanh để xem, bình luận,
thậm chí là a dua, cổ vũ nhưng lại hiếm có ai đứng ra ngăn cản, hay báo cho lực lượng
chức năng để ngăn chặn.


Một nhóm thanh thiếu niên tổ chức đua xe trái phép ở Hà Nội trong khi đất nước
đang thực hiện giãn cách xã hội phòng ngừa COVID 19
Nhiều sinh viên chỉ quan tâm đến việc vui chơi vô bổ mà quên mất việc học tập để mở
mang kiến thức và hoàn thiện nhân cách.
Sinh viên bộc lộ đòi hỏi nhiều hơn là sự hy sinh, hưởng thụ nhiều hơn đóng góp,...
Thứ ba: Một bộ phận sinh viên chưa thực sự trau dồi học vấn, tri thức và nghiên cứu
khoa học,...
Nhiều sinh viên đối phó với nội quy, quy chế nhà trường, coi thường nội quy, kỷ luật
trong trường. Vì vậy, có nhiều sinh viên trốn học, nhờ học hộ, thi hộ, quay cóp bài.

19


Ở nhiều sinh viên có hiện tượng chạy điểm, chạy bằng,... khơng trung thực trong học
tập, thi cử,....ví dụ như tình trạng gian lận điểm thi trong kì thi THPTQG 2018.
Khơng ít sinh viên sống thiếu lý tưởng, hồi bão, thiếu động cơ học tập. Việc học hành
của một bộ phận sinh viên cịn mang tính đối phó: đối phó với kỳ vọng và sự quan tâm
của bố mẹ, gia đình, với quy chế của nhà trường, với sự kiểm tra của thầy cô.
Nhiều sinh viên không chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông. Nguyên nhân là
do các bạn khơng tham gia các chương trình, dự án hay tìm hiểu về pháp luật an tồn giao
thơng,...
Thứ tư: Đời sống văn hóa đạo đức của một bộ phận sinh viên diễn biến theo chiều
hướng phức tạp, xa rời các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc ( nhân ái, vị
tha, nghĩa tình, trung thực).
Yếu tố tiêu cực rõ nét nhất trong đạo đức của sinh viên hiện nay là lối sống cá nhân
thực dụng, xa rời đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Khi xa rời những giá trị đạo
đức truyền thống, họ tìm đến những thứ văn hóa lai thiếu chọn lọc.
Nhiều sinh viên ăn mặc phản cảm, không phù hợp với thuần phong mỹ tục của Việt
Nam.
Có một bộ phận sinh viên hiện nay quan niệm lệch lạc về tình yêu, họ rút dần khoảng

cách giữa tình yêu và tình dục. Tình trạng sinh viên “ sống thử” và quan hệ trước hôn
nhân ngày càng nhiều, đồng thời tỉ lệ nạo phá thai cũng ở mức báo động.
Văn hóa ứng xử của sinh viên có nhiều vấn đề đáng báo động, đặc biệt là hiện tượng
nói tục, chửi thề. Chỉ cần đi một vòng quanh trường hay ở trong một lớp học chúng ta
khơng khó để nghe thấy những câu nói tục chưởi thề ấy. Nhiều sinh viên tỏ ra là người
thanh lịch nhưng khi giao tiếp vẫn sử dụng những ngôn ngữ pha tạp, làm vẩn đục sự
20


trong sáng của tiếng Việt. Nhiều sinh viên thiếu các kĩ năng giao tiếp, ứng xử, thái độ
thường khơng hịa nhã, thiếu thân thiện, thậm chí cịn vơ lễ, thiếu tôn trọng với cán bộ,
giảng viên, nhân viên trong nhà trường,...
Nhiều sinh viên đánh bạc, rượu chè bê tha, không làm chủ được hành vi, lời nói của
mình, đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến những cuộc đánh lộn, ẩu đả,....
Những sách báo không lành mạnh, những băng đĩa phim sex được các bạn trẻ trao cho
nhau cách dễ dàng, những quán karaoke buổi tối, những vũ trường, quán bar thâu đêm có
rất nhiều bạn sinh viên tham gia,... Mặt khác, tình trạng đua xe cũng là một trong những
vấn đề nổi cộm đang được diễn ra ở nhiều nơi.
Có nhiều tệ nạn xã hội trong sinh viên nảy sinh và lan rộng một cách chóng mặt: lơ đề,
cờ bạc, ma túy, bạo lực học đường, tôi phạm xã hội, mại dâm,...
Những thực tế về biểu hiện suy thoái nêu ra trên đây đã gióng lên hồi chng báo động
ở một bộ phận sinh viên Việt Nam hiện nay. Mỗi sinh viên cần ý thức được trách nhiệm,
lý tưởng của mình, cần nỗ lực học tập, phấn đấu và rèn luyện, trau dồi bản thân đặc biệt
là trau dồi đạo đức, nhân cách ngày một tốt hơn để xứng đáng là một thế hệ trẻ Việt Nam
năng động, giỏi giang, nhiệt huyết, có ý thức trách nhiệm với cộng đồng, góp phần đưa
đất nước ngày một phát triển, giàu đẹp, sánh vai với cường quốc năm châu.
2.2. Nguyên nhân dẫn tới mặt tiêu cực về đạo đức giới trẻ:
a. Nguyên nhân khách quan:
- Đời sống xã hội nước ta những năm gần đây có nhiều chuyển động mạnh mẽ, ngày
càng hội nhập sâu với thế giới, lối sống phóng túng từ một bộ phận giới trẻ phương Tây

cũng tràn vào, tác động không nhỏ đến nhận thức, hành vi của một bộ phận dân cư, trong
đó có giới trẻ
- Do nhà trường đã chưa đủ sức trở thành tấm gương, nguồn sức mạnh giáo dục răn đe
con trẻ. Nhiều thầy cô đã tạo nên những áp lực học tập quá mức, không cần thiết, thiếu
minh bạch, công tâm, đôi lúc chưa thực sự gương mẫu trước các em. Trong giáo dục chưa
coi trọng tình người, cịn nể nang, trù úm học sinh có những biểu hiện đạo đức yếu kém.
- Do gia đình đã thiếu sự quan tâm đến con cái, thả lỏng, buông trôi việc giáo dục đạo
đức, con cái mình, phó mặc cho nhà trường.
- Hành vi đạo đức của một số em có chịu tác động xúi bẩy của một số người hoặc nhóm
bạn xấu trong lớp mà nhà trường, thầy cô giáo chưa biết cách ngăn chặn kịp thời
b. Nguyên nhân chủ quan:
21


- Hầu hết một số bạn trẻ có biểu hiện tiêu cực đang trong giai đoạn phát triển mạnh về thể
chất, tâm lý, hình thành và hồn thiện nhân cách, ln muốn thể hiện, muốn tự khẳng
định mình, sự đề kháng trước cái xấu hạn chế nên dễ bị ảnh hưởng bởi tác động tiêu cực
bên ngoài xã hội.
- Bản thân các bạn trẻ ngày nay thiếu các kỹ năng sống cơ bản để thích nghi với đời sống
kinh tế - xã hội biến đổi nhanh chóng, coi nhẹ đạo đức, bỏ ngồi tai những bài răn dạy
đời của ơng bà bố mẹ.
3. Đề xuất những cách thức vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng đạo đức,
lối sống cho sinh viên
*Về chủ quan:
Trong cả sự nghiệp của Bác, tài và đức luôn là hai điều kiện song hành để Bác dùng
người. Trong giáo dục cũng vậy, việc giáo dục đạo đức đi kèm với giáo dục tri thức ln
được Bác chú trọng, Bác từng nói “ có tài mà khơng có đức thì vơ dụng, có đức mà
khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Hồ Chí Minh đã sớm xác định các phẩm chất đạo đức tối cần thiết ở sinh viên để sinh
viên có phương hướng rèn luyện. Bản thân sinh viên cũng cần phải học tập, rèn luyện bản

thân theo các nội dung cơ bản sau:

 Trung với nước, hiếu với dân:
Sinh viên phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành
với con đường đi lên của tổ quốc, khơng làm việc gì tổn hại đến lợi ích quốc gia dân tộc.
Đồng thời phải có lịng tự tơn dân tộc, tự hịa với những gì mà cha ơng ta đã làm được.
Trong thời điểm hiện tại, việc thể hiện sự trung thành với Tổ quốc của sinh viên thể hiện
ở việc cố gắng học tập chun mơn, có sự hiểu biết sâu rộng để phát triển đất nước đồng
thời rèn luyện đạo đức nói chung và đạo đức cách mạng nói riêng.
Đối với sinh viên thì hiếu với dân gắn liền với việc học để có trở thành tầng lớp trí
thức mũi nhọn, đưa đời sống của nhân dân đi lên, góp phần vào q trình cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước, tham gia xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân.
Cần: là sinh viên của một trường đại học thì nhiệm vụ của một người sinh viên là tích
cực học tập nâng cao trình độ bản thân để sau này ra trường trang bị được những kiến
thức phục vụ cho bản thân và xã hội. Khơng phải học để đối phó, học để lấy điểm mà cái
chủ yếu là lấy kiến thức cho mình, khơng được nhìn bài, khơng hiểu thì phải hỏi khơng
giỏi thì phải học. Sinh viên là thế hệ trẻ của đất nước phải cần cù, như Bác đã nói “cần cù
22


bù thơng minh”, nếu khơng cần cù thì là một con người lười nhác, khơng làm được việc
gì.
Kiệm: khi mà đang ngồi trên ghế nhà trường chưa có cơng việc, kéo theo là bản thân
chưa kiếm được tiền, vật chất, cuộc sống cịn phụ thuộc gia đình, nên tiết kiệm, dành thời
gian rảnh rỗi để làm những việc có ích hơn như: làm tình nguyện, thể dục thể thao, tìm
kiếm thông tin để tăng hiểu biết hơn… Không để lãng phí thời gian với những cơng việc
vơ bổ như cắm đầu vào game, đi chơi…
Liêm: là một đức tính tốt của con người cũng như trong xã hội hiện nay, đức tính này
thể hiện một con người có tính cách liêm chính. Từ đó như sinh viên chúng ta cần phải
rèn luyện đức tính này để sau này phục vụ cho đất nước cũng như bản thân: khi mà trong

môi trường học đường hiện nay phục vụ cho việc đào tạo con người mới, con người của
xã hội hiện đại vật chất quyết định đến tính cách mỗi con người. Liêm chính, hay liêm
khiết đã được Bác nhắc đến đặc biệt với những cán bộ đảng viên thì đức tính liêm thể
hiện được một đất nước giàu mạnh. Là sinh viên thì chúng ta khơng nên nịnh hót ưa nịnh
cũng như quá tự kiêu dẫn đến mọi người xem thường đó là việc chúng ta khơng nên làm,
việc cần làm là sống một cách giản dị nhưng không thể thiếu những thứ quan trọng khác.
Chính: là bản thân thì cần phải tơn trọng người khác khơng xem thường những người
khó khăn, những người kém may mắn mà cần phải giúp đỡ họ hơn nữa, mặt khác cũng
nịnh bợ để được lợi từ việc này. Hãy sống với đúng khả năng của mình từ việc rèn luyện
học tập khơng ngừng, trau dồi đạo đức kiến thức thực tế hơn làm cho mỗi sinh viên là
một cơng dân tốt của xã hội.
Chí cơng vơ tư: là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng
phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là để người cách mạng vững
vàng qua mọi thử thách: “Giàu sang khơng quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, uy
vũ khơng thể khuất phục”. Thực hiện chí cơng, vơ tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá
nhân, lối sống thực dụng. Đối với sinh viên chúng ta cần phải thẳng thắn, trung thực, bảo
vệ chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm
tốn; khơng chạy theo chủ nghĩa thành tích, khơng bao che, giấu giếm khuyết điểm của
bản thân; kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ; nói nhiều, làm ít.
Sinh viên hiện nay cần cố gắng nhiều hơn nữa, nỗ lực hơn nữa để xứng đáng với niềm
tin của Bác. Và học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cũng là cách giúp
chúng ta hồn thiện bản thân mình. Có nhiều cách để học tập, làm theo tấm gương của
Bác, trước hết chúng ta thực hiện chính những lời dạy của Bác về thanh niên, rèn luyện

23


những phẩm chất đạo đức mà Bác đòi hỏi ở thế hệ tương lai của nước nhà. Sinh viên cần
thực hiện tốt 5 điều Bác dặn thanh niên:
Một là: phải ln ln nâng cao chí khí cách mạng “Trung với nước, hiếu với dân,

nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng”; không sợ gian khổ, hi sinh, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và anh dũng chiến
đấu, xung phong đi đầu trong sự nghiệp cách mạng.
Hai là: tin tưởng sâu sắc ở lực lượng và trí tuệ của tập thể, của nhân dân; tăng cường
đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau; nâng cao ý thức tổ chức và kỉ luật; kiên quyết chống chủ
nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tự do.
Ba là: luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn và giản dị; chống kiêu căng,
tự mãn; chống lãng phí, xa hoa; thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh để giúp
nhau cùng tiến bộ mãi.
Bốn là: ra sức nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học, kĩ thuật và quân sự để
cống hiến ngày càng nhiều hơn cho Tổ quốc, cho nhân dân.
Năm là: ln ln chú ý dìu dắt và giáo dục thiếu niên và nhi đồng, làm gương tốt về
mọi mặt cho đàn em noi theo.
Nếu thực hiện được những lời căn dặn trên đây của Bác, là chúng ta đang giáo dục bản
thân mình một cách tồn diện, sống tốt hơn và cống hiến nhiều hơn cho đất nước và xã
hội.
Mỗi sinh viên chúng ta phải thấm nhuần giá trị đạo đức tấm gương Hồ Chí Minh. Điều
này khơng chỉ dừng ở việc chỉ đọc lí thuyết mà cần phải được chứng minh bằng hành
động thực tế. Việc học tập Bác không ở đâu xa mà thể hiện ở ngày những hành động cụ
thể, những việc làm đơn giản trong cuộc sống hàng ngày như: thói quen tắt các thiết bị
điện trước khi ra khỏi phòng, giữ vệ sinh, bảo vệ của công, không đi học muộn, chăm chỉ
học tập, khơng gian lận trong thi cử, nói khơng với các tệ nạn xã hội… Đây đều là những
hành động dễ hình dung cần phải làm gì và làm như thế nào, và chắc chắn sẽ dễ dàng để
sinh viên tiếp nhận và thực hành. Mỗi người khi đã rèn cho mình lối sống đạo đức, thì
nên tự nhìn lại bản thân đã làm được bao nhiêu phần trăm, tự đánh giá, từ đó giúp đỡ
những người xung quanh, những người còn chưa làm tốt. Đồng thời, chúng ta còn có thể
học tập qua chính những tấm gương thầy cơ, bè bạn xung quanh. Và hãy để việc học tập
đó đi vào chính cuộc sống hàng ngày của thanh niên, sinh viên, chứ khơng phải là những
hoạt động có tính chất phong trào. Bởi học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh là để giúp chúng ta sống tốt hơn, đẹp hơn.

24


*Về khách quan
Khơng cái gì tự nhiên mà có, để sinh viên có thể có các đức tính, chung với nước, hiếu
với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư thì rất cần đến giáo dục.
Vai trị của giáo dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ là nhằm phát triển toàn diện
con người Việt Nam, một nền giáo dục vì con người, cho con người và hướng tới việc
xây dựng con người mới - con người XHCN. Trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai
trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định nền giáo dục mới sẽ “đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước
Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hồn tồn những năng lực sẵn có của các em”.
Phải xây dựng phương pháp giáo dục đứng đắn phù hợp với thực tiễn phát triển.
Trước hết, để giáo dục được sinh viên có đạo đức tốt phải bắt đầu từ cấp học nhỏ nhất
đến các cấp học cao hơn, sự phát triển của một con người phải trải qua từng quá trình,
từng giai đoạn, ở mỗi giai đoạn phát triển thì giới hạn nhận thức là khác nhau, vì vậy cần
phân chia giai đoạn để giáo dục hợp lý. Đức tính cần, kiệm, liêm, chính cần được dạy
ngay từ bậc mầm non, tiểu học, đó là lứa tuổi trẻ có thể hiểu được các chuẩn mực đạo đức
cơ bản. Đức tính trung với nước, hiếu với dân cần phải có sự tầm hiểu biết sâu sắc hơn để
có thể hiểu được, lí giải được và làm được, phần đức tính này được đưa vào áp dụng dạy
dỗ cho học sinh từ tầm lớp 8 trở lên. Tất nhiên trong q trình học các đức tính này phải
được nồng ghép vào nhau, nhắc đi nhắc lại chứ không chỉ một lần rồi thôi.
Thứ hai, việc giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, giáo dục sẽ trở thành giáo
điều khi nó khơng được áp dụng vào trong thực tiễn cuộc sống, lúc này gia đình và xã hội
sẽ là nơi giúp những bài học về đức tính con người có thể thực hành áp dụng vào những
vấn đề thực tế đang diễn ra.
Thứ ba, cần đổi mới tư duy giáo dục, phải xây dựng con người hướng tới sự hồn thiện
của cả đức, trí, thể, mĩ chứ khơng đơn thuần là chạy theo thành tích, phải giáo dục tồn
diện khơng nên có sự phân biệt trong các mơn học.
Bên cạnh vấn đề giáo dục thì cần phải chú ý đến việc loại bỏ các thành phần chống

đối nhà nước, cố ý xun tạc bơi nhọ, đặt điều nói xấu. Công nghệ số phát triển như vũ
bão, các thông tin khơng được kiểm sốt, khơng chính xác được phát tán khắp nơi, sinh
viên nếu khơng có đủ sự hiểu biết sẽ dễ bị dắt mũi bởi những thông tin sai sự thật, từ đó
tham gia vào bộ phận chống đối xã hội chống đối nhà nước, đây là một việc rất nguy
hiểm. Luật an ninh mạng ra đời đã góp phần loại đi những thông tin sai sự thật, tuy vậy
vẫn có những nội dung chống phá được phát tán một cách tinh vi cần phải được loại bỏ.

25


×