Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ phát triển tư duy lôgíc của học viên cấp phân đội ở học viện phòng không không quân hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.41 KB, 101 trang )

0

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CĨ TÍNH QUY

Trang
3

LUẬT PHÁT TRIỂN TƯ DUY LƠGÍC CỦA HỌC
VIÊN CẤP PHÂN ĐỘI Ở HỌC VIỆN PHỊNG
KHƠNG - KHƠNG QN
1.1 Thực chất phát triển tư duy lơgíc của học viên cấp phân

12

đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn
1.2 Những vấn đề có tính quy luật phát triển tư duy lơgíc

12

của học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng Chương 2

Khơng qn
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN

31

PHÁT TRIỂN TƯ DUY LƠGÍC CỦA HỌC VIÊN
CẤP PHÂN ĐỘI Ở HỌC VIỆN PHỊNG KHƠNG KHƠNG QN HIỆN NAY
2.1 Thực trạng và yêu cầu phát triển tư duy lơgíc của học



47

viên cấp phân đội ở Học viện Phịng không - Không
quân hiện nay
2.2 Một số giải pháp cơ bản phát triển tư duy lơgíc của

47

học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng Khơng qn hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

66
87
88
93


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào của con người muốn có hiệu quả, trước
hết phải có năng lực tư duy. Theo quan điểm của Triết học Mác - Lênin, bản chất
của tư duy là phản ánh hiện thực khách quan, nhưng ở mỗi cá nhân, mỗi điều kiện
hoàn cảnh khác nhau thì năng lực tư duy là khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như: trình độ học vấn, khả năng ghi nhớ lĩnh hội tri thức khoa học, khả năng

vận dụng những tri thức đã thu nhận được để phân tích, tổng hợp, khái qt hóa,
trừu tượng hóa, hình thành các khái niệm, phán đốn và trên cơ sở đó tiến hành suy
luận rút ra những hiểu biết mới về đối tượng phản ánh. Vì vậy, năng lực tư duy của
con người được hình thành gắn liền với q trình nhận thức thế giới, trong đó vai
trị của tư duy lơgíc là cực kỳ quan trọng.
Đối với lĩnh vực hoạt động quân sự, đặc điểm nổi bật là hoạt động mang
tính thử thách cao nhất giữa cái sống và cái chết, thường xuyên căng thẳng về thần
kinh trí óc, tiêu hao nhiều về sức lực, về của cải vật chất. Do vậy, mọi thao tác tư
duy đòi hỏi phải linh hoạt và chuẩn xác. Hơn nữa, trong thời đại phát triển như vũ
bão của khoa học - công nghệ càng làm cho tính chất các cuộc chiến tranh khốc liệt
và khẩn trương hơn; nhất là những cuộc “chiến tranh cơng nghệ cao” có quy mơ
rộng lớn, lơi cuốn nhiều nước tham gia, phân tuyến không rõ ràng, mang tính hủy
diệt, ác liệt, nguy hiểm, đầy biến động và bất ngờ. Vì thế, nó địi hỏi một sự quyết
đốn nhanh và một sự chính xác cao của tư duy.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhiệm vụ xây dựng
Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đang đặt ra
yêu cầu mới đòi hỏi nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan quân đội. Vì vậy, quá trình
học tập, rèn luyện ở các học viện, nhà trường quân đội có vai trị rất quan trọng.
Trong đó, vấn đề phát triển tư duy nói chung và phát triển tư duy lơgíc nói riêng có
ý nghĩa quyết định đến việc ghi nhớ, lĩnh hội tri thức, hình thành nên phương pháp


2

tư duy độc lập, sáng tạo; là điều kiện để nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo
và chỉ huy của người sĩ quan ở các đơn vị sau này.
Nhận thức rõ vai trò phát triển tư duy trong quá trình đào tạo sĩ quan, Nghị
quyết số 93 của Đảng ủy Quân sự Trung ương đã chỉ rõ: “Tiếp tục cải tiến phương
pháp giáo dục, nhất là ở bậc đại học, thực hiện tốt quan điểm: khuyến khích và tạo
điều kiện phát triển tư duy độc lập, tư duy sáng tạo của người học, biến quá trình

đào tạo thành q trình tự đào tạo” [10, tr.7].
Qn chủng Phịng khơng - Không quân là một bộ phận của Quân đội nhân
dân Việt Nam, có nhiệm vụ tác chiến chủ yếu ở trên khơng, có sức đột kích mạnh,
tầm hoạt động xa, phạm vi hoạt động lớn, là lực lượng cơ động nhất của Quân đội.
Với vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, hoạt động tác chiến trong điều kiện đặc thù
của quân chủng, đội ngũ sĩ quan chỉ huy tham mưu phịng khơng, khơng qn phải
có đầy đủ kiến thức và phẩm chất cách mạng. Vì thế, ngay tại nhà trường một vấn
đề quan trọng là phải thường xuyên trau dồi, rèn luyện phát triển tư duy lơgíc để
phát huy vai trị của nó trong nâng cao năng lực sáng tạo, năng lực tư duy khoa học
của người học viên cấp phân đội.
Trong những năm qua, công tác xây dựng đội ngũ sĩ quan chỉ huy tham mưu
phịng khơng, khơng qn có nhiều chuyển biến tích cực, đáp ứng ngày càng tốt
hơn mục tiêu, yêu cầu giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học của cơ sở đào tạo
sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, công tác xây dựng đội ngũ sĩ quan
cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn vẫn cịn bộc lộ một số hạn chế,
bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ giáo dục đào tạo, yêu cầu xây dựng các nhà trường
đào tạo sĩ quan vững mạnh toàn diện hiện nay.
Vì vậy, phát triển tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện
Phịng khơng - Không quân hiện nay là cơ sở để định hướng nâng cao trình độ
nhận thức, bồi dưỡng tình cảm cách mạng, lập trường giai cấp cơng nhân. Qua đó,
rèn luyện ý chí quyết tâm và nâng cao năng lực sáng tạo, năng lực tư duy khoa học
cho họ, đáp ứng tốt yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới
là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn hiện nay.


3

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề tư duy, phát triển tư duy đã được sự quan tâm của nhiều nhà khoa
học trong và ngoài quân đội. Đặc biệt từ năm 1986, với đường lối đổi mới tư duy

do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, các cơng trình đó đã đi sâu nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau:
Nghiên cứu về tư duy và năng lực tư duy, có: Lê Thi, “Thực trạng tư duy
của cán bộ, đảng viên ta và căn nguyên của nó” [45]; Phạm Ngọc Quang, “Yêu cầu
mới về năng lực tư duy của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay” [37]; Dương Văn
Minh, “Phát huy tư duy năng động sáng tạo của người học. Mâu thuẫn và hướng
giải quyết” [34]; Hồ Bá Thâm, “Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ cấp
xã” [43]; “Bàn về năng lực tư duy” [44]; Tô Duy Hợp, “Phương pháp tư duy - vấn
đề kế thừa và đổi mới” [20]; “Về việc bảo đảm sự nhất qn lơgíc của tư duy” [22];
Lê Hữu Nghĩa, “Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta” [35];
Lương Đình Hải, “Triết học và năng lực tư duy của con người trong kỷ nguyên toàn
cầu” [15]; Nguyễn Trọng Chuẩn, “Vấn đề rèn luyện và nâng cao năng lực tư duy
cho cán bộ trong điều kiện hiện nay” [4]. Các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu
làm rõ khái niệm tư duy, vai trò quan trọng của tư duy và đánh giá thực trạng tư duy
của đội ngũ cán bộ, đảng viên ta hiện nay; chỉ ra những mâu thuẫn, những thiếu sót
khuyết điểm trong phương pháp tư duy. Qua đó, đề cập đến vấn đề rèn luyện và
nâng cao năng lực tư duy cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong điều kiện hiện nay điều kiện của kỷ ngun tồn cầu hóa.
Nghiên cứu về tư duy quân sự, có: Đào Văn Tiến, “Nâng cao năng lực tư
duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay” [48], Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 1998.
Luận án đã làm rõ khái niệm, cấu trúc năng lực tư duy sáng tạo và sự biểu hiện của
nó ở đội ngũ sĩ quan cấp phân đội; chỉ ra bản chất, đặc điểm vai trò của năng lực tư
duy sáng tạo đối với hoạt động thực tiễn của người sĩ quan trẻ qn đội ta; chỉ ra
vấn đề có tính quy luật trong tăng cường rèn luyện, trải nghiệm hoạt động thực tiễn
lãnh đạo, chỉ huy phân đội; phát triển trong sự tác động biện chứng với các yếu tố
khác trong nhân cách của họ; phát triển phụ thuộc sự tác động biện chứng của các


4


yếu tố chủ quan - điều kiện cho sự phát triển của năng lực đó; phụ thuộc vào sự tác
động biện chứng giữa các yếu tố của hệ thống tri thức với hạt nhân là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngồi ra, cịn có các đề tài của: Nguyễn Khắc Luyện, “Phát triển tư duy quân
sự của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Lục quân 1
hiện nay” [31]; Trần Xuân Kiểm, “Quan hệ giữa tư duy triết học và tư duy quân sự
vấn đề bồi dưỡng năng lực tư duy quân sự cho cán bộ trong lực lượng vũ trang” [24];
Nguyễn Đình Thủy, “Nâng cao năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ cán bộ chính
trị cấp phân đội bộ đội tên lửa phịng khơng hiện nay” [47]; Trương Quang Đãn,
“Phát triển tư duy quân sự cho học viên đào tạo ở Học viện Lục quân hiện nay” [12].
Nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận và phát triển năng lực tư duy lý luận,
có: Luận án Tiến sĩ Triết học của Nguyễn Đình Trãi, Hà Nội, 2001. “Nâng cao năng
lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường lý luận tỉnh”
[49], cơng trình đã làm rõ khái niệm năng lực tư duy lý luận và cho rằng năng lực tư
duy lý luận được đặc trưng bởi sự tích lũy về phương pháp tư duy. Là khả năng lựa
chọn sắp xếp các thao tác tư duy theo một lơgíc nhất định nhằm đạt tới kết quả cụ thể;
là khả năng xác định mục đích, các bước tiến hành các khâu chủ yếu trong quá trình
phản ánh để lựa chọn các thao tác chính xác trong tư duy. Năng lực tư duy lý luận là
khả năng tích lũy tri thức và nghệ thuật sử dụng tri thức, xử lý thông tin một cách
khoa học, hiệu quả; là “nghệ thuật vận dụng các khái niệm”. Năng lực tư duy lý luận
giữ vai trò quan trọng trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy của người cán bộ.
Và các công trình nghiên cứu khác của: Nguyễn Tĩnh Gia, “Bồi dưỡng, nâng
cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh” [14];
Trần Đình Tuấn, “Phát triển năng lực tư duy lý luận cho học viên trong giảng dạy
các môn khoa học xã hội - nhân văn” [51]. Đặc biệt trong lĩnh vực quân sự có các
cơng trình nghiên cứu của Phạm Thanh Tùng, “Phát triển tư duy lý luận của học
viên đào tạo cán bộ hậu cần cấp trung, sư đoàn ở Học viện Hậu cần hiện nay”
[52]; Nguyễn Minh Diến, “Phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo chỉ huy
tham mưu binh chủng hợp thành cấp trung, sư đoàn ở Học viện Lục quân hiện nay”
[5]; Trần Hậu Tân, “Quan hệ giữa phát triển tư duy lý luận và nâng cao năng lực



5

thực tiễn của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay”
[42]; Nguyễn Văn Dũng, “Phát triển năng lực tư duy lý luận của cán bộ chính trị
cấp trung đồn Qn đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [6]; Phạm Văn Long,
“Nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược quân đội
ta trong tình hình hiện nay” [30]; Lê Văn Quang, “Phát triển năng lực tư duy lý
luận trong đào tạo đội ngũ chính ủy của Quân đội hiện nay” [38]. Các cơng trình
trên làm rõ phát triển tư duy lý luận của học viên đào tạo cán bộ cấp trung, sư đồn
hiện nay. Đó là q trình hồn thiện khả năng trừu tượng hóa, khái qt hóa, nâng
cao trình độ nắm bắt và vận dụng các quy luật trong quá trình đào tạo. Quá trình
phát triển tư duy lý luận là q trình tích lũy dần về lượng đến sự chuyển hóa về
chất; là q trình không ngừng phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn trong quá
trình nhận thức; đồng thời là quá trình phủ định biện chứng những tri thức kinh
nghiệm của họ. Các cơng trình đã đi sâu phân tích thực trạng và đưa ra những giải
pháp cơ bản nhằm phát triển tư duy lý luận của người học viên quân đội hiện nay.
Nghiên cứu về tư duy biện chứng và phát triển tư duy biện chứng, có:
“Đặc điểm q trình phát triển tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan phân đội
Quân đội nhân dân Việt Nam trong nhận thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay”
[7], Luận án Tiến sĩ Triết học, Nguyễn Bá Dương, Học viện Chính trị quân sự, Hà
Nội, 2000. Luận án đã đưa ra năm đặc điểm của tư duy biện chứng duy vật: là loại
hình tư duy phát triển cao nhất của lồi người so với các loại hình tư duy khác có
trong lịch sử triết học; là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện
chứng, luôn hàm chứa nội dung hiện thực trong phản ánh thế giới khách quan; phản
ánh đúng đắn sự vận động, phát triển và chuyển hóa khơng ngừng của thế giới
khách quan; có tính khách quan; là tư duy khoa học, cách mạng, có tính phê phán và
chiến đấu cao, luôn tạo ra sản phẩm kép. Tư duy biện chứng duy vật có sự thống
nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng. Tư duy biện chứng duy

vật giúp người sĩ quan cấp phân đội khơng những nhận thức đúng tình hình, nhiệm
vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu mà cịn tìm ra những giải pháp phù hợp để hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, luôn tiến bộ, trưởng thành.


6

Về vấn đề này cịn có các đề tài của: Dương Phú Hiệp,“Quán triệt tư duy biện
chứng duy vật và nội dung quan trọng của đổi mới tư duy” [19]; Trần Viết Quang,
“Vai trò của các nguyên tắc, phạm trù lơgíc biện chứng đối với việc rèn luyện năng
lực tư duy biện chứng” [39]; Trần Văn Riễn,“Phát triển tư duy biện chứng duy vật
của sĩ quan trẻ ngành khoa học kỹ thuật quân sự quân đội ta hiện nay” [40].
Nghiên cứu về tư duy khoa học và phát triển tư duy khoa học, có: Chu Nam
Hải, “Phát triển tư duy khoa học của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội
ở Trường Sĩ quan Công binh hiện nay” [16], luận văn thạc sĩ triết học, Học viện
Chính trị quân sự, Hà Nội, năm 2007. Luận văn đã tập trung luận giải khoa học
những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển tư duy khoa học của học viên đào tạo sĩ
quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường sĩ quan Cơng binh, trên cơ sở đó đề xuất những
định hướng và giải pháp cơ bản phát triển tư duy khoa học của đội ngũ học viên này.
Làm rõ khái niệm, vai trị, những vấn đề có tính quy luật phát triển tư duy khoa học
của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường sĩ quan Cơng binh. Phân
tích q trình hình thành và rút ra một số bài học kinh nghiệm phát triển tư duy khoa
học của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường sĩ quan Công binh.
Đề xuất những định hướng và giải pháp cơ bản phát triển tư duy khoa học của học
viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường sĩ quan Cơng binh hiện nay.
Ngồi ra, về lĩnh vực này cịn có Trần Đức Đình, “Vai trị triết học Mác - Lênin
trong phát triển tư duy khoa học của học viên đào tạo cấp phân đội Quân đội ta hiện
nay” [13]; Đồn Duy Hưng, “Nâng cao vai trị của tư duy khoa học trong phát triển
năng lực chính trị ở sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [23];
Lê Thanh Bình, “Xây dựng phong cách tư duy khoa học của người cán bộ đảng viên

theo gương Bác Hồ vĩ đại” [3]; Phạm Duy Hải, “Thử nêu mấy nét chủ yếu của phong
cách tư duy khoa học hiện đại” [17]; Dương Quang Hiển, “Mối quan hệ giữa phát
triển năng lực sư phạm và phát triển tư duy khoa học của học viên đào tạo giáo viên
khoa học xã hội nhân văn ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay” [18].
Nghiên cứu về tư duy lơgíc, có: Tơ Duy Hợp, “Thấm nhuần tinh thần phi cổ
điển trong đổi mới tư duy lơgíc ở nước ta hiện nay” [21]; Vũ Văn Viên, “Tư duy


7

lơgíc bộ phận hợp thành của tư duy khoa học” [55]; Nguyễn Văn Phương, “Vai trị
của tư duy lơgíc trong phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho đội ngũ sỹ quan
chính trị cấp phân đội” [36]. Trong luận văn thạc sĩ triết học của Nguyễn Văn
Phương đã đề cập đến vai trị to lớn của tư duy lơgíc trong hình thành, phát triển
năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan chính trị cấp phân đội, thơng qua đó
rút ra những kết luận có tính ngun tắc về sự tác động, ảnh hưởng của tư duy lơgíc
đến năng lực tư duy sáng tạo của người sĩ quan chính trị cấp phân đội trong q
trình tiến hành cơng tác đảng, cơng tác chính trị ở đơn vị cơ sở. Luận văn cũng đã
làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố cấu thành năng lực tư duy sáng tạo,
khẳng định được tư duy lơgíc là yếu tố không thể thiếu trong năng lực tư duy sáng
tạo, nó là nền tảng của hoạt động tư duy sáng tạo của sĩ quan chính trị cấp phân đội.
Khẳng định tính tất yếu của việc nâng cao năng lực tư duy lơgíc cho sĩ quan chính
trị cấp phân đội bằng việc trang bị tri thức về lơgíc học. Tiến hành khảo sát thực
trạng tư duy lơgíc của đội ngũ sĩ quan chính trị cấp phân đội trong tiến hành cơng
tác đảng, cơng tác chính trị. Qua đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
năng lực tư duy lơgíc góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động tư duy sáng tạo
của đội ngũ sĩ quan chính trị cấp phân đội ở các đơn vị cơ sở hiện nay.
Nghiên cứu về đối tượng bộ đội phòng khơng, khơng qn, ngồi luận văn
thạc sĩ triết học của Nguyễn Đình Thủy với chủ đề: “Nâng cao năng lực tư duy
sáng tạo của đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội bộ đội tên lửa phịng khơng

hiện nay” cịn có nhiều đề tài khác như: Đỗ Văn Tanh, “Nâng cao tính tự giác chấp
hành kỷ luật của đội ngũ sĩ quan không quân Việt Nam hiện nay” [41]; Đỗ Thắng
Lâm, “Vai trị của mơi trường văn hóa đơn vị cơ sở phịng khơng đối với xây dựng
qn đội vững mạnh toàn diện” [25]; Nguyễn Văn Thịnh, “Đặc điểm phát triển đạo
đức cách mạng của đội ngũ cán bộ cấp phân đội Bộ đội Phịng khơng hiện nay”
[46]; Mai Văn Tuyến, “Một số vấn đề có tính quy luật trong xây dựng chính quy của
Bộ đội khơng qn hiện nay” [53]; Nguyễn Anh Tuấn, “Quan hệ giữa truyền thống
và hiện đại trong phát triển văn hóa quân sự của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân
đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn hiện nay” [50]....


8

Tóm lại, các cơng trình khoa học, các bài viết kể trên đã đề cập, làm rõ tương
đối toàn diện về khái niệm, đặc điểm, năng lực tư duy, tư duy sáng tạo, tư duy lý
luận, tư duy quân sự, tư duy khoa học, tư duy biện chứng, tư duy lơgíc; vai trị của
tư duy và năng lực tư duy đối với hoạt động của con người; mối quan hệ giữa tư
duy và tư duy quân sự, mối quan hệ tư duy lý luận vấn đề bồi dưỡng năng lực tư
duy và nâng cao năng lực trí tuệ phẩm chất tư duy, phát triển tư duy quân sự, phát
triển tư duy lý luận, phát triển tư duy biện chứng, phát triển tư duy khoa học...; vai
trò của tư duy trong hình thành phương pháp tư duy khoa học, những vấn đề có tính
ngun tắc của tư duy lơgíc; vai trị của tư duy lơgíc trong phát triển năng lực tư
duy sáng tạo. Tuy nhiên, do việc xác định giới hạn đối tượng, mục đích, nhiệm vụ
và phạm vi nghiên cứu chưa có cơng trình nào nghiên cứu cơ bản, hệ thống những
vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển tư duy lơgíc của đội ngũ học viên ở các học
viện nhà trường, nhất là nghiên cứu vấn đề đó trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, tác
giả chọn vấn đề: “Phát triển tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện
Phịng khơng - Khơng qn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
- Mục đích nghiên cứu:

Luận giải một cách khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển tư
duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng quân, trên cơ
sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển tư duy lơgíc của đội ngũ học viên
này trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ thực chất và những vấn đề có tính quy luật phát triển tư duy lơgíc
của học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng quân.
+ Đánh giá thực trạng và đặt ra những yêu cầu phát triển tư duy lơgíc của
học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển tư duy lơgíc của học viên cấp
phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn


9

- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về bản chất,

những vấn đề có tính quy luật phát triển tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội
ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là phát triển tư duy
của học viên đào tạo trở thành sĩ quan chỉ huy tham mưu phịng khơng, khơng qn
cấp phân đội các chuyên ngành Ra đa, Tên lửa, Pháo phịng khơng, Tác huấn khơng
qn, Dẫn đường bay ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn, từ 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên hệ thống các quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt
Nam; Nghị quyết của Đảng ủy Qn sự Trung ương và một số cơng trình nghiên
cứu xây dựng đội ngũ cán bộ những năm gần đây; Nghị quyết của Đảng ủy Qn

chủng Phịng khơng - Không quân; Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Học viện
Phịng khơng - Khơng qn lần thứ III, nhiệm kỳ 2010 - 2015.
- Cơ sở thực tiễn:
Luận văn dựa trên kết quả thực tiễn báo cáo thống kê kết quả đào tạo của học
viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn và một số đơn vị trong
Quân đội ta; tham khảo số liệu điều tra, khảo sát của các cơng trình khoa học có liên
quan, các số liệu điều tra, khảo sát của tác giả về thực trạng tư duy lơgíc của học
viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp: phương pháp phân tích
và tổng hợp; phương pháp lơgíc và lịch sử; phương pháp hệ thống và cấu trúc; tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn; điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn


10

Làm rõ khái niệm tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng
khơng - Khơng qn, thực chất phát triển tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở
Học viện Phịng khơng - Khơng qn.
Luận văn sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy ở Học
viện Phịng khơng - Khơng qn và trong các nhà trường quân đội hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CĨ TÍNH QUY LUẬT
PHÁT TRIỂN TƯ DUY LƠGÍC CỦA HỌC VIÊN CẤP PHÂN ĐỘI
Ở HỌC VIỆN PHỊNG KHƠNG - KHƠNG QN

1.1. Thực chất phát triển tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học
viện Phịng khơng - Khơng qn
1.1.1. Quan niệm về tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện
Phịng khơng - Khơng qn
Khái niệm tư duy lơgíc:
Tư duy là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như:
tâm lý học, lơgíc học, triết học... Dưới góc độ triết học, khái niệm tư duy có thể
được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, tư duy là kết quả phản ánh, sản phẩm của quá
trình nhận thức, tồn tại dưới dạng các khái niệm, phán đoán, suy lý; thứ hai, tư duy
là quá trình vận động phát triển của nhận thức nhằm phản ánh ngày càng đầy đủ,
chính xác về đối tượng nhận thức.
Dù tiếp cận dưới góc độ nào thì tư duy đều là sản phẩm của một dạng vật
chất đặc biệt có tổ chức cao, đó là óc người phản ánh thế giới hiện thực dưới dạng
trừu tượng. Theo Từ điển Triết học: “Tư duy - sản phẩm cao nhất của cái vật chất
được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, q trình phản ánh tích cực thế giới khách
quan trong các khái niệm, phán đoán, suy lý” [54, tr.634].
Khi một khái niệm, phán đốn, suy lý hình thành trong tư duy, bao giờ cũng
gồm bốn yếu tố sau:


11

Một là, đối tượng phản ánh của tư duy. Bất kỳ một khái niệm, một phán
đoán hay một tư tưởng nào đó được hình thành trong tư duy đều gắn bó với một đối
tượng xác định của hiện thực khách quan. Khơng một khái niệm, phán đốn hay tư
tưởng chân thực nào mà không gắn với sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan.
Khơng có đối tượng phản ánh con người khơng thể có nội dung để phản ánh.
Hai là, nội dung phản ánh của tư duy. Khi con người tiếp xúc, tác động cải
tạo đối tượng sẽ làm cho nó bộc lộ những đặc trưng, những dấu hiệu, những thuộc
tính, những mối liên hệ. Bằng hệ thống các giác quan, con người thu thập những

thông tin và trở thành nội dung phản ánh của tư duy.
Ba là, ngôn ngữ của tư duy. Kết quả tư duy được ghi lại bởi ngôn ngữ. Ngay
từ khi xuất hiện, tư duy đã gắn liền với ngôn ngữ và được thực hiện thông qua ngôn
ngữ. Ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy, khơng có ngơn ngữ, tư duy của con người
cũng khơng thể tồn tại và phát triển.
Bốn là, hình thức tổ chức, kết cấu của tư duy. Là phương thức tổ chức, sắp
xếp, liên kết các bộ phận cấu thành nội dung tạo nên một phán đoán hay một tư
tưởng phản ánh về đối tượng. ở đây thường xảy ra hai trường hợp:
Trường hợp một: quá trình tổ chức, sắp xếp, liên kết nội dung để hình thành
các khái niệm, phán đoán, suy lý đúng quy luật, quy tắc, phù hợp với lơgíc của sự
vật, hiện tượng sẽ đảm bảo cho tư duy phản ánh đúng hiện thực khách quan, tức là
các tri thức mới (khái niệm, phán đoán, suy lý) này đúng.
Trường hợp thứ hai: quá trình tổ chức, sắp xếp, liên kết các bộ phận cấu thành
nội dung hình thành các khái niệm, phán đốn, suy lý khơng phù hợp lơgíc khách
quan, khơng đúng quy luật, quy tắc thì các tri thức mới (khái niệm, phán đốn, suy lý)
sai, hay nói tư duy đó phản ánh sai hiện thực khách quan. Như vậy, tư duy được hình
thành gắn liền với bộ não người và quá trình hoạt động thực tiễn xã hội của con
người, nó vừa là sản phẩm của bộ óc người, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội.
Tư duy lơgíc: là một dạng của tư duy, có đầy đủ những đặc điểm của tư duy
như đã trình bày. Tuy nhiên, tư duy lơgíc có những dấu hiệu đặc thù và vị trí, vai trị
của nó cũng được xác định độc lập tương đối so với tư duy nói chung.


12

Hướng nghiên cứu của luận văn chỉ nghiên cứu tư duy lơgíc phù hợp với
hiện thực khách quan để phân biệt với tư duy siêu hình máy móc. Luận văn khơng
nghiên cứu tư duy lơgíc mang tính duy tâm, tư biện kiểu Hêghen đã từng lập luận
trong biện chứng của ý niệm. Từ đó, ta có quan niệm: “tư duy lơgíc là tư duy phản
ánh đúng lơgíc khách quan, là sự thống nhất lơgíc chủ quan với lơgíc khách quan,

là tư duy có tính trật tự và tính quy luật” [44, tr.3]. Với quan niệm theo hướng tiếp
cận này thì tư duy lơgíc có những dấu hiệu sau:
Thứ nhất, tư duy lơgíc mang tính khách quan. Chìa khóa để tối ưu hóa khả
năng phát triển cá nhân và khả năng hoạch định tổ chức cơng việc một cách hiệu
quả, đó chính là "Tư duy có lơgíc" và một tư duy tn thủ lơgíc ấy được gọi là tư
duy lơgíc. Nói đến tư duy lơgíc thì nhân loại, ở châu Phi hay ở châu Âu, ở châu Á
hay ở châu Mỹ, từ Albert Einstein cho đến mỗi người chúng ta, ai ai trong đầu cũng
đều có so sánh, phán đốn, suy lý, trên cơ sở các ý niệm, khái niệm về các hiện
tượng, sự vật xung quanh. Nghĩa là, tự nhiên ban cho con người bộ não hoạt động
tư duy với các quy luật lơgíc vốn có, khách quan ở tất cả mọi người và mọi dân tộc.
Cùng với sự phát triển của thực tiễn và của nhận thức, con người càng ngày
càng có sự hiểu biết đầy đủ hơn, sâu sắc hơn, chính xác hơn về bản thân tư duy
đang nhận thức. Chính q trình hiểu biết ấy là cơ sở tạo ra sự phát triển của Lơgíc
học. Các quy luật của tư duy lơgíc là phổ biến cho tồn nhân loại. Dĩ nhiên, sản
phẩm tư duy của người này thì khác người kia, về cùng một phán đốn nhưng có
người đúng và có người sai, cái đó lại phụ thuộc vào các điều kiện khác.
Đối với tư duy lơgíc là tư duy phù hợp với lơgíc của hiện thực khách quan,
gắn bó chặt chẽ với hiện thực khách quan, lơgíc của tư duy đó ln hình thành thích
ứng với lơgíc của hiện thực khách quan. Xét về hình thức tư duy lơgíc là thuộc về
chủ quan, nó là sản phẩm của bộ óc người, nhưng xét về mặt nội dung tư duy lơgíc
lại có nguồn gốc sâu xa từ hiện thực khách quan, vì nội dung của tư duy lơgíc do
hiện thực khách quan quy định. Trong q trình tư duy, hình thức và nội dung của tư
duy liên kết chặt chẽ với nhau.
Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới không tồn tại độc lập, cô lập tách rời, khơng
đứng im chết cứng mà ln ln có sự liên hệ, tác động chuyển hóa lẫn nhau theo


13

những quy luật khách quan vốn có và sắp xếp theo một trật tự nhất định, tạo thành

lơgíc khách quan của hiện thực. Để cải tạo hiện thực khách quan có hiệu quả, con
người phải nhận thức được các quy luật khách quan của thế giới, hay cái lơgíc của hiện
thực khách quan. Nói cách khác, tư duy của con người phải đạt tới sự thống nhất với
cái lơgíc khách quan. Khi lơgíc chủ quan trong tư duy phù hợp với lơgíc khách quan
của hiện thực, cũng có nghĩa con người đã đạt tới sự tư duy lơgíc. Hay nói cách khác tư
duy lơgíc là tư duy phản ánh đúng hiện thực khách quan, không vi phạm các nguyên
tắc và quy luật tư duy đúng đắn. Tư duy bao gồm tư duy hình thức và tư duy biện
chứng do đó tư duy lơgíc phải tn thủ các ngun tắc và quy luật của tư duy hình thức
đồng thời cũng phải tuân thủ các nguyên tắc, quy luật của tư duy biện chứng.
Theo cách hiểu trên đây cho thấy, về bản chất tư duy lơgíc là sự phản ánh đúng
hiện thực khách quan, là tư duy có hệ thống theo một trình tự tất yếu, chặt chẽ và
chính xác. Tính đúng đắn, tính trật tự và tính quy luật của tư duy lơgíc khơng phải do
ý muốn chủ quan mà do hiện thực khách quan quy định. Hiện thực khách quan không
chỉ quy định nội dung phản ánh của tư duy lơgíc mà cịn quy định cách thức tổ chức,
sắp xếp, liên kết các bộ phận cấu thành nội dung của tư duy lơgíc, bảo đảm cho lơgíc
chủ quan của tư duy ln phù hợp với lơgíc khách quan của hiện thực.
Thứ hai, tư duy lơgíc phản ánh hiện thực khách quan trong sự liên hệ, vận động,
biến đổi, phát triển khơng ngừng. Nếu tư duy siêu hình phản ánh hiện thực khách quan
theo kiểu soi gương, chụp ảnh, phản ánh một cách máy móc phiến diện “nhìn thấy cây
mà khơng thấy rừng” thì tư duy lơgíc phản ánh hiện thực khách quan trong sự liên hệ,
quan hệ biện chứng. Tư duy lơgíc ở góc độ chung nhất nó phản ánh hiện thực khách
quan với những mối quan hệ, liên hệ cơ bản, chủ yếu nhất. Tư duy lơgíc ở các khóa
học, lớp học cụ thể sẽ hướng tới phản ánh những mối liên hệ, quan hệ có tính đặc thù.
Thứ ba, tư duy lơgíc được thực hiện trên cơ sở tuân thủ những nguyên tắc,
quy luật của tư duy. Chính hệ thống nguyên tắc này thống nhất với các nguyên tắc
của triết học duy vật biện chứng, của lơgíc học và của lý luận nhận thức mác xít.
Cùng với hệ thống ngun tắc đó, tư duy lơgíc cịn được thực hiện thông qua các thao
tác của tư duy như: phân tích, tổng hợp, khái qt hóa, trừu tượng hóa, hệ thống
hóa…



14

Thứ tư, tư duy lơgíc được thực hiện thơng qua hệ thống khái niệm, phạm trù,
phán đoán, suy luận. Sự phong phú của hệ thống khái niệm là tiền đề có ý nghĩa
quyết định trong q trình tư duy lơgíc. Cùng với khái niệm với tư cách là công cụ
của tư duy phải kể tới ngôn ngữ của tư duy lơgíc có tính độc lập tương đối so với hệ
thống ngơn ngữ của các loại hình tư duy khác.
Tư duy lơgíc xét về những khía cạnh bản chất nó có sự thống nhất với tư duy
biện chứng, tư duy chính xác, tư duy lý luận… trong đó lơgíc hình thức nghiên cứu tư
duy chính xác, lơgíc biện chứng nghiên cứu tư duy biện chứng. Hai môn học về tư duy
này phản ánh hai khía cạnh khác nhau của tư duy, chúng có quan hệ thống nhất, hữu cơ
với nhau, hỗ trợ và tạo tiền đề cho nhau trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan.
Trong tác phẩm: “Biện chứng của tự nhiên”, Ph. Ăngghen có đề cập đến hai loại hình
tư duy: Tư duy “bằng những phạm trù động” và tư duy “bằng những phạm trù bất
động” [1, tr.510]. Theo nghĩa đó, loại hình thứ nhất mà Ph. Ăngghen đề cập đến
tương ứng với lơgíc biện chứng, cịn loại hình thứ hai tương ứng với lơgíc hình thức.
Học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn
Học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Không quân là những học
viên đào tạo để trở thành những sĩ quan chỉ huy tham mưu phịng khơng, không quân
cấp phân đội. Họ là những học sinh, quân nhân đã trúng tuyển trong các kỳ thi tuyển
sinh quân sự và được thẩm tra, xét tuyển kỹ về lai lịch chính trị. Họ là những thanh
niên, sinh ra và lớn lên trong chế độ xã hội chủ nghĩa, có sức khỏe, có kiến thức, kế
thừa truyền thống yêu nước của cha anh, có ý thức vươn lên và hồi bão ước mơ về
cuộc sống tốt đẹp. Tuy nhiên, họ chưa được trải nghiệm qua thực tiễn cách mạng, kinh
nghiệm cuộc sống và nhận thức trong thực tiễn chưa nhiều... Vì vậy, để trở thành người
sĩ quan chỉ huy tham mưu phịng khơng, khơng qn địi hỏi phải được học tập, rèn
luyện nghiêm túc và công phu để nâng cao trình độ về mọi mặt, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, nếp sống lành mạnh và năng lực tổ chức chỉ huy để có khả năng hồn thành
tốt chức trách người sĩ quan chỉ huy tham mưu phịng khơng, khơng quân theo mục

tiêu yêu cầu đào tạo. Có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của học viên đào tạo sĩ
quan chỉ huy tham mưu phịng khơng, khơng qn cấp phân đội như sau:


15

Đặc điểm về mục tiêu, yêu cầu đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu phịng
khơng, khơng qn. Trong q trình học tập và rèn luyện, người học viên sẽ từng
bước được hình thành và phát triển các phẩm chất, năng lực cơ bản của người sĩ quan
chỉ huy tham mưu phịng khơng, khơng qn như: thái độ, trách nhiệm, ý thức tổ
chức kỷ luật, tính đồn kết hiệp đồng, sự mưu trí, sáng tạo, dũng cảm và sự khắc phục
khó khăn, gian khổ, thậm chí sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ. Cùng với đó là vấn đề
quản lý, khai thác, sử dụng vũ khí kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm đáp ứng nhiệm
vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Đặc biệt, người sĩ quan chỉ huy tham
mưu phịng khơng, khơng qn nói riêng và người sĩ quan nói chung phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, lịng trung thành vơ hạn với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.
Từ đó đặt ra cho học viên phải học tập, rèn luyện tu dưỡng cả phẩm chất đạo
đức và năng lực tác phong công tác, trong đó việc phát triển tư duy lơgíc cho người
học viên là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo của nhà trường quân sự. Với mục tiêu, yêu cầu đào tạo như vậy nên tỷ lệ thải
loại học viên hàng năm thường cao hơn so với các đối tượng đào tạo khác.
Quá trình giáo dục đào tạo học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng Khơng qn. Trong quá trình đào tạo, người học viên phải trải qua những giai đoạn
học tập, rèn luyện rất căng thẳng. Ngoài những buổi lên lớp, việc tổ chức huấn
luyện dã ngoại, thực hành, thực tập... người học viên phải thực hành cương vị người
sĩ quan chỉ huy tham mưu phịng khơng, không quân thực thụ ở các đơn vị chiến
đấu (thực tập vai trung đội trưởng ở các đơn vị Pháo phịng khơng, vai đài trưởng,
trưởng xe ở các đơn vị Ra đa, Tên lửa, vai trợ lý tác huấn, trợ lý dẫn đường bay ở
các đơn vị Khơng qn). Vì vậy đòi hỏi sự huy động rất cao cả về trí lực và thể lực,
sự thận trọng và ý thức tổ chức kỷ luật cao trong huấn luyện. Chỉ cần một sai sót
nhỏ sẽ dẫn tới hậu quả nghiêm trọng về an tồn huấn luyện: uy hiếp tính mạng và

thiệt hại lớn về kinh tế. Điều đó cho thấy ở người học viên phải được chuẩn bị đầy
đủ, toàn diện trong đó có sự phát triển tư duy lơgíc.
Đặc điểm của huấn luyện chuyên ngành chỉ huy tham mưu phòng khơng,
khơng qn, địi hỏi tinh thần kỷ luật đồn kết gắn bó hiệp đồng giữa các bộ phận,
người sĩ quan chỉ huy tham mưu phịng khơng, khơng qn phải tinh nhanh biết phán


16

đốn và dự kiến cũng như xử lý chính xác, kịp thời các tình huống. Hoạt động “canh
trời” là một hoạt động có tính đặc thù cao. Phương tiện bay là một tổ hợp cấu thành
bởi nhiều hệ thống thiết bị tinh vi, phức tạp, được ứng dụng những kỹ thuật cơng
nghệ tiên tiến nhất, ln địi hỏi độ tin cậy, chính xác rất cao. Vì vậy, cơng tác huấn
luyện phải hướng đến việc hoàn thiện đội ngũ sĩ quan chỉ huy tham mưu phịng
khơng, khơng qn có tác phong làm việc khoa học, tính kỷ luật cao, trình độ chun
mơn kỹ thuật giỏi, kỹ năng, kỹ xảo tốt. Có như vậy ta mới làm chủ được kỹ thuật
hàng không hiện đại, sẵn sàng đối phó với các tình huống khi có chiến tranh xảy ra.
Bởi thế mà sĩ quan chỉ huy tham mưu phịng khơng, khơng qn được ví như đôi
mắt của những chiếc “én bạc”, là hậu phương vững chắc của những “cánh bay”.
Những đòi hỏi đối với người sĩ quan chỉ huy tham mưu phịng khơng, khơng
qn hiện nay là:
Có khả năng kiểm sốt mọi hoạt động, có hiểu biết tồn diện, cả trong việc
sử dụng quyền hạn của mình cũng như trong phương pháp huấn luyện phải sáng
suốt, tỉnh táo điều chỉnh phương pháp phù hợp với diễn biến tình hình.
Có khả năng quản lý, làm chủ những thơng tin, dữ liệu, biết phân tích, khai
thác và lựa chọn các nguồn thông tin để bổ sung và hồn thiện tri thức của mình.
Chiến tranh trong tương lai đòi hỏi sĩ quan chỉ huy tham mưu phòng khơng, khơng
qn phải có đầu óc nhanh nhạy và khả năng phân tích xử lý linh hoạt, vì khơng có
nhiều thời gian để phân tích kỹ tình hình trước khi đưa ra quyết định.
Kiên định về tâm lý và thể chất, có khả năng duy trì thể lực làm việc bền bỉ

liên tục trong ngày và trong suốt quá trình chiến dịch; có bản lĩnh vững vàng trước
mọi yếu tố căng thẳng, khắc nghiệt của chiến tranh để hành động và tổ chức lực
lượng hành động thống nhất, đạt chất lượng, hiệu quả cao.
Nắm chắc tính năng cấu tạo, nguyên lý hoạt động và tình trạng của vũ khí
trang bị kỹ thuật, phương pháp sử dụng phải độc lập làm chủ dịng thơng tin, nắm
chắc tình hình và tự phân tích xử lý các thơng tin để lập kế hoạch và điều hành
chính xác, kịp thời. Như vậy, sự vận hành của một bộ phận, chất lượng kết quả của


17

một kíp huấn luyện, một ban bay sẽ phụ thuộc vào trình độ chun mơn, khả năng
thao tác hiệp đồng, ý thức trách nhiệm của tất cả các thành viên trong kíp huấn
luyện, ban bay đó, giữa thành tích của tập thể và cá nhân gắn bó chặt chẽ, phụ thuộc
nhau. Điều này đã được khái quát sâu sắc qua khẩu hiệu:“Trung thành vô hạn - Tiến
công kiên quyết - Đồn kết hiệp đồng - Lập cơng tập thể”.
Ngồi ra còn phải kể đến đặc điểm sự tác động của những yếu tố khách quan
như: truyền thống vẻ vang của Học viện Phịng khơng - Khơng qn; những truyền
thống đó được khái quát bằng 26 chữ vàng: “Đoàn kết anh dũng, tự lực tự cường,
chủ động sáng tạo, khắc phục khó khăn, dạy tốt học tốt, kiên quyết hồn thành
nhiệm vụ”, vị thế người sĩ quan chỉ huy tham mưu phịng khơng, khơng qn, ảnh
hưởng của lối sống ngồi xã hội, thời tiết, khí hậu và đời sống vật chất, tinh thần
cũng như địa bàn đóng quân của nhà trường…v..v.
Tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn
Từ q trình nghiên cứu tư duy lơgíc và đặc điểm cơ bản của học viên cấp phân
đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn có thể khái qt tư duy lơgíc của học viên
cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn như sau: Tư duy lơgíc của học
viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn là quá trình hình thành những
tri thức mới, những quy luật, nguyên tắc và yêu cầu của tư duy đúng đắn, phản ánh
đúng hiện thực khách quan.

Đó là q trình phản ánh của học viên cấp phân đội về các đối tượng một
cách linh hoạt, sáng tạo trong sự liên hệ, quan hệ, vận động, biến đổi, phát triển
không ngừng. Là giai đoạn nhận thức lý tính phản ánh q trình học tập, rèn luyện
theo mục tiêu yêu cầu đào tạo, thơng qua các hình thức cơ bản, như khái niệm, phán
đốn, suy luận, cùng các thao tác, phân tích, tổng hợp so sánh, trừu tượng hóa, khái
quát hóa... của người học viên, nhằm không ngừng tiếp thu tri thức khoa học, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao nhiệm vụ chiến đấu và cơng tác của Qn chủng Phịng
khơng - Khơng quân trong mọi tình huống.
Do đặc thù của Quân chủng Phịng khơng - Khơng qn là một qn chủng
kỹ thuật, được trang bị nhiều trang, thiết bị hiện đại. Nó địi hỏi trong q trình thực


18

hiện nhiệm vụ bộ đội phịng khơng, khơng qn phải ln đảm bảo tính chính xác,
nhất qn, khơng mâu thuẫn và đầy đủ lý do.
Vì thế, trước hết tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng
khơng - Khơng qn là q trình nhận thức, gia tăng tri thức mới. Đây là khả năng
của bộ óc thu thập thông tin, ghi nhớ, lưu giữ lại những tri thức đã được tiếp nhận
trong quá trình học tập và rèn luyện tại trường. Bởi nhẽ, tư duy lơgíc của học viên
cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn mang đặc trưng của người học
đó là tư duy tiếp nhận kiến thức, phương pháp.
Chất lượng và hiệu quả ghi nhớ các thông tin, các hiện tượng, quá trình của người
học là tiền đề rất quan trọng để tái hiện và bổ sung, phát triển tri thức mới cho người học
và tạo tiền đề cho hoạt động liên tưởng so sánh tiếp theo trong quá trình tư duy của người
học viên. Chất lượng tái tạo, hồi tưởng tri thức cũ của người học phụ thuộc rất nhiều vào
khả năng nắm bắt và vận dụng các quy luật tư duy lơgíc của chủ thể. Do đó, mà người
học viên phải được trang bị đầy đủ những kiến thức khoa học về tư duy lơgíc.
Thứ hai, tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện Phòng khơng Khơng qn là q trình thực hiện hệ thống nguyên tắc và các thao tác tư duy trong
quá trình nhận thức. Đó là khả năng phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát

hóa, phản ánh hoạt động đặc thù quá trình học tập rèn luyện của học viên cấp phân
đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn. Đây là một giai đoạn hay nói cách khác
là thao tác quan trọng nhất của tư duy lơgíc ở người học viên.
Thứ ba, tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng Khơng qn là q trình địi hỏi cao các phẩm chất tâm lý phù hợp với hoạt động
nhận thức trong lĩnh vực đặc thù. Đó là q trình phản ánh các hoạt động học tập, rèn
luyện đòi hỏi cao sự sâu sát, tỷ mỉ, cụ thể, chính xác, kịp thời. Đây là địi hỏi bắt buộc
để họ trực tiếp thực hiện các công việc của người học viên. Vì vậy, người học viên
phải có một phương pháp tư duy nhanh nhạy, mềm dẻo, linh hoạt, chính xác; ngay
việc chọn từ, dùng từ phải chính xác, rõ ràng, trong sáng, khúc triết, nói và viết
khơng thừa, khơng thiếu, khơng vịng quanh, luẩn quẩn. Hơn thế nữa, phải phấn đấu
đạt tới mức tối thiểu về lời nói, từ ngữ nhưng tối đa về ý nghĩa và nội dung, tránh sự


19

hiểu lầm khi dùng từ nhiều nghĩa đảm bảo cho họ ln ln hồn thành mọi nhiệm
vụ.
Tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng
qn mang tính độc lập, tự chủ, nhất qn và quyết đoán. Bởi hoạt động của sĩ quan
chỉ huy tham mưu phịng khơng, khơng qn mang tính đặc thù, địi hỏi họ phải
phát huy tính tích cực, chủ động, nhất quán và quyết đoán. Biết phát hiện, giải quyết
các vấn đề bằng chính năng lực của bản thân, thơng qua sự quan sát, nghiên cứu,
đánh giá tình hình và quyết tâm thực hiện cơng việc một cách có cơ sở khoa học.
Tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng
qn mang tính năng động, khẩn trương song không mâu thuẫn và phải đảm bảo có
đầy đủ luận chứng, luận cứ tức là phải có đầy đủ lý do xác đáng. Tính năng động,
khẩn trương nhưng chứa đựng sự bồng bột chưa vững chắc, chưa có đủ dữ kiện là
một đặc điểm của người học viên cấp phân đội ở Học viện Phòng khơng - Khơng
qn. Thấy rõ đặc điểm tư duy lơgíc này của người học viên cấp phân đội ở Học viện
Phịng khơng - Khơng qn sẽ giúp chúng ta có kế hoạch, chương trình đào tạo, bồi

dưỡng, rèn luyện, phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo, khắc phục những thiếu
sót bồng bột trong suy nghĩ và hành động của học viên, giải quyết những mâu thuẫn
và bảo đảm bổ sung đầy đủ những điều kiện làm cho tư duy của họ trở lên chính xác,
nhanh nhạy, sắc sảo hơn đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Ngoài ra, tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng Khơng qn được thực hiện thông qua hệ thống ngôn ngữ chung và ngôn ngữ có
tính chun ngành. Theo đó, những cơng cụ của tư duy là những khái niệm, phạm
trù, phán đoán vừa mang tính chất chung, vừa mang tính chuyên ngành.
1.1.2. Khái niệm phát triển tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học
viện Phịng khơng - Khơng qn
Phát triển, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là một phạm trù
triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy, phát triển là một trường hợp
đặc biệt của vận động, quá trình phát triển sẽ hình thành những tính quy định mới cao
hơn về chất, nhờ đó làm tăng tính phức tạp của sự vật, hiện tượng và của sự liên hệ,


20

làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng cùng
chức năng vốn có của nó ngày càng hồn thiện hơn. Tùy theo trình độ tổ chức kết cấu
của sự vật, hiện tượng, sự phát triển trong các lĩnh vực khác nhau (trong tự nhiên, xã
hội, tư duy) sẽ là khác nhau. Sự phát triển trong lĩnh vực tư duy được biểu hiện ở trình
độ, khả năng nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc hiện thực khách quan. Tuy
nhiên, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khuynh hướng chung của mọi
sự phát triển là quá trình cái mới phủ định cái cũ, cái mới vừa gạt bỏ cái cũ, vừa kế
thừa những yếu tố hợp lý trong lòng cái cũ, theo cơ chế chu kỳ phủ định cái phủ định
để khẳng định sự tiến lên. Con đường tiến lên trong q trình phát triển khơng tn
theo đường thẳng, mà theo đường xoáy ốc quanh co, phức tạp.
Phát triển tư duy lơgíc. Ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa học cơng nghệ hiện đại, Lơgíc học phát triển hết sức mạnh mẽ dẫn đến sự hình thành
một loạt các bộ mơn lơgíc học hiện đại, như lơgíc học mệnh đề, lơgíc học vị từ,

lơgíc học đa trị, lơgíc học tình thái, lơgíc học xác suất, v.v.. Các bộ mơn đó cung cấp
cho nhân loại những công cụ sắc bén giúp tư duy con người ngày càng đi sâu hơn
vào nhận thức các bí mật của thế giới khách quan.
Sự ra đời của lơgíc học hiện đại tạo ra bước ngoặt trong sự phát triển của
khoa học và cơng nghệ. Điều này là hồn tồn rõ ràng và thể hiện rõ nét nhất trong
lĩnh vực công nghệ hiện đại. Lơgíc học hiện đại đã cung cấp cho nhân loại những
công cụ để xây dựng các bộ điều khiển, từ đó xây dựng nên các cơng nghệ tự động
hóa. Nó cũng cung cấp các phương tiện lơgíc cho việc chế tạo máy tính điện tử.
Gần đây nhất lơgíc được áp dụng vào khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo.
Chính vì vậy, có thể nói: khơng có lơgíc học hiện đại thì khó có khoa học hiện đại
phát triển như ngày nay. Hơn thế nữa, các hệ thống lơgíc phi cổ điển (tình thái, đa trị, xác
suất, v.v.) cũng trang bị cho nhân loại những phương tiện lơgíc để nhận thức ngày càng
sâu sắc hơn, đầy đủ hơn “cái biện chứng” khách quan bằng các công cụ chính xác.
Phát triển tư duy lơgíc là sự gia tăng những tri thức, những quy luật, nguyên
tắc và yêu cầu của tư duy đúng đắn, bảo đảm nhận thức ngày càng đầy đủ, chính
xác, thế giới khách quan trên cơ sở đúng nguyên tắc, quy luật của tư duy.


21

Phát triển tư duy lơgíc là phát triển cả tư duy hình thức và tư duy biện chứng
ở con người. Tức là tạo ra ngày càng nhiều sự phản ánh đúng về thế giới khách quan
ở trạng thái đứng yên và tạo ra nhiều sự phản ánh đúng về thế giới khách quan đang
vận động biến đổi. Quá trình phát triển phải tuân thủ quy luật của phép biện chứng
duy vật, đó là q trình tích lũy dần dần về lượng dẫn đến biến đổi về chất và ngược
lại; đó là quá trình hình thành những nội dung tri thức về khoa học tự nhiên, khoa học
xã hội nhân văn, khoa học quân sự ... Sự tích lũy về nội dung những tri thức của các bộ
môn khoa học dần làm cho trình độ tri thức của con người đạt tới tính hệ thống của
những khái niệm, phạm trù, quy luật, những tri thức đó được liên kết với nhau trở
thành một chỉnh thể thống nhất trong tư duy con người, tạo nên trình độ hiểu biết và trở

thành một bộ phận quan trọng của thế giới quan khoa học của họ. Đồng thời, với sự
phát triển của trình độ tri thức, thì q trình ấy cịn hướng tới phát triển hệ thống
nguyên tắc, quy luật của tư duy, các thao tác tư duy, ngôn ngữ tư duy, công cụ tư duy,...
Nghĩa là phát triển trình độ tư duy, khả năng và phương pháp tư duy lơgíc của họ lên
một trình độ mới, qua đó nhằm khắc phục tư duy giáo điều, duy tâm, máy móc.
Mặt khác, khi trình độ tư duy, khả năng và phương pháp tư duy lơgíc của
con người được nâng lên lại giúp cho họ có thể tiếp thu tri thức nhanh nhạy hơn,
chính xác hơn, toàn diện hơn, đầy đủ hơn... Cứ như vậy làm cho tư duy của họ
ngày càng phát triển đáp ứng mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ cũng như những đòi hỏi
của thực tiễn đời sống xã hội đặt ra.
Phát triển tư duy lơgíc là q trình khơng ngừng phát hiện và giải quyết kịp
thời các mâu thuẫn trong quá trình tư duy. Tư duy của con người là sự thống nhất và
đấu tranh giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận khoa học trên tất cả các loại
hình tri thức khoa học.
Sự thống nhất giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận khoa học của con
người trong quá trình phát triển tư duy thể hiện: tư duy kinh nghiệm và tư duy lý
luận khoa học là hai cấp độ của tư duy, tuy khác nhau về trình độ nhưng cùng tồn tại
thống nhất trong một chủ thể nhận thức. Trên cơ sở những kiến thức, kinh nghiệm
đã có, người ta có thể khái quát, tiếp thu và phát triển tư duy lý luận khoa học của
mình lên một trình độ mới. Ngược lại, sự phát triển tư duy lý luận khoa học góp


22

phần củng cố những kinh nghiệm mà chủ thể đã tích lũy được làm cho những kinh
nghiệm đó trở lên khoa học hơn và sâu sắc hơn.
Giải quyết mâu thuẫn trong q trình phát triển tư duy lơgíc là từ sự tiếp nhận tri
thức thuần túy (thu thập tài liệu) để phân loại sắp xếp, tổ chức, liên kết tài liệu đến liên
tưởng, so sánh (loại suy lơgíc) tiếp đến là tư duy phản biện (quá trình phản biện và tự
phản biện) và đỉnh cao là sáng tạo giá trị tư duy. Lúc đầu chỉ là sự giải quyết mâu thuẫn

trong mối liên hệ giữa các thao tác tư duy đơn giản tiến tới giải quyết mâu thuẫn giữa
phương pháp hợp lý với phương pháp bất hợp lý, đưa ra cái mới phá bỏ tồn bộ cái cũ.
Tóm lại, q trình khơng ngừng phát hiện và giải quyết kịp thời các mâu thuẫn
trong quá trình tư duy là nhằm hướng tới phát triển tri thức, nguyên tắc tư duy, thao tác tư
duy, công cụ tư duy cho học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn.
Phát triển tư duy lơgíc cịn là q trình phủ định biện chứng, quá trình tự phủ
định, tự đổi mới tư duy để hướng tới hoàn thiện những thao tác của tư duy, hồn thiện
ngơn ngữ chun ngành, hồn thiện những cơng cụ tư duy (khái niệm, phạm trù,...),
hồn thiện những phẩm chất tâm lý của hoạt động đặc thù được huy động trong q
trình tư duy. Đó là q trình kế thừa, lọc bỏ tri thức kinh nghiệm, trên cơ sở đó bổ sung,
phát triển và sáng tạo trình độ tri thức, trình độ, phương pháp và các thao tác tư duy
trên cơ sở khoa học, làm cho trình độ tri thức của chủ thể được nâng lên một tầm cao
mới, nâng cao khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa và khả năng vận dụng sáng tạo
những tri thức đã tiếp thu, lĩnh hội vào giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn đặt ra.
Để phát triển tư duy lơgíc cần phải thực hiện tốt mấy nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất: thực hiện tốt khâu thu thập tài liệu, lĩnh hội nội dung để làm tiền
đề, luận chứng, luận cứ cho sau này hình thành nên những khái niệm, phán đoán,
suy lý (những tri thức mới).
Thứ hai: phải biết sắp xếp, tổ chức liên kết các tài liệu thành những khái niệm,
phán đoán, suy lý (tri thức mới) để nhận thức sự vật, hiện tượng ngày một bản chất hơn.
Thứ ba: phải biết liên tưởng, so sánh rút ra kết luận trên cơ sở đó tìm tịi cái mới.
Thứ tư: quá trình thu thập, sắp xếp, tổ chức liên kết tài liệu phải đúng quy luật,
nguyên tắc; nghĩa là phải đảm bảo tính hệ thống - tất yếu - chặt chẽ - chính xác.


23

Một số yêu cầu, nguyên tắc, quy luật của phát triển tư duy lơgíc đó là: 5
ngun tắc cơ bản của lơgíc biện chứng (khách quan, tồn diện, biến đổi và phát
triển, thực tiễn, lịch sử - cụ thể) và 4 quy luật cơ bản của lơgíc hình thức (đồng nhất,

cấm mâu thuẫn, bài trung, lý do đầy đủ) đồng thời còn tuân thủ các quy tắc cho
phép suy luận đúng như: các quy tắc của suy diễn trực tiếp (phép suy luận một tiền
đề), các quy tắc của suy diễn gián tiếp (tam đoạn luận - phép suy luận hai tiền đề): 3
quy tắc cho thuật ngữ, 5 quy tắc cho tiền đề và quy tắc cho 4 loại hình luận ba đoạn,
các yêu cầu, quy tắc của suy luận quy nạp, suy luận loại suy…
Phát triển tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng khơng Khơng qn.
Qua nghiên cứu đặc điểm tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện
Phịng khơng - Khơng qn và với góc độ tiếp cận sự phát triển, phát triển tư duy
lơgíc ở phần trên chúng ta có thể khái quát phát triển tư duy lơgíc của học viên cấp
phân đội ở Học viện Phịng khơng - Khơng qn như sau:
Phát triển tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện Phòng khơng Khơng qn là q trình gia tăng những tri thức, những quy luật, nguyên tắc, và yêu
cầu của tư duy đúng đắn, giúp họ nhận thức và giải quyết nhiệm vụ một cách nhanh
chóng, chính xác, hiệu quả khơng vi phạm các nguyên tắc, quy luật của tư duy.
Đào luyện, hình thành và phát triển cho học viên cấp phân đội ở Học viện
Phịng khơng - Khơng qn những tri thức, những quy luật, nguyên tắc và yêu cầu
của tư duy đúng đắn, là tạo dựng cho họ cách thức xem xét đối tượng tư duy không
vi phạm các nguyên tắc và quy luật. Trên cơ sở đó phát triển bằng cách đào tạo, rèn
luyện họ cách xem xét đối tượng tư duy trong mối quan hệ với các đối tượng khác,
trong các môi trường khác, làm tăng bề rộng tư duy của họ, làm cho việc tiếp nhận
những tri thức nói chung, những tri thức về quy luật, nguyên tắc, và yêu cầu của tư
duy đúng đắn nói riêng, những kinh nghiệm mới, những sự thay đổi trong tư duy trở
nên dễ dàng, tính sáng tạo dễ được thực hiện. Đồng thời làm tăng chiều sâu của tư
duy, tăng độ hiểu biết sâu sắc của tư duy. Tư duy càng sâu khi các yếu tố của đối
tượng được đề cập đến càng nhiều và khi đó đối tượng sẽ trở nên rõ ràng hơn, đầy


24

đủ hơn trong nhận thức và ý thức, đối tượng được hiểu rõ hơn, đúng hơn và sâu sắc
hơn. Chỉ có như vậy người học viên cấp phân đội mới hình thành khả năng nhận

thức và giải quyết các nhiệm vụ một cách nhanh chóng, chính xác, hiệu quả khơng
vi phạm các nguyên tắc, quy luật của tư duy.
Để nghiên cứu sự phát triển tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học
viện Phịng khơng - Khơng qn cho thấu đáo đòi hỏi phải nghiên cứu thấy rõ sự
phát triển ở từng giai đoạn, từng khâu, từng bước của quá trình phát triển chịu sự
chi phối của những quy luật nào? Những lỗi nào có thể mắc cho từng giai đoạn,
từng khâu, từng bước? Có như vậy mới tìm ra được những yêu cầu và rút ra được
những giải pháp phát triển tư duy lơgíc của học viên cấp phân đội ở Học viện Phịng
khơng - Khơng qn hiện nay.
Trước hết, cần phát triển năng lực thu thập, ghi nhớ, lưu giữ, tái hiện các tri
thức cho người học. Thơng qua q trình học tập, nghiên cứu, hoạt động thực tiễn
của người học mà hoạt động của bộ óc có khả năng ghi nhớ, lưu giữ các tri thức đã
được nhận thức. Từ đó, tạo cơ sở cho người học phát triển năng lực tái hiện những
vấn đề lý luận đã ghi nhớ, lưu giữ trong bộ óc để tiến hành phân tích và tổng hợp,
sắp xếp, tổ chức, liên kết, so sánh phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa, trừu tượng
hóa, cụ thể hóa để nắm bắt sâu sắc được bản chất, quy luật của các tri thức đó.
Việc tạo cho người học có năng lực tái hiện và hiểu thấu đáo những tri thức
đã thu thập được, tức là tạo cho họ có khả năng và phương thức xác định một cách
tự giác về mục đích, các khâu, các bước tiến hành các thao tác tư duy lơgíc, biết xác
định các thao tác nào là thao tác cơ bản, chủ yếu; thao tác nào trước, thao tác nào
sau và sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các thao tác đó nhằm tạo ra tri thức mới (tạo
ra các khái niệm, phán đoán, suy luận mới). Trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu quá
trình học tập mà người học bổ sung, hoàn thiện những tri thức đã tiếp nhận được để
hồn thiện nó. Với tinh thần và khả năng tiếp nhận, chuyển hóa những tri thức đã
thu thập được thành kiến thức, niềm tin cho người học. Xuất phát từ những tri thức
tiền đề đã được tiếp nhận, thông qua các thao tác tư duy, người học biến những tri
thức khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường



×