Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Khái quát quá trình hình thành tầng lớp nông dân nông nô tây âu thời trung đại đối sách với sự xuất hiện tá điền ở phương đông trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.19 KB, 69 trang )

A Mở Đầu
1.Lí do chọn đề tài.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mac-lênin trong tiến trình lịch sử xã hội
lồi người ứng với mỗi thời kì lịch sử là một chế độ xã hội tương ứng. Trong
tiến trình ấy ứng với thời kì trung đại là sự tồn tại của chế độ phong kiến. Ơ
Phương Tây chế độ phong kiến ra đời từ năm 476, khi đế quốc tây La Mã bị giệt
vong và kết thúc lúc cách mạng tư sản Nê-đéc-lan bùng nổ ở nửa sau thế kỉ XVI.
Còn ở Phương Đơng, chế độ phong kiến điển hình nhất là ở Trung Quốc và nó
được mở đầu bằng sự kiện Tần Thuỷ Hoàng thống nhất đất nước vào năm 221
TCN kết thúc bằng cuộc cách mạng tân hợi năm 1911. Đây là thời kì có nhiều
nội dung lịch sử quan trọng thu hút việc nghiên cứu của giới nghiên cứu lịch sử.
Đặc biệt trong đó có nghiên cứu vấn đề người nông dân.
Hai giai cấp cơ bản của xã hội phong kiến là địa chủ phong kiến và nông
dân. Trong đó giai cấp địa chủ phong kiến chiếm hầu hết ruộng đất trong xã hội
cịn giai cấp nơng dân thì bị mất hết ruộng đất. Trên cơ sở ấy giai cấp địa chủ
phong kiến bóc lột nơng dân bằng địa tơ và các hình thức cưỡng bức siêu kinh tế
khác.
Nếu như lực lượng sản xuất chính trong xã hội phong kiến Tây Âu là tầng
lớp nông dân nông nô thì trong xã hội phong kiến Phương Đơng là nơng dân tá
điền. Vì thế tìm hiểu người nơng dân nơng nô Tây Âu trong sự đối sánh với
nông dân tá điền Phương Đông là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết.
Bởi lẽ đây không chỉ là vấn đề xuyên suốt lịch sử thế giới trung đại mà nó cịn
góp phần cho chúng ta thấy những điểm tương đồng, khác biệt trong chế độ
phong kiến ở Phương Đông và Phương Tây. Cụ thể ở đây là sự giống và khác
nhau căn bản về đời sống, thân phận, phong trào đấu tranh của hai tầng lớp được
coi là lực lượng sản xuất chính của xã hội, là điển hình cho giai cấp bị trị trong
xã hội phong kiến Phương Đơng và Phương Tây. Vì vậy đối với một sinh viên

1



nghành sử việc đi sâu vào tìm hiểu người nơng nô Tây Âu trong sự đối sánh với
nông dân tá điền Phương Đông là một nhiệm vụ hết sức cần thiết.
Bên cạnh đó trên cơ sở nghiên cứu đề tài này giúp chúng ta hiểu sâu hơn
về xã hội phong kiến. lịch sử xã họi phong kiến Phương Đông và Phương Tây
vốn dĩ vừa có nhiều điểm giống nhau vừa có nhiều nét khác nhau. Vì thế đề tài
này càng giúp chúng ta làm sáng rõ hơn một trong những điểm giống nhau, khác
nhau đó đằt trong sự song hành của một thời kì lịch sử- thời trung đại.tìm hiểu
đề tài này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về người nông nô Tây Âu và tá điền
Phương Đông - một trong hai giai cấp cơ bản của xã hội phong kiến mà trước
đây chúng ta chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu, đặc biệt khi đặt trong sự đối sánh
thì ta sẽ thấy rõ bản chất vấn đề hơn. đồng thời, nó cũng giúp chúng ta tiếp nhận
những nguồn tri thức lịch sử vừa mang tính cụ thể vừa mang tính hệ thống về
chế độ phong kiến. Hiểu rõ người nông nô Tây Âu và nông dân tá điền Phương
Đơng cịn cho ta thấy được vai trị, vị trí của quan trọng của lực lượng sản xuất
chính trong xã hội mà ở mỗi hình thái kinh tế xã hội đều tồn tại, chẳng hạn như
nô lệ trong xã hội chiếm hửu nô lệ, vô sản trong xã hội tư bản. Từ đó ta có thể so
sánh được lực lượng sản xuất chính trong xã hội này với lực lượng sản xuất
chính trong xã hội khác. Giai cấp bị trị ( nông nôTây Âu, nông dân tá điền
Phương Đông ) tồn tại trong mối liên hệ với giai cấp thống trị( lãnh chúa
Phương Tây, địa chủ Phương Đông ). Vì thế nhận thức được những nét căn bản
về đời sống thân phận của họ chính là cơ sở, là điều kiện để chúng ta hiểu rõ hơn
về giai cấp thống trị bóc lột họ. Hiểu rõ hơn tại sao họ lại đấu tranh để chống lại
giai cấp thống trị, giải phóng thân phận.
Mặt khác, khi tìm hiểu đề tài này cũng có một ý nghĩa hết sức to lớn đối
với việc học tập môn lịch sử. Khi học tập lịch sử thì ngồi việc hiểu rõ kiến thức
lịch sử cịn có một u cầu hết sức quan trọng nữa, đó là trên cơ sở những kiến
thức cụ thể đó ta phải biết hệ thống hố, đặt nó trong sự phân tích, so sánh đối
chiếu để nắm vững bản chất của vấn đề, thấy được sự phát triển của lịch sử. Bởi
thế, tìm hiểu đề tài này giúp húng ta có sự liên hệ, so sánh với các thời kì khác
2



nhau và liên hệ, so sánh giữa các khu vực, quốc gia trong cùng một thời kì lịch
sử, từ đó nâng cao tầm nhận thức của mình.
2. Lịch sử vấn đề.
Vấn đề phương thức sản xuát nói chung và các vấn đề về giai cấp nông
dân trong xã hội phong kiến nói riêng đã được nhiều sử gia trong và ngoài nước
quan tâm nghiên cứu. Năm 1978, nhiều nhà sử học qua nhiều năm nghiên cứu
đã biên soạn được bộ giáo trình “lịch sử thế giới trung đại”. những năm gần đây,
một bộ giáo trình mới được viết tốt hơn, hoàn chỉnh hơn đã ra đời phục vụ tốt
hơn cho việc học tập, giảng dạy ở khoa sử các trường sư phạm. Tuy nhiên với
tính chất là một bộ giáo trình, tài liệu học tập của sinh viên ngành sử thì nội
dung chủ yếu của nó là đề cạp đến tất cả các mặt từ chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hố…ở thời trung đại, chứ nó khơng đi sâu vào tìm hiểu giai cấp nơng dân trong
xã hội phong kiến. Năm 1976, trường Đại học sư phạm 1 Hà Nội đã dịch cuốn “
tuyển tập luận văn phong trào nơng dân Trung Quốc thời phong kiến”, ( Trích
trong Trung Quốc phong kiến xã hội nông dân chiến tranh về vấn đề thảo luận
tập, nxb Liên Thư Điếm, Bắc Kinh, 1962, của Trương Tú Bình: Một trăm sự
kiện Trung Quốc, nxb Văn hố thơng tin, Hà Nội, 1998, Nguyễn Gia Phú: Lịch
sữ Trung Quốc, nxb GD 2001… Đặng Đức An cũng có một hệ thống chuyên dễ
giảng dạy “ đặc điểm của phong trào nông dân Tây Âu thời Trung Đại, phong
trào nông dân Tây Âu thời Trung Đại”, “ Người nông dân trong xã hội phong
kiến Tây Âu”.
Bằng nhiều cách tiếp cận các nhà nghiên cứu đã bước đầu khái
qt, từ đó đi vào tìm hiểu, nghiên cứu về giai cấp nông dân( mà trọng tâm chủ
yếu là nông nô và tá điền), đời sống, thân phận của họ qua mỗi thời kì cũng như
phong trào đấu tranh của họ trong thời Trung Đại. Dựa trên cơ sở tập hợp, xử lý
những tài liệu trên chúng tôi sẽ đi sâu vào tìm hiểu đời sống, thân phận của
người nơng nô Tây Âu trong sự đối sánh với nông dân tá điền Phương Đông.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài


3


Lịch sử của giai cấp nông dân là một nội dung lớn đặt ra nhiều vấn đề
nghiên cứu tìm hiểu, thế nhưng do khả năng hạn chế, với mức độ khố luận, tơi
chỉ đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này là tập trung vào những người nông
nô Tây Âu và tá điền Phương Đông ( chủ yếu là nông dân tá điền Trung Quốc)
và những kiến thức liên quan. Để từ đó làm sáng rõ q trình hình thành, thân
phận đời sống kinh tế chính trị xã hội và phong trào đấu tranh của họ có những
điểm giống nhau và khác nhau như thế nào?. Phạm vi nghiên cứu của đề tài này
khá rộng, gần như xuyên suốt cả thời trung đại. Đây cũng là một khó khăn khi
thực hiện đề tài.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu.
Có thể nói nguồn tài liệu để tham khảo về thời trung cổ là rất ít. Đối với
khoa học xã hội khi nghiên cứu về bất cứ vấn đề nào thì các tác phẩm của những
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác- Lê nin là nguồn tài liệu quan trọng với khoa học
lịch sử. Đề tài này có những tác phẩm đề cập tới như: Tư bản, nguồn gốc của gia
đình của chế độ tư hữu và của nhà nước… của Các Mác và Ăng ghen, Bàn về
nhà nước; sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga… của Lê Nin. Trong đó Mác
- Ăng Ghen, LêNin khi đề cập đến xã hội tư bản đẫ đề cập đến chế độ nông nô ở
Tây Âu. Mặc dù chưa có tác phẩm nào chun bàn về vấn đề nơng nô, nhưng
những vấn đề cơ bản của chế độ nông nô đã được đề cập đến trong những tác
phẩm của họ. Đây là nguồn tài liệu chính cho đề tài.
Đặc biệt những tiểu luận tốt nghiệp đại học như: “tìm hiểu giai cấp nông
dân và phong trào nông dân Trung Quốc thời cổ-trung đại”, “nhận xét đặc điểm
phong trào nông dân Trung Quốc thời trung đại”, “tìm hiểu tầng lớp nông nô
trong xã hội phong kiến Tây Âu thời trung đại”,…đã giúp tơi rất nhiều trong q
trình tìm hiểu đề tài.
Từ trước đến nay chỉ có những tác phẩm bàn về chế độ phong kiến, trong

đó có đề cập đến một chút ít về người nơng nơ Tây Âu, nơng dân tá điền Phương
Đông và phong trào đấu tranh của họ chứ khơng có tác phẩm nào chun sâu về

4


người nơng nơ và tá điền, đặc biệt là tìm hiểu họ mà đặt trong sự đối sánh. Vì
thế khi thực hiện đề tài này chúng tôi cũng gặp một số khó khăn.
Để nghiên cứu đề tài này, tơi đã sử dụng phương pháp tổng hợp, hệ thống,
kết hợp sưu tầm chọn lọc và xử lí tài liệu. Phương pháp lịch sử, phương pháp lơ
gíc, phương pháp so sánh được sử dụng chủ yếu để thực hiện đề tài này. Trên cơ
sở đó khơng phải là mong muốn có những đóng góp mới vào khoa học lịch sử
mà chỉ là từ chổ khái quát hoá, hệ thống hoá để đối chiếu so sánh vấn đề lịch sử.
5. Bố cục đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khố luận
được bố cục làm 3 chương chính sau:
Chương 1: Khái quát quá trình hình thành tầng lớp nông dân nông nô Tây
Âu thời trung đại đối sánh với sự xuất hiện tá điền Phương Đông trung đại.
1.1.

Quá trình hình thành nơng nơ Phương Tây .

1.1.1 Nguồn gốc của tầng lớp nông nô Tây Âu.
1.1.1.1

Sự suy sụp của nền kinh tế chiếm hửu nô lệ ở đế quốc La Mã.

1.1.1.2

Sự xuất hiện của chế độ lệ nông trong đế quốc La Mã- tiền thân của

nông nô thời trung đại.

1.1.2 Q trình nơng nơ hố người nơng dân cơng xã Mác cơ.
1.1.2.1. Vài nét về quá trình thành lập vương quốc của người Giec manh.
1.1.2.2. Sự xuất hiện ông xã Mac cơ và q trình nơng nơ hố người nơng dân
cơng xã.
1.2. Qúa trình xuất hiện nơng dân tá điền Phương Đông .
1.2.1. Sự tan rã của công xã nông thôn.
1.2.2. Sự xuất hiện của chế độ tư hửu ruộng đất.
Chương 2: Thân phận và đời sống củ nông dân nông nô Tây Âu trong sự
đối sánh với thân phận và đời sống của tá điền Phương Đông
2.1. Đời sống kinh tế
5


2.1.1 Sống trong khuôn khổ nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc.
2.1.2 Về quyền sở hửu ruộng đất.
2.1.3 Hình thức bị bóc lột.
2.2 Đời sống chính trị-xã hội.
2.2.1. Quyền lợi chính trị.
2.2.2. Địa vị xã hội.
2.3. Đời sống tư tưởng- tôn giáo.
Chương 3: Vài nét về phong trào đấu tranh của nông dân nông nô Tây Âu
trong sự đối sánh với phong trào nông dân tá điền Phương Đông trung đại.
3.1. Khái quát về phong trào đấu tranh của nông nô Tây Âu thời trung đại.
3.2. Khái quát phong trào đấu tranh của tá điền Phương Đông
3.3.1. Điểm giống nhau.
3.3.2. Điểm khác nhau.

6



B. phần nội dung
Chương 1: Khái quát quá trình hình thành tầng lớp nông dân nông
nô Tây Âu thời trung đại đối sách với sự xuất hiện tá điền ở Phương đơng
Trung đại
1.1.
1.1.1

Q trình hình thành nơng nơ Tây Âu
Nguồn gốc của tầng lớp nông nô Tây Âu

1.1.1.1. Sự suy sụp của nền kinh tế chiếm hữu nô lệ ở đế quốc La
Mã.
Trong hai thế kỷ I – II, đế quốc La Mã phát triển đến đỉnh cao của chế độ
chiếm hữu nô lệ, nhưng đồng thời mâu thuẫn giai cấp sâu sắc bên trong và những
cuộc thất trận liên tiếp bên ngoài đã làm cho nền kinh tế La Mã lâm vào tình
trạng bế tắc, dấu hiệu của sự suy vi xuất hiện. Lãnh thổ của đế quốc La Mã
không thể mở rộng hơn được nữa, không những thế còn bị đe doạ La Mã phải
quay về lo phòng thủ để đối phó với các cuộc khởi nghĩa của nô lệ và các cuộc
tấn công của các tộc người Giecmanh. Nguồn lợi lớn của đế quốc là của cải và
nô lệ nhờ những cuộc chiến tranh xâm lược và cướp bóc thì nay khơng cịn nữa.
Giai cấp chủ nơ ra sức bịn chiếm đất đai, bóc lột nơ lệ và các tầng lớp nông dân
bị thống trị. Nông dân mất hết ruộng đất đa số biến thành vô sản lưu vong thoát li
sản xuất. Dân số giảm xuống một cách nhanh chóng, cảnh nghèo đói lan tràn
khắp mọi nơi. Đế quốc La Mã bước vào thời kỳ khủng hoảng tồn diện. Điều đó
biểu hiện ở những mặt sau:
Bọn chủ nô, địa chủ, quý tộc sống trên sức lao động của nô lệ, dùng nô lệ
để cày cấy nhưng không hề quan tâm đến đời sống của nô lệ và khơng chú ý gì
đến cải tiến phương pháp canh tác. Chúng chiếm đoạt tồn bộ thành quả lao động

của nơ lệ nhưng không đảm bảo công cụ, tư liệu sinh hoạt tối thiểu cho họ làm
cho năng suất lao động và hiệu quả lao động nô lệ hết sức thấp kém. Trên thực tế
dù mâu thuẫn với bọn chủ nô và họ có đấu tranh với chủ nơ để biểu thị ý nguyện
của mình nhưng sau đó họ vẫn chấp nhận chế độ xã hội đương thời, chấp nhận

7


thân phận hẩm hiu, nhiều thiệt thịi của mình. Vì thế quan hệ sản xuất chiếm hữu
nô lệ mới tồn tại lâu dài như thế.
Bị ngược đãi, bị xem như loài trâu, ngựa, bị dùng roi rọt để cưỡng bức lao
động, người nô lệ giờ đây đã chán ngán với khiếp sống khổ sở mình. Vì thế trong
mỗi con người họ đã khơng thể có tin thần tự giác và hứng thú sản xuất, tình
trạng đó khơng thể nào nâng cao năng suất lao động được. Mặt khác, lao động nô
lệ được sử dụng phổ biến đã gạt bỏ lao động của người tự do trong sản xuất dẫn
đến sức sản xuất xã hội ngày càng giảm sút. Lao động của nô lệ lúc này cũng chỉ
đủ để nuối sống bản thân họ, khơng cịn tạo ra sản phẩm dư thừa như trước nữa.
Bọn chủ nơ vì thế khơng thể bóc lột họ dù là rất ít. Thậm chí đơi khi nơ lệ cịn cố
tình phung phí, phá hoại kinh tế của chủ nô vào lúc gieo hạt hoặc lúc thu hoạch
mùa màng côlumen, một nhà văn La Mã đã viết như sau: “Nô lệ đã làm cho năng
suất lao động giảm sút nghiêm trọng. Họ bị cưỡng bách làm việc như thân trâu
ngựa và sống một cuộc đời khổ ải khơng khác gì lồi vật. Họ cày cấy bừa bãi,
khi gieo hạt họ cố ý gieo lung tung làm lãng phí rất nhiều hạt giống họ gặt lúa
đem về sân nhà chủ mà không chú ý xem lúa đã chín chưa. Thậm chí trong khi
gánh lúa về nhà chủ họ tìm cách thu giấu lúa đi hoặc cố ý làm rơi vãi lúa ở dọc
đường”
Phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ không thể làm cho kỹ thuật canh
tác tiến bộ hơn. Công cụ mà chủ nô giao cho nô lệ dùng để sản xuất hết sức thô
kệch, nặng nề để cho nơ lệ khó phá hỏng. Bởi vì chỉ trong điều kiện giá cả nô lệ
rẻ mạt, nô lệ có thể mua về một cách dễ dàng thì việc sử dụng nơ lệ mới có lợi

cho bọn chủ nô. Nhưng rõ ràng lúc bấy giờ nguồn nô lệ càng cạn kiệt mà giá nô
lệ lại rất đắt. Bởi vậy chế độ nô lệ không thể thúc đẩy kỹ thuật canh tác tiến bộ
lên được, vì chủ nơ chỉ nghỉ đến việc bóc lột sức lao động của nơ lệ mà không
thiết nghỉ tới việc cải tiến kỹ thuật sản xuất .
Với những biểu hiện trên, rõ ràng nguy cơ phá sản do sự khủng hoảng của
quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ đang đến gần. Để giải quyết sự khủng hoảng
đó chế độ lệ thơng đã ra đời.
8


1.1.1.2. Sự xuất hiện của chế độ lệ nông trong đế quốc La Mã. Tiền
thân của chế độ nông nô thời trung đại.
Một mặt việc sử dụng lao động tập thể của nô lệ theo quy mô lớn trên các
đại điền trang khơng cịn có lợi cho bọn chủ nơ nữa vì khơng những số nơ lệ
giảm sút dần mà sự phá hoại sản xuất của họ cũng càng ngày tăng lên. Mặt khác
bọn chủ nô lại sợ nô lệ sống tập trung đông đảo trong các trại ấp sẽ dễ dàng nổi
dậy uy hiếp tính mạng và tài sản của chúng dần dần buộc chủ nô phải thay đổi
phương thức bóc lột bằng cách cấp nhà ở riêng cho nô lệ và chia nhỏ điền trang
ra thành từng khoảng giao cho nơ lệ cày cấy. đồng thơì chủ nơ cung cấp cho nô lệ
công cụ, gia súc để họ tự sản xuất và đến mùa thu hoạch nô lệ phải nộp hoa lợi
cho chủ. Bằng cách nô lệ đã biến thành lệ nông nghĩa là họ vẫn chịu thân phận
của nơ lệ xong cách sản xuất thì mang dáng dấp của nông nô thời phong kiến.
Chế độ lệ nông ra đời.
Không chỉ nô lệ lĩnh canh ruộng đất của chủ nô để sản xuất bị biến thành
lệ nông mà nhiều nông dân tự do bị phá sản, dân nghèo thành thị, người thuộc
các “man tộc” đến sống trên lãnh thổ đế quốc La Mã cũng được lĩnh canh ruộng
đất của địa chủ chủ nô và họ cũng biến thành lệ nông.
Những người lĩnh canh ruộng đất của địa chủ chủ nơ đều có nghĩa vụ nộp
một phần hoa lợi thu được hàng năm cho chủ đất. Ngoài ra họ còn phải tới làm
cho chủ một số ngày lao dịch khơng được trả cơng có nơi từ 2 – 3 ngày trong

một tuần lễ, có nơi 6 – 12 ngày trong một năm. Người ta gọi mối quan hệ đó là
chế độ lệ nông. Những người lĩnh canh ruộng đất của chủ đất được gọi bằng một
tên chung là “ Lệ nông”. Chế độ lệ nông dần phát triển, đặc biệt từ thế kỷ III trở
đi nó được phổ biến khá rộng rãi trên toàn lãnh thổ của đế quốc. Theo Ăngghen “
lệ nông ấy là tiền thân của chế độ nơng nơ thời trung đại”

(7, 488)

Vì lợi ích của bọn đại địa chủ, chủ nơ hơn nữa vì sợ để mất nguồn thu từ
tô thuế nhà nước La Mã hết sức ngăn ngừa lệ nông bỏ trốn, nên chủ trương cho
họ định cư trên những đám ruộng nhất định. Sắc lệnh của Hồng đế Adrien (117
– 138) và Antơni (138 – 1610) quy định: Cấm chủ nơ khơng có quyền giết hại lệ
9


nơng mà có quyền truy bắt và trừng trị những lệ nông trốn khỏi trang viên của
chủ, lệ nông không được quyền rời bỏ ruộng đất của chủ đế đi nơi khác. Sắc lệnh
của Hoàng đế Conxtantinuxơ (332) quy định: Nô lệ hay lệ nông chạy trốn bắt
được phải trả cho chủ cũ. Một số sắc lệnh khác lại quy định: Nông dân tự do đã
sống trong một địa phương trong một thời gian nào đó bị mất quyền rời bỏ địa
phương đó đi nơi khác. Như vậy nơng dân tự do suốt đời bị giữ lại ở một địa
phương, suốt đời bị sự “bảo hộ” của địa chủ trước sau cũng bị rơi xuống địa vị
lệ nông. Pháp luật đã cột chặt họ vào ruộng đất. Khi chủ bán ruộng đất đi thì
đồng thời bán cả gia đình người lệ nông canh tác trên mảnh đất ấy. Để bảo vệ
nguồn nhân lực đang khan hiếm, bọn chủ nô ngăn cấm những cuộc hôn nhân
giữa những người lệ nông không cùng chủ. Thậm chí những cuộc hơn nhân đó
khơng được coi là hoàn toàn hợp lệ mà chỉ được coi là một trường hợp cùng ăn
chung ở chung với nhau mà thôi cũng như hôn nhân giữa những người nô lệ vậy.
Ngồi nghĩa vụ đối với chủ lệ nơng cịn phải nộp thuế và làm nghĩa vụ lao dịch
với nhà nước.

Canh tác trên ruộng đất của chủ, lệ nông phải nộp phần lớn hoa lợi cho
chủ nhưng họ cũng được hưởng một phần hoa lợi trên ruộng đất, tuy ít ỏi nhưng
cũng đảm bảo cho họ một cuộc sống dễ chịu hơn đời làm nô lệ. Điều mà chủ nô
quan tâm là cuối vụ thu hoạch anh ta phải nộp 1/3 hoa lợi thu hoạch cho họ. Bởi
vậy nếu tăng năng suất lao động lên cao thì phần sản phẩm mà lệ nông được
hưởng sẽ nhiều hơn, đời sống của họ sẽ đỡ cực hơn.
Như vậy, tuy trên danh nghĩa lệ nơng được chút ít tự do, xong trong thực
tế hàng ngày lệ nông cũng bị ngược đãi như nô lệ, lệ nơng khơng khác gì nơ lệ là
mấy “ Nói đúng ra, họ khơng phải là người nơ lệ nhưng cũng không phải là
người tự do”. Họ vẫn bị cột chặt vào ruộng đất , không được kết hôn với người
tự do. Họ chỉ được quyền chiếm hữu mà khơng có quyền sở hữu tài sản. Nhưng
những gì mà lệ nông được hưởng dù sao cũng đảm bảo cho họ một mức sống dễ
chịu hơn nô lệ. Đây cũng là ngun nhân khiến cho chế độ lệ nơng có thể tạo ra
một năng suất lao động lớn hơn chế độ chiếm hữu nô lệ. Không những thế
10


phương thức quản lý lớn làm ăn canh tác có phần tiến bộ hơn chế độ chiếm hữu
nô lệ.
Lợi dụng tình trạng hỗn loạn của xã hội và địa vị đặc quyền của mình,
bọn đại địa chủ đã tổ chức ra những lực lượng vũ trang riêng để củng cố trang
trại của chúng và biến các trang trại thành đồn luỹ kiên cố. Trong những khu vực
do chúng kiểm soát chúng nghiễm nhiên trở thành những ông vua con. Thế lực
của chúng ngày càng mạnh có xu hướng thốt ly khỏi quyền kiểm sốt của chính
quyền trung ương. Hồng đế La Mã đã từng âm mưu hạn chế khuynh hướng cát
cứ của bọn địa chủ chủ nô bằng cách ban bố một số pháp lệnh giảm bớt quyền
“bảo hộ” của địa chủ chủ nô đối với cư dân trong địa hạt của chúng, cấm lập nhà
tù riêng, cấm tổ chức quân đội riêng… Nhưng những biện pháp này đều tỏ ra vô
hiệu. Nếu gọi lệ nông là tiền thân của nơng nơ thời trung đại thì cũng có thể gọi
tên đại địa chủ này là tiền thân của lãnh chúa phong kiến trong tương lai.

Tóm lại, từ thế kỷ thứ IV, chế độ chiếm hửu nô lệ ở đế quốc La Mã đã
bước vào giai đoạn khủng hoảng, suy tàn. Mầm mống của phương thức sản xuất
mới- Phương thức sản xuất phong kiến đã bắt đầu nảy sinh trong lòng xã hội
chiếm hửu nơ lệ dưới hình thức chế độ lệ nông. Tuy nhiên bước chuyển từ chế độ
chiếm hửu nô lệ sang chế độ phong kiến diễn ra một cách bằng phẳng mà nó
được thực hiện bằng một cuộc cách mạng đó chính là cao trào khởi nghĩa của nô
lệ, lệ nông và dân nghèo, trong những thế kỷ IV, V trên khắp bờ cõi của đế quốc
La Mã.
1.1.2. Q trình nơng nơ hố nơng dân cơng xã nơng thơn Maccơ.
1.1.2.1. Vài nét về q trình thành lập vương quốc của người
Giecmanh.
Người Giecmanh là một trong những bộ tộc lớn thuộc chủng tộc Arian, họ
sống ở vùng phía Bắc biên giới của RôMa. Trước khi xâm nhập vào lãnh thổ Tây
Bộ La Mã, cư dân Giecmanh ở trình độ mạt kỳ nguyên thuỷ. Nên người La Mã
gọi họ bằng cái tên khinh miệt là “man tộc”.

11


Cuối thế kỷ thứ II đầu thế kỷ thứ III, cùng với sự phát triển kinh tế và gia
tăng dân số nhanh chóng, người Giecmanh đã đặt ra yêu cầu mở rộng thêm đất
đai để sinh sống. Vì thế, một số bộ lạc người Giecmanh đã di cư vào lãnh thổ đế
quốc La Mã, như người Vi-xi gốt (Tây Gốt), người Ơ-vơ-rê gốt (Đơng Gốt)
người Phrăng, người Ănglơxắcxơng… họ thường tập kích vào các biên cương và
tự nhận mình làm “đồng minh” của người La Mã trong phong trào khởi nghĩa
của đế quốc La Mã. Giữa họ và người La Mã đã từng có quan hệ trao đổi, mua
bán và những cuộc xung đột ở vùng biên giới. Nhiều nô lệ, lệ nơng ở đế quốc La
Mã có nguồn gốc là các tù binh người “man tộc” bị bắt trong các cuộc chiến
tranh ở biên giới.
Lúc bấy giờ, những ngưòi La Mã còn đủ sức mạnh để chế ngự được

những “man tộc” đã vào sống trong lãnh thổ của mình và ngăn chặn được các
cuộc xâm lược từ ngoài tới. Nhưng rõ ràng, lãnh thổ La Mã khơng cịn là khu
vực đóng kín đối với bộ lạc người Giecmanh nữa. Đến giữa thế kỷ thứ IV, các bộ
lạc du mục Hung nô ào ạt xông vào cướp phá tàn sát cư dân Đông Nam Âu gây
ra sự rối loạn khắp trong và ngoài đế quốc La Mã. Các bộ lạc người Giecmanh ở
ngoài lãnh thổ đế quốc La Mã vội vã di cư vào trong lãnh thổ tạo nên cuộc di
chuyển lớn giữa các tộc người trong hai thế kỷ IV và V.
Cuộc di cư lớn của các tộc người đúng vào lúc đế quốc La Mã già cỗi,
mục ruỗng, suy sụp nghiêm trọng trong tình trạng “bần cùng hố phổ biến, công
thương nghiệp và nghệ thuật thụt lùi, số dân giảm sút, thành thị tiêu điều, nông
nghiệp sút kém…” ( 486, 487) khơng cịn đủ sức ngăn cản, chống đỡ những cuộc
xung đột, chống phá của người “Man tộc”. Nơ lệ, lệ nơng, dân nghèo bị áp bức,
bóc lột nặng nề, họ chờ đón những người “Man tộc” như những vị cứu tinh cuả
mình, họ đã chạy sang phía những người “Man tôc”, một số tham gia vào quân
đội Giecmanh, mở cửa thành của người La Mã cho người “Man tộc” tràn vào.
Sau đó người Giecmanh đã dễ dàng xâm nhập vào Tây La Mã, chiếm hết những
vùng naỳ đến vùng khác, lập ra những vương quốc của họ. Vương quốc Man tộc
được thành lập đầu tiên là vương quốc Visigớt (Tây gốt) năm 419 chiếm miền
12


nam xứ Gơlơ và Tây Ban Nha. Tiếp đó là vương quốc Văng Đan, chiếm Bắc Phi
và các quần đảo phía Tây Địa Trung Hải, vương quốc Buốcgơng Đơ ở miền đông
nam Gôlơ, vương quốc Phơrăng ở miền đông bắc cứ Gôlơ…
Thế là đến giữa thế kỷ thứ V, phần lớn đất đai trên lãnh thổ phía tây của
đế quốc La Mã đã thuộc về người Giecmanh. Năm 416 một tên tướng người
Giecmanh là Ơđiaxơ đã làm chính biến lật đổ Hồng đế cuối cùng của Tây La
Mã là Rơmulutơguxtulut rồi tự xưng làm vua, đồng thời cũng xoá bỏ bộ máy
chính quyền tối cao của đế quốc Tây La Mã. Sự kiện này đánh dấu sự diệt vong
của đế quốc La Mã. Tây ây bước sang một thời đại mới, thời đại phong kiến.

1.1.3.2. Sự xuất hiện của công xã Macxơ và q trình nơng nơ hố
người nơng dân cơng xã.
Cùng với q trình xâm nhập của tộc người Giecmanh là đánh dấu sự diệt
vong của đế quốc La Mã - Một đế quốc hùng cường từng chinh phạt muôn
phương. Và cũng từ đây đánh dấu một sự thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế
xã hội ở Tây âu. Có thể nói chế độ chiếm hữu nơ lệ của đế quốc La Mã và chế độ
Công xã nguyên thuỷ của người Giecmanh bị tan rã nhường chỗ cho một thiết
chế xã hội mới ra đời trên cơ sở thiết lập mầm mống quan hệ sản xuất mới với
kinh nghiệm của người ngoại tộc.
Cuộc xâm nhập của người “Man tộc” đã tiêu diệt hoàn toàn các điền trang
của chủ nô La Mã sử dụng sức lao động của nô lệ, lệ nông và phá huỷ hầu hết
các đô thị hoạt động công thương nghiệp. Mọi hoạt động kinh tế ở các vương
quốc Man tộc đều tập trungỉơ nông thôn, lấy trồng trọt và chăn nuôi làm cơ sở,
thủ công nghiệp làm nghề phụ trong nền kinh tế.
Trong quá trình chinh phục La Mã, người Giecmanh đã chiếm được rất
nhiều ruộng đất của người La Mã với những công cụ lao động và phương thức
canh tác đã có sự cải tiến. Các gia đình có thể cày cấy riêng rẽ, sản phẩm thu
được đủ ni sống gia đình họ.Vì thế ruộng đất cày cấy chiếm đoạt được của địa
chủ, chủ nô La Mã, người Giecmanh đem phân chia cho các gia đình cá thể.
Trong thời gian di cư và chiến tranh lâu dài, các thành viên thị tộc của các thị tộc
13


khác nhau của người Giecmanh thường bị xáo trộn, họ sống lẫn với nhau không
theo quan hệ huyết thống nữa mà theo quan hệ láng giềng. Những người này
sống với nhau trong các làng xóm lập thành các cơng xã nơng thơn “ Maccơ”.
Điều đó cũng đồng nghĩa với chế độ công xã nguyên thuỷ của người Giecmanh
được xây dựng trên cơ sở huyết thống đã bị tan rã. Lúc này một bộ phận của
người La Mã tự do những người nơ lệ, lệ nơng được giải phóng cũng tham gia
vào tổ chức công xã nông thôn. Mỗi một gia đình trong cơng xã nơng thơn được

chia phần ruộng đất cày cấy gọi là “đất phần”. Nhưng các gia đình này khơng có
quyền sở hữu hồn tồn với mảnh “đất phần” này họ không thể mang bán đổi
hay ban tặng cho con cháu. Sau mùa màng những ruộng đất cày cấy này để làm
bãi chăn nuôi công cộng. Tất cả mọi cư dân trong làng đều nuôi chung gia súc tại
bãi cỏ đó. Rừng rú, đồng cỏ, đất hoang, nguồn nước là sở hữu công cộng. Những
thành viên công xã được tự do đốn gỗ, săn thú, đánh cá, tát nước tại những đất
đai cơng cộng đó. Những người nơng dân cơng xã khơng thể nào sống hồn tồn
riêng rẻ mà cần hợp tác tương trợ nhau để cùng sản xuất, bởi vậy trong cơng xã
nơng thơn vừa có tính chất cá thể vừa có tính chất tập thể. Những người nông
dân công xã phải nộp thuế làm nghĩa vụ binh dịch, lực dịch cho vua “Man tôc”.
Đến cuối thể kỷ IV công xã nông thôn dần tan rã, chế độ tư hữu ruộng đất
của người Man tộc dần xuất hiện do sự có mặt của hiện tượng nhượng bán ruộng
đất. Bởi thế cũng từ đây ruộng đất bắt đầu trở thành tài sản riêng của người được
phân phối, có thể đem mua bán, đổi chác hay đem di tặng cho con cháu, tức là họ
đã có quyền sở hữu ruộng đất. Phần ruộng đất mà nông dân cày cấy biến thành
ruộng đất thuộc sở hữu của họ, được tự do nhượng lại hay mua bán. Như thế gọi
là “Alơ” hay “đất tự do”. Sự xuất hiện của ruộng đất “Alơ” không tránh khỏi làm
cho công xã nông thôn dần tan rã và sự phân hoá giai cấp trong xã hội ngày càng
sâu sắc. Ph ăng ghen đã nhận xét rằng: “Alơ có nghĩa là khơng tạo ra khả năng,
mà cịn tạo ra tính tất yếu sự chuyển biến thành cái trái ngược với quyền bình
đẳng nguyên thuỷ trong chiếm hữu ruộng đất. Từ khi xuất hiện Alơ tài sản ruộng

14


đất có thể được tự do, ruộng đất biến thành hàng hố khi đó sự xuất hiện chế độ
chiếm hữu ruộng đất lớn chỉ cịn thời gian mà thơi” (2,16)
Trên thực tế chế độ ruộng đất phong kiến đã được hình thành, đó là kết
quả của q trình phong kiến hố tức là q trình giai cấp địa chủ thế tục cũng
như giáo hội tìm cách chiêm đoạt ruộng đất của nông dân và biến nông dân công

xã tự do và các tầng lớp nhân dân lao động trở thành nơng dân phụ thuộc hay
nơng nơ. Cũng trong q trình đó xã hội dần dần phân hố thành hai giai cấp
chính lãnh chúa và nơng nơ. Lãnh chúa là những kẻ thống trị và chiếm hữu ruộng
đất trong tay còn nơng nơ là người bị bóc lột, bị lệ thuộc chặt chẽ vào lãnh chúa.
Trong các vương quốc của người Giecmanh thì nổi bật lên là vương quốc
Frăng.Ơ đây quá trình phong kiến hố diễn ra điển hình, rõ nét nhất.
Dưới triều đại Mêrô- vanh -giêng của vương quốc Frăng việc ban cấp
ruộng đất cho quý tộc, quan lại và giáo hội cơ đốc giáo ngày càng nhiều.Việc ban
cấp này thường không kèm theo một điều kiện nào cả. Thế lực của quý tộc quan
lại mạnh hay yếu là căn cứ vào số lượng ruộng và số lượng người thân thuộc của
chúng. Bọn quý tộc chủ ruộng đất lúc này không thoả mãn với số ruộng đất và
người thân thuộc được cấp, ln tìm cách mở rộng những thái ấp của chúng ở
những địa phương tìm các khống chế nơng dân cơng xã bên cạnh. Thưịng
thường chúng tổ chức các cuộc đột kích và dùng nhiều thủ đoạn khác như xử án
nông dân, đẩy nông dân ra mặt trận…..Làm cho họ phải phá sản, kiệt quệ cuối
cùng phải nhường lai ruộng đất cho quý tộc. Trong công xã nông thôn sự phân
hoá giai cấp cũng dần xuất hiện. Những xã viên giàu có lợi dụng những khó
khăn, thiếu thốn của nông dân nghèo cho những người này vay mượn gai súc,
thóc giống, lương thực và bắt họ lao động trên ruộng đất của chúng để trừ nợ.
Nếu người nghèo không thể trả nợ đúng hạn chúng sẽ tước đoạt ruộng đất của
họ dần dần họ trở thành những chủ sở hữu ruộng đất lớn. Nhiều người nông dân
không chịu sự áp bức bóc lột của nhà vua, của bọn thân binh quan toà của nhà
vua đành phải từ bỏ thân phận tự do của mình nhận sự “ bảo hộ” của những tên
quý tộc lớn hoặc giáo hội ở bên cạnh (bằng cách giao quyền sử hữu ruộng đất
15


của mình cho tên q tộc đó rồi lĩnh canh lại ruộng đất đó phải nộp tơ thuế, làm
một số việc khác cho tên quý tộc). Như vậy quý tộc lớn lại có thêm nhiều ruộng
đất và nơng dân phụ thuộc trong khi đó số nơng dân nộp tơ thuế đi phu, đi lính

cho nhà nước giảm đi kết quả là thế lực của đại quý tộc càng lớn mà quyền lực
của nhà vua càng giảm đi.
Đến thế kỷ thứ VIII, trong chính sách ban cấp ruộng đất có một sự thay
ĐổI quan trọng sự thay đổi ấy gắn liền với việc tổ chức lại lực lượng quân đội.
Lúc đó vương quốc Frăng đang bị người Arập, Tây ban nha đe doạ nên Saclơ
Macten đã tiến hành một cuộc cải cách quân sự quan trọng gọi là cải cách Bê-nêphi-xi-um, có nghĩa là vật ban cấp, ta có thể dịch là thái ấp. Khác với chính sách
ban tặng ruộng đất trước kia, chính sách phong tặng ruộng đất của Salơ Macten
là chính sách ban cấp kèm theo điều kiện phục vụ quân sự, đất phong được sử
dụng suốt đời chứ không được truyền cho con cháu. Nếu bồi thần (người được
phong đất)không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quân sự thì ruộng đất sẽ bị thu hồi.
Với lối phân phong này khởi đầu các đất phong không phải là sở hữu có
thể thừa kế. Theo quy định nếu tơn chủ (người phong đất) chết thì ruộng đất phải
trả lại cho người kế thừa của tơn chủ. Sau đó bồi thần muốn nhận lại thái ấp thì
phải làm lễ phân phong lại. Nếu bồi thần chết mà con cháu của người này đã đến
tuổi trưởng thành và muốn thừa kế thái ấp thì phải làm lễ phân phong lại. Mục
đích của lễ phân phong lại là để khẳng định quyền hạn và nghĩa vụ của tôn chủ
mới và bồi thần mới. Khi làm lễ phân phong lại, bồi thần phải nộp cho tôn chủ
một khoản lễ vật, khoản lễ vật này khơng có quy định thống nhất có khi là một số
tiền tương đương với toàn bộ thu hoạch trong một năm của thái ấp được phong.
Về sau những quy định này dẫn bị bãi bỏ. Như vậy là trên thực tế đất phong đã
biến thành một sở hữu thừa kế thực sự
Việc thực hiện chế độ phân phong này càng làm cho nông dân phá sản
nhiều hơn. Từ đây nông dân công xã đã chịu sự thống trị và điều khiển trực tiếp
của quý tộc được nhà vua ban cấp, nghĩa vụ của nông dân không những không
giảm nhẹ mà cịn tăng thêm và nơng dân khơng những phải tham gia đóng góp
16


vào những gì do nhà vua tổ chức và điều động bồi thần của vua tham gia mà còn
phải phục dịch không thời hạn cho bọn quý tộc địa phương tham lam, tàn bạo

của mình Cũng vì thế mà quá trình mất đất và nơng nơ hố của nơng dân từ thời
kỳ này trở về sau càng tân tiến hơn trước nữa.
Đến nữa thế kỷ thứ IX, tuy từng bồi thần vẫn phải làm nghĩa vụ quân sự
nhưng đất phong biến thành những lãnh địa có thể truyền cho con cháu, chứ
không được chuyển nhượng mua bán mà thôi. Lãnh địa Bê- nê-phê-xi-um khơng
có quyền thừa kế đã chuyển thành lãnh địa Phê đum cha truyền con nối, cũng có
thể gọi là phiép hay phêốt. Với hình thức lãnh địa này thế lực của các lãnh chúa
không ngừng phát triển và chế độ ruộng đất phong kiến Tây âu đã được hình
thành.
Do thi hành chế độ phân phong ruộng đất của Saclơ Macten cho đến
Saclơmanhơ cùng với việc chiếm đoạt ruộng đất những kẻ giàu có đã dẫn đến sự
hình thành giai cấp phong kiến đông đảo. Đây là giai cấp ít được học văn hố
nhưng lại có tin thần thượng võ cao. Họ lấy việc chiến đấu làm nghề nghiệp, lấy
săn bắn thi võ làm trò tiêu khiển, lấy việc đấu kiếm làm biện pháp, giải quyết
xích mích, mâu thuẫn. Chính giai cấp phơng kiến ấy là cơ sở của chính quyền
nhà vua, để bên trong thì đàn áp các thế lực chống đối, bên ngồi thì gây chiến
tranh để mở rộng lãnh thổ.
Song song với việc hình thành giai cấp địa chủ phong kiến là sự nơng nơ
hố của những thành viên trong công xã Maccơ. Khi mới chinh phục Gôlơ dân
Frăng là người tự do. Họ là những thành viên cơng xã Maccơ (họ có ruộng đất
riêng). Đến đầu thể kỷ VII, công xã Maccơ tan rã, phần lớn thành viên công xã
biến thành những người nông dân tự do có mảnh ruộng của riêng mình. Ngồi
những người nông dân Frăng tự do ra lúc bấy giờ cịn có những người lao động
nơng nghiệp làm việc trong các trang viên của các địa chủ người Frăng cũng như
các địa chủ Rôma củ. Về thân phận họ không thuần nhất mà bao gồm nhiều loại
như lệ nông, nông dân nửu tự do, nô lệ. Trong 3 loại này lệ nông là tầng lớp đông
đảo nhất được nhận một phần đất do chủ giao cho họ có nghĩa vụ phải nộp tô,
17



nộp thuế thân, phải làm lao dịch và không được rời ruộng đất. Nô lệ làm việc
trong trang viên chia làm 2 loại. Loại thứ nhất gồm những đầy tớ làm các công
việc hầu hạ trong nhà lãnh chúa và những người làm các nghề thủ công như thợ
làm bánh mì, thợ đóng xe, thợ kim hồn…. làm việc trong các xưởng của lãnh
chúa họ bị coi là tài sản của chủ và có thể bị mua bán. Loại thứ 2 là những nô lệ
được cấp ruộng đất họ phải nộp địa tô và không được rời bỏ ruộng đất. Nộp tơ
xong số sản phẩm cịn lại thuộc quyền sở hữu của họ. Thế là về danh nghĩa họ
vẫn là nô lệ nhưng thực chất họ đã biến thành nông nơ. Cịn nơng dân nưả tự do
là những người có địa vị cao hơn nô lệ nhưng thấp hơn lệ nông. Họ cũng được
giao cho một mảnh đất để canh tác và truyền mảnh đất ấy từ đời này sang đời
khác. Cùng với sự phát triển của phương thức bóc lột phong kiến, sự khác biệt
giữa 3 loại lực lao động nơng nghiệp ngày càng ít. Họ biến dần thành một tầng
lớp có thân phận giống nhau đó là tầng lớp nông nô.
Đối với nông dân tự do họ là tầng lớp đông đảo nhất trong giai cấp nông
dân nhưng do tình hình đó khơng duy trì được lâu do các nguyên nhân như tai
nan, mất mùa, gia súc chết không canh tác được phải nộp thuế khá nặng nề, phải
từ bỏ ruộng đất quê hương để đi làm nghĩa vụ binh dịch…nhiều nông dân bị phá
sản phải bán ruộng đất của mình.
Sau khi khơng cịn tư liệu sản xuất nữa, nơng dân chỉ cịn cách là lĩnh
canh ruộng đất của lãnh chúa để cày cấy và biến thành nông dân lệ thuộc.
Những nông dân chưa mất ruộng đất thi không chịu nổi sự hách dịch của
các quan lại và sự o ép của lãnh chúa, nên phải đem ruộng đất của mình hiến
cho địa chủ thế tục hoặc giáo hội để nhờ họ che chở rồi xin họ nhận lại mảnh đất
ấy để cày cấy. Sau khi hiến ruộng rồi nhận lại mảnh ruộng đất ấy để cày cấy
người nông dân không những đã mất quyền sở hữu với đất đai của mình mà bản
thân mình cũng khơng cịn là người tự do nữa. Họ đã biến thành một loại nông
dân lệ thuộc tương tự như lệ nông hay nông dân nửa tự do và đến đời con cháu
họ thì hồn tồn biến thành nơng nơ.

18



Cũng như cư dân lao động bản địa đến đây phần lớn nông dân tự do
người Frăng đã biến dần thành nông nô. Phương đông trung đại cũng tồn tại một
bộ phận nông dân như vây (Nông dân lĩnh canh hay tá điền). Cụ thể q trình
xuất hiện của nơng dân tá điền ở Phương đông như thế nào dưới đây chúng ta
cùng tìm hiểu .
1.2.

Q trình xuất hiện nơng dân tá điền Phương đông

1.2.1.Sự tan rã của công xã nông thôn
Như chúng ta đã biết vào khoảng thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên
đến thiên niên ký thứ II trước cơng ngun lồi người đã bước vào giai đoạn quá
độ từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ sang xã hội có giai cấp. Trong giai đoạn quá
độ đó trên thế giới Xuất hiện một loại hình tổ chức xã hội mới. Đó là cơng xã
nơng thơn là hệ quả đầu tiên cuả sự phát triển lực lượng sản xuất.
Cơng xã nơng thơn là một tổ chức có tính chất biệt lập với thế giới bên
ngoài. Mặc dù vậy trong cơng xã nơng thơn có sự phân cơng lao động nhất định,
trong đó có những gia đình chun làm nghề nơng, có những gia đình làm nghề
thủ cơng, có những gia đình làm nghề bn, chăn ni. Nhưng sự phân công này
không rõ ràng. Công xã nông thôn là một đơn vị kinh tế tự nhiên bởi ở đó ln
có sự kết hợp chặt chẽ giữa nơng nghiệp và thủ công nghiệp điều này đã tạo ra
một đặc điểm nổi bật của công xã nguyên thuỷ. Sự kết hợp này vừa được thực
hiện trong gia đình vừa thực hiện trong cộng đồng cơng xã. Đối với từng hộ gia
đình đàn ông thường làm nghề nông như cày bừa và những việc nặng nhọc còn
đần bà chỉ làm những việc trong nhà như trông nom con cái, chuẩn bị bữa ăn
cho gia đình, gieo mạ…Đối với tồn cơng xã thì sự phân công dựa theo nghề
nghiệp, nghĩa là bên cạnh những gia đình làm nghề nơng thì có những gia đình
làm thủ cơng phục vụ cho cơng xã. Do vậy những gia đình làm nghề nơng có thể

đem sản phẩm nông nghiệp để đổi lấy sản phẩm thủ công nghiệp và ngược lại.
Sự trao đổi diễn ra trong công xã để đảm bảo cuộc sống cho từng gia đình mà họ
khơng phải thực hiện trao đổi với bên ngồi.

19


Trong cơng xã nơng thơn ruộng đất trong tồn quốc trên danh nghĩa là
thuộc về thiên tử, như sách xưa đã nói: “Dưới bầu trời rộng lớn, khơng nơi nào
khơng phải là đất của nhà vua, trong phạm vi lãnh thổ, không người nào không
phải là thần dân của nhà vua”( ). Nhưng thực chất thì ruộng đất do các công xã
chiếm giữ. Nhà nước đã áp dụng chế độ phân chia ruộng đất theo khoảnh. Theo
đó ruộng đất cày cấy tuỳ theo tốt xấu mà phân phối cho nông dân công xã theo
thời hạn nhất định. Nông dân cày cấy một phần ruộng đất một phần khác để đất
nghỉ lấy lại độ tơi xốp màu mỡ và cứ như thế ruộng đất theo vài năm lại được
phân phối lại một lần ruộng của hộ này đổi cho ruộng của hộ kia. Cịn rừng rú,
sơng ngịi, ao hồ là tài sản chung của thơn xã, mọi người đếu có thể đi kiếm củi,
bắt cá và đi săn trong phạm vi thôn xã. Nhà cửa, vườn tược là tài sản tư hữu của
nơng dân cơng xã. Đây chính là chế độ tỉnh điền ở Trung Quốc thời Tây Chu.
Nhưng kể từ khi sử dụng công cụ bằng sắt, sức kéo trong sản xuất nơng
nghiệp trở nên phổ biến thì khơng những tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai
khẩn đất hoang, tát cạn đầm hồ đắp đê điều, đào mương rãnh tưới nước và thốt
nước,mà cịn tạo điều kiện mới cho nâng cao năng suất lao động trong nơng
nghiệp. Do đó người ta không cần phải chia lại ruộng đất theo định kỳ, căn cứ
vào chất đất tốt hay xấu như trước đây nữa mà công xã bây giờ cứ giao hẳn từng
mảnh ruộng đất cho từng gia đình nơng dân nhận lấy cày cấy làm ăn trong thời
hạn dài. Vì thế nơng dân cơng xã có thể tuỳ ý sản xuất canh tác trên mảnh đất của
mình được sử dụng mà không sợ năm sau công xã đem chia lại cho người khác.
Do đó nơng dân gắn bó lâu dài với mảnh ruộng của mình. Điều này khuyến
khích nơng dân sản xuất, đầu tư vào sản xuất nên năng xuất lao động sẽ tăng.

Cùng với quá trình khai thác đất hoang, ruộng nông dân vỡ hoang cũng biến
thành ruộng tư của họ ngày một nhiều. Mặt khác, đây cũng chính là thời điểm mà
thế lực của bọn quý tộc cũng lớn mạnh lên dần, ruộng công xã cũng dần dần bị
chúng chiếm đoạt ruộng đất làm ruộng tư. Tổ chức công xã nông thôn (chế độ
tĩnh điền) dẫn tan rã. Chế độ về tư hữu về ruộng đất xuất hiện và ngày càng phát
triển.
20


1.2.2. Sự xuất hiện của chế độ tư hữu ruộng đất
Như vậy do công cụ sản xuất được cải tiến và dân số lao động tăng dần
lên người ta có khả năng khai khẩn thêm nhiều đất hoang. Một số nơng dân khai
phá thêm một số ít ruộng đất ngồi phần đất được chia tạo nên sự chênh lệch về
tài sản trong hàng ngủ nhân dân. Hơn nữa do kỹ thuật sản xuất tiến bộ việc đầu
tư công sức lao động vào ruộng đất cũng khác nhau, việc định kỳ chia lại ruộng
đất. Vì vậy đến thời Xuân Thu một số nơng dân cũng có ruộng đất riêng.
Thời Tây Chu vì ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước nên không
được mua bán, nhưng đến thời Xuân Thu hiện tượng mua bán ruộng đất đã xuất
hiện , sách tả truyện chép: “ Người Nhung Địch đến ở, dùng vật quý đổi lấy đất,
đất có thể mua bán”
Hiện tượng mua bán ruộng đất ra đời là kết quả tất yếu của chế độ ruộng
đất thuộc quyền sở hữu tư nhân đồng thời thúc đẩy ruộng tư phát triển nhanh
chóng.Năm (654 trước công nguyên) nước Tấn thi hành chế độ viên điền có định
nơng dân vào ruộng đất đã giao cho nông dân sử dụng, bãi bỏ lệ hàng năm chia
lại ruộng đất. Sau khi chế độ tư hữu ruộng đất phát triển, số lượng ruộng đất cho
nông dân chiếm hữu khơng giống nhau nữa, hình thức thu thuế khơng thích hợp
nên được thay đổi thuế mới đánh vào từng mẫu ruộng. Năm 594 trước công
nguyên nước Lỗ thực hiện chế độ thuế mới, theo diện tích ruộng đất, căn cứ theo
số lượng mẫu ruộng mà nông dân chiếm hữu để đánh thuế. Về sau các nước khác
cũng bắt chước nước Lỗ Chế độ thuế mới căn bản là thu hiện vật, nhưng sau các

sưu dịch khác vẫn không bãi bỏ, việc đó chứng tỏ nước Lỗ chính thức thừa nhận
sự chênh lệch về ruộng đất trong hàng ngũ nông dân và quyền tư hữu ruộng đất
của nông dân là hợp pháp. Năm 350 trước công nguyên nước Tần thi hành luật
cải cách Thương Ưởng tuyên bố xoá bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của công xã
nông thôn, thừa nhận chế độ tư hữu về ruộng đất, quyền tự do mua bán ruộng đất
“ phá tỉnh điền – phá bờ ruộng” mở rộng diện tích trồng trọt, phát triển sản xuất
nông nghiệp. Nhà nước trực tiếp thu thuế của nông dân theo diện tích trồng trọt,

21


khuyến khích nơng dân cày cấy, dệt vải. Nhà nào sản xuất nhiều thì được miễn
sưu dịch, bỏ ruộng đất cơng cày cấy để đi bn hoặc lươì lao động đến nỗi nghèo
khổ thì phạt làm nơ lệ nhà quan.
Những chính sách ấy của các nước càng tạo điều kiện cho ruộng tư phát
triển, người ta có thể tiến hành mua bán ruộng đất, người giàu tậu ruộng cho
nông dân lĩnh canh để nộp tô. Như thế quan hệ phong kiến bóc lột bắt đầu ra đời.
Từ đó ruộng đất càng tập trung vào tay các địa chủ lớn, nông dân nhiều người bị
mất ruộng đất: “ Nhà giàu ruộng liên bờ bát ngát, người nghèo khơng có tấc đất
cắm dùi”
Vậy là do sự phát triển của sức sản xuất, tổ chức công xã nông thôn bị tan
rã , đồng thời với nó là sự xuất hiện của chế độ tư hữu ruộng đất. Điều này tất
yếu dẫn dến trong xã hội có sự phân hố giai cấp mạnh mẽ. Xuất hiện tầng lớp
địa chủ đó là những người chiếm hữu ruộng đất. Ngoài quý tộc, quan lại, quân
vương được ban cấp ruộng đất trở thành địa chủ, thì do chính sách mua bán
ruộng đất nên một bộ phận nhỏ nơng dân sản xuất giỏi, thương nhân có điều kiện
mua ruộng đất cũng trở thành địa chủ. Phải nói rằng giai cấp địa chủ chiếm hữu
một số lượng ruộng đất lớn. Ví như ở thời Đường một cơng thần tên là Lý Tịch
được vua đường ban cho 1000 khoảng ruộng. Ngồi số ruộng đất được ban
thưởng các địa chủ cịn tìm cách chiếm thêm ruộng đất. Vì vậy lúc bầy giờ có

một số đại địa chủ được gọi là “ ông nhiều ruộng” ( Lư Tùng Nguyên), “ kẻ
nghiện đất” (Lý Bành Niên). Hiện tuợng tập trung ruộng đất vào tay giai cấp địa
chủ thời Nguyên lại càng kinh khủng, trong đó các thân vương q tộc Mơng Cổ
được vua ban cho rất nhiều ruộng đất. Đã thế bọn địa chủ cịn tự mình chiếm
đoạt ruộng đất của dân, có kẻ như An Tây Vương đã chiếm đến hơn 100 nghìn
khoảnh. Nhân tình hình đó bọn chủ Hán tộc cũng đua nhau chiếm đoạt ruộng đất,
có nơi như Phúc Kiến 5/6 ruộng đất của cả huyện Sùng An thuộc về địa chủ.
Đầu thời Minh, Chu Nguyên Chương có quy định các công thần, công hầu, thừa
tướng được ban cấp nhiều nhất 100 khoảnh cịn thân vương thì được 1000
khoảnh. Nhưng đến đời Minh các thân vương, công chúa thường được ban cấp
22


hàng nghìn, hàng vạn khoảnh như Phúc vương được 20.000 khoảnh, quan hoạn
Nguỵ Trung Hiền được ban 10.000 khoảnh, bọn phú hào ở địa phương cũng
chiếm hữu hàng trăm mẫu ruộng. Như vậy thời phong kiến ruộng tư ngày càng
phát triển và số lượng tập trung vào tay bọn địa chủ ngày càng một nhiều.
Một số nông dân vẫn giữ phần đất của mình và biến thành nơng dân tự
canh, đa phần nông dân mất ruộng phải đi cấy rẽ, làm thuê tức họ phải lĩnh canh
ruộng đất của địa chủ để cày cấy, nộp tô cho địa chủ và trở thành tá điền. Đây
cũng chính là bước đánh dấu quá trình xác lập quan hệ sản xuất phong kiến ở
Phương Đơng mà đặc trưng đó là quan hệ giữa địa chủ và tá điền.
Như vậy với sự xuất hiện của chế độ tư hữu ruộng đất đã dẫn tới tình
trạng một số chiếm hữu nhiều ruộng đất trong xã hội thành giai cấp địa chủ, phần
lớn nông dân mất ruộng phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ và trở thành tá điền.
Nông dân tá điền họ vốn là những người nông dân tự do trong công xã nông thơn
nhưng do họ có qúa ít ruộng đất hay vì điều kiện hồn cảnh mà họ phải bán
ruộng đất vì thế họ phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ để cày cấy. Họ có nghĩa
vụ phải nộp tơ cho chủ ruộng mà từ thời Chiến Quốc đã nêu ra tiền lệ bằng 5/10
thu hoạch. Nói chung mức địa tơ ấy được duy trì trong suốt chế độ phong kiến

Trung Quốc. Tuy địa vị kinh tế của họ trước sau khơng thay đổi, nhưng về thân
phận thì tuỳ theo từng thời kỳ mà có nhiều khác nhau.
Thời Tây Hán loại nông dân tá điền này vẫn là thần dân của nhà nước,
nhưng từ thời Đông Hán đến Nam bắc triều đại bộ phận nông dân tá điền trở
thành điền khách, bộ khúc của chủ điền trang, do vậy mức độ lệ thuộc vào địa
chủ cũng hơn trước, trái lại đối với nhà nước họ khơng phải chịu nghĩa vụ gì cả.
Thời Đường, Tống nông dân cày cấy ruộng đất của điền trang gọi là trang
khách, sự lệ thuộc của họ vào chủ có phần giảm xuống, quan hệ giữa chủ điền
trang và trang khách thuần tuý là quan hệ địa chủ – tá điền. Họ được lập hộ tịch
riêng gọi là “ khách hộ”. Thời Tống so “khách hộ” chiếm khoảng 35% số lượng
nông dân.

23


Nhưng đến thời Nguyên cùng với quá trình cướp đoạt ruộng đất và nô
dịch nông dân của bọn địa chủ Mông cổ và Hán tộc, tá điền phải nộp tô nặng hơn
trước và bị lệ thuộc chặt chẽ vào địa chủ. Pháp luật triều Nguyên quy định nếu
địa chủ đánh chết tá điền thì bị phạt đánh 107 gậy trong khi đó nếu đánh chết nơ
tỳ thì bị phạt 87 gậy.
Trong hai loại nơng dân nói trên, nơng dân tự canh là đối tượng bóc lột và
là nguồn lao dịch chủ yếu là nước, cịn nơng dân tá điền là đối tượng bóc lột chủ
yếu của giai cấp địa chủ. Vì vậy nhà nước muốn duy trì đên mức tối đa tầng lớp
nơng dân tự canh cịn bọn địa chủ thì muốn chiếm đoạt ruộng đất của nơng dân
và bắt họ lệ thuộc vào mình. Do đó đã dẫn tới sự giành giật ruộng đất và nông
dân giữa nhà nước phong kiến và giai cấp địa chủ mặc dù giai cấp địa chủ là cơ
sở của giai cấp nhà nước phong kiến và nhà nước phong kiến là chính quyền của
giai cấp địa chủ.
Tóm lại, đều là những người lĩnh canh ruộng đất cả nông dân nông nô
Tây Âu và nơng dân tá điền Phương Đơng đều có một q trình hình thành riêng.

Vậy thân phận và đời sống của họ như thế nào ? giữa họ có điểm gì tương đồng,
khác biệt ? chương 2 sẽ giải quyết vấn đề này.

Chương 2: Thân phận và đời sống của nông dân nông nô Tây Âu
trong sự đối sánh với thân phận và đời sống của nông dân tá điền Phương
Đông.
Xã hội lồi người từ khi có giai cấp và nhà nước là xã hội có sự phân chia
kẻ giàu ngưịi nghèo, kẻ thống trị người bị trị. Cùng với chế độ nô lệ, chế độ đã
đạt đến mức độ phát triển cao nhất của nó trong thời đại văn minh thì cũng diễn
ra cuộc phân chia lớn đầu tiên của xã hội thành giai cấp bóc lột (chủ nơ) và giai
cấp bị bóc lột (nơ lệ) sự phân chia đó vẫn tiếp tục tồn tại trong suốt thời đại văn
minh. Chế độ nơ lệ là hình thức bóc lột đầu tiên chỉ riêng thế giới cổ đại mới có.
Tuy nhiên một hình thái kinh tế xã hội ra đời bao giờ cũng tồn tại trong mình nó

24


những tàn dư của hình thái kinh tế xã hội trước nó và những mầm mống của hình
thái kinh tế xã hội sau nó. Với quy luật đó từ thế kỷ thứ III đến V trong lòng xã
hội chiếm hữu nô lệ đã nảy sinh những mầm mống của quan hệ sản xuất phong
kiến, đây cũng là lúc trong xã hội chiếm hữu nô lệ xuất hiện mâu thuẫn sâu sắc
giữa quan hệ sản xuất cũ và lực lượng sản xuất mới. Sự ra đời của tầng lớp lệ
nông là sản phẩm của mối mâu thuẫn khơng điều hồ được ấy. Chính tầng lớp
này đã góp phần tan rã phương thức sản xuất chiếm hữu nơ lệ. Hay nói các khác
đó là bước quá độ để xã hội chiếm hữu nô lệ bước sang xã hội phong kiến.
Song hành với sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ của đế quốc La Mã,
sự xâm nhập của bộ tộc Giecmanh là sự ra đời cuả chế độ phong kiến Tây Âu.
Trong xã hội đó thay thế cho giai cấp chủ nô, kẻ thống trị xã hội là quý tộc phong
kiến. Họ là những người nắm trong tay tư liệu sản xuất để bóc lột giai cấp bị trị.
Mà cụ thể ở đây giai cấp quý tộc phong kiến chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu

của xã hội ruộng đất và người sản xuất chủ yếu nông dân nông nô.
Vậy tại sao những người nông dân công xã Maccơ canh tác tự do trên đất
đai của họ lại có thể biến thành người lệ thuộc lãnh chúa phong kiến dưới hình
thức nơng nơ.
Q trình phong kiến hố đã biến tất cả giai cấp và tầng lớp trong xã hội
thành 2 giai cấp cơ bản trong xã hội Tây Âu, lãnh chúa và nơng nơ. Đó là q
trình trịng vào cổ những người nông dân công xã vào một sự lệ thuộc hồn tồn
mới. Những người nơng nơ khơng chỉ xuất thân từ nơng dân cơng xã mà họ cịn
có nguồn gốc là lệ nông, nô lệ của xã hội chiếm hữu nô lệ cũ. Dù xuất thân từ
giai cấp nào cuối cùng với q trình phong kiến hố mà cụ thể là q trình nơng
nơ hố của xã hội. Tây âu thời sơ kỳ trung đại đã trở thành một giai cấp duy nhất
người sản xuất chủ yếu của xã hội phong kiến nông dân nông nô.
Thời sơ kỳ và đầu trung kỳ, do lực lượng sản xuất còn thấp nên đặc trưng
kinh tế của thời kỳ này là kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Nông nô là người sản
xuất chính ni sống cả xã hội. Tư liệu sản xuất chính là ruộng đất hầu hết tập

25


×