Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp chuyên khoa cấp i thực trạng công tác giáo dục sức khỏe của điều dưỡng cho người bệnh tại bệnh viện đa khoa tỉnh sơn la năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.97 KB, 46 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

LÊ THỊ HỒNG LOAN

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC SỨC KHỎE
CỦA ĐIỀU DƯỠNG CHO NGƯỜIBỆNH TẠI BỆNH
VIỆN ĐA KHOA TỈNH SƠN LA NĂM 2019

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
TỐT NGHIỆP ĐIỀU DƯỠNG CHUYÊN KHOA CẤP I

NAM ĐỊNH - 2019


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

LÊ THỊ HỒNG LOAN

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC SỨC KHỎE CỦA ĐIỀU
DƯỠNG CHO NGƯỜIBỆNH TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH
SƠN LA NĂM 2019

Chuyên ngành: Điều dưỡng Nội người lớn

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:TS.BS. NGƠ HUY HỒNG

NAM ĐỊNH - 2019




4


i
LỜI CẢM ƠN
Sau 2 năm học tập, giờ đây khi chun đề tốt nghiệp đang được hồn thành, tơi
xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS.BS. Ngơ Huy Hồng –Phó Hiệu
trưởng Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định – người thầy đã tận tình hướng dẫn tơi
trong q trình học tập vàthực hiện chun đề tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Bác sĩ, Điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh
Sơn La đã quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện chuyên đề tốt
nghiệp này.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cám ơn tới Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo
trường Đại học Điều dưỡng Nam Định,trường Cao đẳng Y tế Sơn La, gia đình và bạn
bè đã ln giúp đỡ tơi trong q trình học tập và thực hiện chuyên đề.
Do sự hạn chế về thời gian và khả năng nghiên cứu, chuyên đề không tránh
khỏi sai sót, mong thầy cơ và các bạn thơng cảm và đóng góp ý kiến.
Xin chân thành cảm ơn!
HỌC VIÊN

Lê Thị Hồng Loan


ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi làLê Thị Hồng Loan xin cam đoan đây là cơng trình của riêng tơi, do chính tơi
thực hiện, tất cả số liệu trong báo cáo này chưa được cơng bố trong bất cứ cơng trình
nào khác. Nếu có gì sai trái tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.

Sơn La, ngày tháng năm 2019
Người cam đoan

Lê Thị Hồng Loan


3


MỤC LỤC
Lời cảm ơn…………………………...………………………………………………i
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ii
MỤC LỤC .....................................................................................................................
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................................. iii
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................. 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ………………………………………4
1.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................................... 4
1.2.Cơ sở thực tiễn ..................................................................................................... 13
Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC SỨC KHỎE CỦA ĐIỀU
DƯỠNG 15
2.1. Thực trạng công tác giáo dục sức khoẻ của điều dưỡng trong nước và thế giới ... 15
2.2. Thực trạng công tác GDSK cho NB của ĐD tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La . 16
2.3. Phân tích những điểm mạnh, hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện công tác
GDSK của điều dưỡng tại Bệnh viện ĐK tỉnh Sơn La ............................................... 22
Chương 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC
GIÁO DỤC SỨC KHỎE CỦA ĐIỀU DƯỠNG CHO NGƯỜI BỆNH ...................... 24
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................
Phụ lục 1
Phụ lục 2



iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BYT

Bộ Y tế

CSSKBĐ

Chăm sóc sức khỏe ban đầu

ĐTTC

Điều trị tích cực

GDSK

Giáo dục sức khỏe

HSCC

Hồi sức cấp cứu

HĐNB

Hội đồng người bệnh

NB


Người bệnh

ĐD

Điều dưỡng


iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1 Đặc điểm chung của điều dưỡng

17

Bảng 2.2 Đánh giá chung kiến thức tư vấn- GDSK cho NB của ĐD

18

Bảng 2.3 Đánh giá chất lượng tư vấn giáo dục sức khỏe của ĐD qua kênh
phiếu khảo sát người bệnh

18

Bảng 2.4 Thời điểm GDSK


20

Bảng 2.5 Địa điểm GDSK

20

Bảng 2.6 Phương pháp GDSK

21


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục sức khỏe đã được tuyên ngôn Alma - Ata (1978) coi như giải pháp
hàng đầu để thực hiện chiến lược toàn cầu "Sức khỏe cho mọi người đến năm 2000"
và vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Ngành Y tế Việt nam cũng đã đưa giáo
dục sức khỏe vào vị trí số 1 trong 10 nội dung CSSKBĐ [1].
Giáo dục sức khỏe là một bộ phận công tác y tế quan trọng nhằm làm thay đổi
hành vi sức khỏe. Nó có vai trị to lớn trong việc góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe
cho con người. Nếu giáo dục sức khỏe đạt hiệu quả, nó sẽ giúp làm giảm tỷ lệ mắc bệnh,
tỷ lệ tàn phế và tỷ lệ tử vong, nhất là ở các nước đang phát triển[1],[2].
Hiện nay, công tác giáo dục sức khỏe chưa thực sự quan tâm. Do đó đánh giá
thực trạng giáo dục sức khỏe cho người bệnh, đề xuất giải pháp nâng cao công tác giáo
dục sức khỏe cho người bệnh là thực sự cần thiết.
Công tác giáo dục sức khỏe của điều dưỡng cho người bệnh có vai trị rất quan
trọng, để làm tốt rất cần đến kiến thức và kỹ năng giáo dục sức khỏe của điều dưỡng.
Mặt khác điều dưỡng chiếm số đông trong nhân lực của bệnh viện và có nhiều thời
gian chăm sóc, tiếp xúc người bệnh trong q trình nằm viện. Nếu làm tốt sẽ đạt mục
tiêu tăng cường chất lượng điều trị, tăng khả năng phục hồi và cải thiện chất lượng
cuộc sống cho người bệnh, giảm số lần nhập viện, tiết kiệm chi phí cho điều trị. Thay

đổi hành vi từ có hại sang có lợi, có kỹ năng yên tâm sống chung với bệnh. Nếu làm
không tốt, người bệnh không nhận thức đầy đủ về bệnh,không tuân thủ điều trị, không
thay đổi hành vi, kết quả điều trị không tốt, không cải thiện được chất lượng cuộc
sống, số lần nhập viện tăng, chi phí điều trị tăng, bệnh sẽ nặng lên có thể tử vong[6].
Cơng tác giáo dục sức khỏe của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sơn La đã được sự
quan tâm của Đảng ủy, Ban giám đốc bệnh viện. Tuy nhiên, qua kết quả đánh giá công
tác điều dưỡng năm 2018 của các khoa theo Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt
Nam của Bộ Y tế phiên bản 2.0 với đánh giá theo 83 tiêu chíđã cho thấy cơng tác giáo
dục sức khỏe cịn nhiều hạn chế, chỉ đạt mức 3/5.
Tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Sơn La chưa có chuyên đề, đề tài nào về công tác giáo
dục sức khỏe của điều dưỡng cho người bệnh. Được sự đồng ý của Bệnh viện và Hội
đồng duyệt ý tưởng chuyên đề,chúng tôi thực hiện chuyên đề“Thực trạng công tác


2
Giáo dục sức khỏe của Điều dưỡng cho người bệnh tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sơn
La năm 2019”nhằm xem xét tại sao công tác giáo dục sức khỏe của điều dưỡng cho
người bệnh cịn hạn chế,để từ đó đề xuất giải pháp giúp điều dưỡng thực hiện tốt
nhiệm vụ giáo dục sức khỏe cho người bệnh để người bệnh thay đổi hành vi có lợi cho
sứckhỏe.


3

MỤC TIÊU
1. Mô tả thực trạng về công tác giáo dục sức khỏe của điều dưỡng cho người
bệnh tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sơn La năm 2019.
2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao công tác giáo dục sức khỏe của điều
dưỡng cho người bệnh.



4
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1. 1.1. Giáo dục sức khỏe
1.1.1.1. Khái niệm về Giáo dục sức khỏe
Giáo dục sức khoẻ (GDSK): là một q trình tác động có mục đích và có kế
hoạch lên tình cảm và lý trí của con người nhằm tạo ra hành vi có lợi hoặc làm thay
đổi hành vi sức khỏe (từ có hại thành có lợi) cho cá nhân và cộng đồng [1].
Mục đích chủ yếu của GDSK là giúp cho đối tượng tự nguyện tự giác thay đổi
hành vi sức khỏe của chính mình.
Hành vi sức khỏe là hành vi con người có liên quan tới việc tạo ra sức khỏe tốt,
bảo vệ và phục hồi sức khỏe [1],[2],[15].
1.1.1.2. Tầm quan trọng của GDSK
GDSK là một bộ phận công tác y tế quan trọng nhằm làm thay đổi hành vi sức
khỏe. Nó có vai trị to lớn trong việc góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho con
người. Nếu GDSK đạt hiệu quả, nó sẽ giúp làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tàn phế và
tỷ lệ tử vong, nhất là ở các nước đang phát triển.
GDSK không thay thế được các công tác chăm sóc sức khỏe khác, nhưng
GDSK rất cần thiết để thúc đẩy những người sử dụng các dịch vụ y tế, cũng như thúc
đẩy phát triển các dịch vụ này.
Trong thực tế đã thấy rõ, nếu không làm tốt GDSK thì nhiều chương trình y tế
sẽ đạt kết quả thấp và khơng bền vững, thậm chí có nguy cơ thất bại.
So với các giải pháp dịch vụ y tế khác, GDSK là một cơng tác khó làm và khó
đánh giá kết quả, nhưng nếu làm tốt sẽ mang lại hiệu quả cao nhất với chi phí ít nhất,
nhất là ở tuyến y tế cơ sở.
Vì thế:
GDSK là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của hệ thống y tế, là một chức
năng nghề nghiệp bắt buộc của mọi cán bộ y tế và của mọi cơ quan y tế từTrung ương

đến cơ sở. Nó là một chỉ tiêu hoạt động quan trọng của một cơ sở y tế [11],[15].
1.1.1.3. Các phương pháp GDSK
Phương pháp GDSK trực tiếp[1],[2].


5
Phương pháp GDSK trực tiếp là phương pháp người GDSK trực tiếp tiếp xúc
với đối tượng GDSK.Đây là phương pháp tốt nhất, tiết kiệm nhất nhưng đạt hiệu quả
cao nhất đối với cá nhân, tập thể, cộng đồng. Người GDSK có thể nhanh chóng nhận
được các thơng tin phản hồi từ đối tượng giáo dục nên tính điều chỉnh cao và có hiệu
quả tốt trong việc giúp đỡ đối tượng thay đổi hành vi.
Cách thức
+) Tư vấn trong GDSK:
Là một hình thức thường được sử dụng trong GDSK, đặc biệt đối với cá nhân
và gia đình.Trong tư vấn, người tư vấn cung cấp thông tin cho đối tượng, động viên
đối tượng suy nghĩ về vấn đề và chọn các hành động riêng để giải quyết vấn đề. Tư
vấn còn hỗ trợ tâm lý cho đối tượng khi họ hoang mang, lo sợ về vấn đề sức khỏe
nghiêm trọng khi họ chưa hiểu rõ chúng.
+) Nói chuyện phổ biến kiến thức y học thường thức:
Tổ chức các cuộc nói chuyện sức khỏe giúp mọi người trực tiếp được nghe
những thông tin mới nhất về các vấn đề sức khỏe liên quan tới cá nhân, gia đình và
cộng đồng nhằm giúp các đối tượng suy nghĩ và hướng tới việc thay đổi hành vi. Tuy
nhiên phương pháp này cần kết hợp các phương pháp và sự hỗ trợ khác.
Khi tổ chức một buổi nói chuyện cần làm các việc sau:
- Xác định rõ chủ đề nói chuyện và chỉ nên khu trú vào một chủ đề nhất định.
- Xác định đối tượng tham dự, ngày giờ, địa điểm và thông báo trước để họ
chuẩn bị tới dự (chọn thời gian và địa điểm thích hợp).
- Xác định nội dung cốt lõi cần trình bày.
- Xác định thứ tự trình bày.
- Chuẩn bị các phương tiện hỗ trợ thích hợp với chủ đề và thực tế tại địa

phương.
Khi nói chuyện cần:
- Phải tơn trọng đối tượng.
- Xây dựng mối quan hệ với đối tượng trước khi nói chuyện.
- Nên sử dụng ngơn ngữ địa phương rõ ràng, mạch lạc.
- Cần kết hợp với tranh ảnh, mơ hình và ví dụ minh họa.


6
- Cần bao quát, quan sát đối tượng để điều chỉnh, giải đáp thắc mắc đầy đủ khi
đối tượng yêu cầu.
- Kết thúc buổi nói chuyện cần tóm tắt những vấn đề mấu chốt nhất cho đối
tượng dễ nhớ.
+) Tổ chức thảo luận nhóm:
Rất có hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe ban đầu cũng như trong GDSK. Thảo
luận nhóm trong GDSK là ứng dụng nguyên lý "sự tham gia của cộng đồng" trong
CSSKBĐ. Một nhóm thảo luận tốt nhất là từ 6 - 10 người để tạo cơ hội cho tất cả các
thành viên có thể trình bày và thảo luận làm sáng tỏ những vấn đề chưa hiểu biết và
nêu ra các biện pháp giải quyết các vướng mắc của họ hay của cộng đồng trong đó có
họ sinh sống.
Các điểm cần thực hiện khi tổ chức thảo luận nhóm:
- Xác định chủ đề, nội dung trọng tâm.
- Xác định mục tiêu của thảo luận nhóm.
- Xác định đối tượng mời vào thảo luận nhóm.
- Cần chuẩn bị trước câu hỏi trọng tâm cho chủ đề thảo luận dựa trên những
thơng tin phù hợp với tình hình thực tế.
Trong một số trường hợp, tư vấn cần đáp ứng nhu cầu bí mật cho các đối tượng
bị các bệnh xã hội có định kiến như bệnh lây qua đường tình dục.
+) Đối thoại trực tiếp giữa người làm GDSK với từng cá nhân trong lúc tiến
hành các dịch vụ y tế.

Phương pháp GDSK gián tiếp[1],[2]
GDSK gián tiếp là phương pháp giáo dục mà người giáo dục không trực tiếp
tiếp xúc với các đối tượng giáo dục, các nội dung giáo dục cần được chuyển tải qua
các phương tiện thông tin đại chúng.
Phương pháp này có tác dụng tốt khi chúng ta cung cấp, truyền bá các kiến thức
thông thường về bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho quảng đại quần chúng nhân dân
một cách có hệ thống. Đó là phương pháp hiện nay vẫn được sử dụng khá rộng rãi trên
thế giới cũng như ở nước ta.
Phương pháp này kém hiệu quả và tốn kém, đòi hỏi kỹ thuật cao để vận hành sử
dụng các phương tiện thông tin đại chúng.


7
Các phương tiện đại chúng thường được sử dụng trong phương pháp GDSK
gián tiếp là:
- Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, video.
- Tạp trí, sách báo, tranh ảnh, tranh lật, tờ rơi.
- Pano, áp phích.
- Sách chuyên đề, sách hỏi đáp về sức khỏe bệnh tật.
1.1.1.4. Phương tiện GDSK [1],[2],[15]
Phương tiện GDSK là công cụ mà người GDSK sử dụng để thực hiện một
phương pháp GDSK và qua đó truyền đạt nội dung GDSK cho đối tượng phân loại các
phương tiện GDSK bao gồm:
Phương tiện bằng lời nói: Lời nói là cơng cụ sử dụng rộng rãi và rất hiệu quả
trong GDSK nhất là lời nói trực tiếp với đối tượng. Sử dụng lời nói có thể truyền tải
các nội dung GDSK một cách linh hoạt phù hợp với đối tượng. Lời nói rất tiện lợi và
mang lại hiệu quả cao, có thể sử dụng ở mọi nơi, mọi chỗ, với mọi người, với 1 gia
đình, 1 nhóm nhỏ, 1 cộng đồng... Lời nói có thể dùng trực tiếp hay gián tiếp, lời nói
cịn được dùng để hỗ trợ, phối hợp với các phương tiện GDSK khác như tranh ảnh,
pano, áp phích, mơ hình...Người nói nếu khơng nắm chắc được nội dung truyền đạt có

thể dẫn đến việc cung cấp thơng tin khơng chính xác và gây hiểu lầm cho đối tượng
Phương tiện bằng chữ viết.
Phương tiện tác động qua thị giác (phương tiện GDSK trực quan) tranh, ảnh,
pano...
Phương tiện nghe, nhìn: ti vi, ...
1.1.1.5. Lựa chọn nội dung GDSK
Nội dung GDSK là những thơng tin chính cần trao đổi với đối tượng GDSK
trong một thời gian nhất định.
Ví dụ: Nội dung GDSK về phòng chống một bệnh nào đó thường theo trình tự
sau:
+ Ảnh hưởng xấu do bệnh gây ra.
+ Tầm quan trọng của việc phòng chống bệnh đó.
+ Nguyên nhân của bệnh, đường lây truyền.


8
+ Cách phát hiện và xử trí thơng thường tại nhà và các phương pháp phịng
bệnh thơng thường khác [1],[2],[3].
1.1.2. Vai trị của GDSK trong cơng tác điều dưỡng
Chức năng nhiệm vụ chính của cơng tác điều dưỡng là chăm sóc người bệnh.
Để nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh và tăng cường sự hài lịng người bệnh
thì điều dưỡng phải thực hiện tốt 12 nhiệm vụcủa điều dưỡng được qui đinh tại thông
tư 07/2011 của BYT hướng dẫn cơng tác điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong
bệnh viện. Trong đó, nhiệm vụ thứ nhất là tư vấn GDSK, có vai trị to lớn trong việc
góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho con người. Nếu GDSK đạt hiệu quả nó sẽ
giúp làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tàn phế và tỷ lệ tử vong.
Điều dưỡng chiếm gần 50% trong tổng số nhân lực của bệnh viện và có nhiều
thời gian tiếp xúc với người bệnh từ khi mới vào viện đến khi ra viện. Do đó vai trị
của GDSK trong cơng tác điều dưỡng là rất quan trọng, nếu điều dưỡng làm tốt giúp
người bệnh thay đổi hành vi từ có hại sang có lợi, góp phần nâng cao chất lượng chăm

sóc, điều trị và tăng cường sự hài lòng người bệnh [3].
1.1.2.1. Giáo dục sức khỏe cho người bệnh
- GDSK nhằm giúp người bệnh hiểu rõ về bản chất của bệnh, các yếu tố nguy
cơ cho sự tiến triển của căn bệnh, vai trò của người bệnh trong việc đạt đến kết quả
điều trị tối ưu.
- GDSK giúp cải thiện tỉ lệ người bệnh tuân thủ điều trị: dùng thuốc đều đặn,
luyện tập vận động đều đặn, duy trì tình trạng dinh dưỡng ổn định.
- Loại hình GDSK: phân phát các tài liệu in ấn, tổ chức các buổi trình bày có
minh họa bằng hình ảnh và tài liệu phát tay, thảo luận trong nhóm nhỏ giúp hiểu rõ nội
dung thơng tin, trao đổi kinh nghiệm.
- Các nội dung giáo dục sức khỏe: Sinh bệnh học bệnh, kỹ năng sử dụng thuốc,
hướng dẫn về dinh dưỡng, nhận biết và xử trí các dấu hiệu cảnh báo dấu hiệu nặng,
cách vệ sinh.
-Kỹ thuật sử dụng thuốc
 Có vai trị rất quan trọng giúp tuân thủ điều trị.
 Ưu khuyết điểm của từng dạng thuốc
 Hướng dẫn chi tiết, có hình ảnh minh họa, có thực hành.


9
- Các dấu hiệu cảnh báo tiến triển nặng:
 Giúp người bệnh nhận biết sớm nhất khi có các triệu chứng khởi đầu.
 Có thái độ và cách xử trí thích hợp
 Giảm bớt di chứng, tỷ lệ tử vong
 Giảm bớt số lần nhập viện, thời gian nằm viện và chi phí y tế.
 Giúp người bệnh lựa chọn môi trường.
 Sống chung với di chứng bệnh với chất lượng cuộc sống tốt.
 Hướng dẫn chi tiết và chu đáo những vấn đề trong đời sống hàng ngày,
bao gồm cả đời sống tinh thần [5].
- Biết cách phòng bệnh

 Thực hiện tiêm phòng
 Lựa chọn thực phẩm.
1.1.2.2. Vai trò người điều dưỡng trong chăm sóc người bệnh
Cách đây hợp 100 năm, Florence Nightingale đã đưa ra một định nghĩa về
ngành Điều dưỡng: “Điều dưỡng là một hành động thiết thực bảo về môi trường chung
quanh người bệnh để giúp cho người bệnh bình phục”. Florence Nightingale đã đề cao
vai trị của cơng tác điều dưỡng, người điều dưỡng khơng những được huấn luyện để
chăm sóc bệnh nhận ốm đau mà còn được huấn luyện như những người nội trợ [15].
Thập niên 60, Virginia Henderson là một trong những người điều dưỡng đầu
tiên nêu ra định nghĩa điều dưỡng: “Chức năng của điều dưỡng là giúp đỡ các cá thể,
đau ốm hoặc khỏe mạnh, giúp họ cải thiện chất lượng cuộc sống và bình phục nhanh
chóng. Người điều dưỡng cần thiết phải có sức khỏe, thơng minh, có kiến thức và có
phong thái làm việc càng nhanh càng tốt”. Henderson cho rằng, người điều dưỡng cần
phải chăm sóc người bệnh khơng kể họ ốm đau hay khỏe mạnh. Bà cịn đề cập đến
việc giáo dục và ủng hộ vai trò của người điều dưỡng [15].
Năm 1984, Hội điều dưỡng Canada (Canadian Nurses Association) đã nêu một
định nghĩa về ngành Điều dưỡng: “Điều dưỡng nghĩa là phải chăm sóc người bệnh phù
hợp với bệnh tật của họ bao gồm cả việc luyện tập về tinh thần, chức năng và phục vụ
người bệnh trực tiếp hoặc gián tiếp, giúp cho người bệnh cải thiện sức khỏe, ngăn chặn
ốm đau, hòa nhập vào cộng đồng và xã hội”.


10
Bước sang thế kỷ XXI, ngành Điều dưỡng được xem như là một nghệ thuật,
một môn khoa học. Điều dưỡng là một ngành, nghề chăm sóc người bệnh. [15].
Chăm sóc đóng một vai trị quan trọng trong q trình phục hồi sức khỏe cũng
như toàn bộ những vấn đề khác của người bệnh, chính vì vậy ngay từ những năm 1950
Virginia Henderson đã nêu: chăm sóc phải thỏa mãn các nhu cầu vật chất, tâm lý, văn
hóa-xã hội và tinh thần của người bệnh. Dựa trên cơ sở nền tảng này, năm 1988
Danielsson và công sự đã nhận định “Về mặt nào đó cơng tác chăm sóc trùng hợp với

cơng tác điều trị đồng thời bổ sung cho công tác điều trị nhằm tập trung giải quyết
những vấn đề thể chất, tâm lý, xã hội và văn hóa cho người bệnh” [15].
Từ những quan điểm trên cho thấy để công tác chăm sóc mang đúng nghĩa của
nó và đảm bảo được chất lượng chăm sóc người bệnh góp phần nâng cao chất lượng
điều trị, từ đó tạo dựng niềm tin với người bệnh, nâng cao uy tín của bệnh viện thì
cơng tác chăm sóc người bệnh phải được thực hiện theo phương châm chăm sóc tồn
diện như chỉ thị của Bộ Y tế nhằm đưa chất lượng công tác chăm sóc người bệnh ở
nước ta đi dần vào nề nếp và đảm bảo hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế
giới [15].
Virginia Hendersson đưa ra định nghĩa về chức năng chăm sóc như sau: “Chức
năng đặc trưng nhất của người điều dưỡng là giúp đỡ những cá nhân ốm yếu thực hiện
những hoạt động của cơ thể mà họ khơng tự mình thực hiện được để góp phần cho sự
bảo vệ hoặc phục hồi sức khỏe hoặc nếu chết thì cũng được chết thanh thản. Thực hiện
nhiệm vụ này bằng một cách nào đó nhằm giúp người bệnh lấy lại được sự độc lập của
cơ thể càng nhanh càng tốt. Khía cạnh cơng việc này, phần chức năng này là do người
điều dưỡng chủ đồng thực hiện và tự điều khiển-về lĩnh vực này người điều dưỡng là
bậc thầy” [15].
Để thực hiện đầy đủ vai trò và chức năng nghề nghiệp của mình, trong cơng
việc hàng người người điều dưỡng cần phải thực hiện các chức năng:
- Chức năng phụ thuộc: đây là chức năng mà người điều dưỡng phải thực hiện
những y lệnh của bác sỹ như tiêm thuốc, phát thuốc, thay băng, …
- Chức năng độc lập: đây là chức năng đặc trưng của người điều dưỡng. Với
chức năng này người điều dưỡng phải tự mình thăm khám, nhận định về người bệnh
để đưa ra những chẩn đoán điều dưỡng rồi lập kế hoạch chăm sóc, thực hiện kế hoạch


11
chăm sóc đã đề ra rồi tự đánh giá sự thực hiện kế hoạch để có kế hoạch chăm sóc bệnh
tiếp theo.
- Chức năng phối hợp: để hoàn thành được chức năng này, người điều dưỡng

cần phải có sự liên hệ chặt chẽ với các nhân viên y tế khác như bác sỹ, kỹ thuật viên y,
nhà dinh dưỡng học, nhà tâm lý học, nhân viên y tế quản lý người bệnh ở tuyến cơ sở
và cá nhân viên xã hội để thu thập thêm hoặc cung cấp những thông tin về người bệnh
hoặc yêu cầu sự giúp đỡ của những nhân viên đó để người bệnh được chăm sóc đầy đủ
và toàn diện hơn [15].
Đối với người bệnh, điều dưỡng phải đảm bảo những vai trò sau:
- Người chăm sóc: Đảm bảo những quy trình chăm sóc lâm sàng hoàn hảo.Mục
tiêu cơ bản của người điều dưỡng là thúc đẩy sự giao tiếp, hỗ trợ người bệnhbằng hành
động, bằng thái độ biểu thị sự quan tâm tới lợi ích của người bệnh. Mọimáy móc và kỹ
thuật hiện đại khơng thay thế được sự chăm sóc của người điềudưỡng vì các thiết bị
này sẽ không tác động được tới cảm xúc và điều chỉnh hànhđộng cho thích ứng với
những nhu cầu đa dạng của mỗi người bệnh.
- Người truyền đạt thông tin:Người điều dưỡng thông tin với đồng nghiệp và
các thành viên khác trong nhóm chăm sóc về kế hoạch và việc thực hiện kế hoạch
chăm sóc cho mỗi người bệnh. Mỗi khi thực hiện một sự can thiệp về chăm sóc, người
điều dưỡng ghi chép vào hồ sơ những nhận xét và những thủ thuật đã thực hiện cũng
như sự đáp ứng của người bệnh. Người điều dưỡng thường xuyên giao tiếp cả bằng lời
và bằng ngôn ngữ viết mỗi khi bàn giao ca, mỗi khi chuyển người bệnh tới một khoa
khác hoặc khi người bệnh ra viện hay chuyển tới một cơ sở y tế khác.
- Người tư vấn: Tư vấn là quá trình giúp đỡ người bệnh nhận biết và đương đầu
với những căng thẳng về tâm lý bệnh tật hoặc những vấn đề xã hội, có kiến thức nâng
cao sức khỏe. Người điều dưỡng tập trung khuyến khích người bệnh có ý thức tự kiểm
sốt. Tư vấn có thể thực hiện với một cá thể hoặc nhóm người và địi hỏi người điều
dưỡng phải có kỹ năng để phân tích tình hình, tổng hợp thơng tin, đánh giá quá trình
tiến triển của người bệnh sau khi đã được tư vấn. Người bệnh cần có thêm kiến thức để
tự theo dõi và chăm sóc nhằm rút ngắn ngày nằm viện.
- Người biện hộ cho người bệnh:Người biện hộ nghĩa là thúc đẩy những hành
động tốt đẹp nhất cho người bệnh, bảo đảm cho những nhu cầu của người bệnh được



12
đáp ứng. Ngồi ra, người điều dưỡng cịn có vai trị là người lãnh đạo, người quản lý,
người làm cơng tác nghiên cứu điều dưỡng và là những chuyên gia giỏi về chăm sóc
lâm sàng [1].
Tại các nước phát triển như Anh, Mỹ, Canada... cũng như các nước đang phát
triển như Thái Lan, Philippines, Malaysia... điều dưỡng viên đã được nâng cao vai trò
trong việc quản lý các cơ sở y tế ban đầu, bệnh viện, đội chăm sóc sức khỏe, tham gia
khám và điều trị – chăm sóc các bệnh cấp và mạn tính theo chuyên ngành của điều
dưỡng và có mặt trong hầu hết các lĩnh vực khác và là nghề đang được kính trọng hiện
nay [15].
Trước năm 1990, ở Việt Nam người điều dưỡng có tên gọi Y tá với chứcnăng
phụ thuộc và vai trò phụ giúp, thực hiện y lệnh của thầy thuốc là chính. Họđược đào
tạo ngắn hạn dưới một năm, làm theo phương pháp cầm tay chỉ việc. Hiệnnay, Việt
Nam đang thực hiện nâng cao chương trình đào tạo điều dưỡng với độingũ điều dưỡng
cao đẳng (3 năm), cử nhân điều dưỡng (4 năm) và thạc sĩ điềudưỡng (2 năm). Năm
2000, ngành Điều dưỡng Việt Nam đã hình thành được hệthống quản lý điều dưỡng ở
các cấp. Có 65% Sở Y tế các tỉnh đã bổ nhiệm điềudưỡng trưởng, 84,7% các bệnh viện
có Phịng điều dưỡng, công tác đào tạo điềudưỡng đã nâng lên ở trình độ cao đẳng và
đại học. Thực hành điều dưỡng đang cóchuyển biến thơng qua thực hiện chăm sóc
người bệnh tồn diện, vị trí xã hội củangười điều dưỡng đã được nhìn nhận [15].
Tuy nhiên, hiện tại ở nước ta, cứ 1 bác sĩ thì có 1,8 điều dưỡng, trong khi tỷ lệ tối
thiểu mà Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo là 1 bác sĩ/4 điều dưỡng. Tỷ lệ này ở Việt
Nam thấp nhất trong khu vực Đơng Nam Á. Thiếu người, trình độ chưa cao, áp lực
công việc lớn cũng là yếu tố làm ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc người bệnh
trong bệnh viện hiện nay [15]
Chăm sóc sức khỏe nhân dân là sứ mệnh cao cả của người làm công tác y tế,
bệnh viện là môi trường để nhân viên y tế thực hiện nhiệm vụ cao cả này. Điều dưỡng
là lực lượng nhân viên y tế đông nhất trong bệnh viện và cũng là những người thường
xuyên tiếp xúc với người bệnh. Bởi đơn giản, không chỉ là người thực hiện y lệnh của
bác sĩ, người điều dưỡng còn hàng ngày, hàng giờ tiếp xúc với người bệnh; là người

trực tiếp chăm sóc, điều trị, tư vấn sức khỏe cho người bệnh. Yêu cầu cần phải có của
người điều dưỡng khơng dừng lại ở trình độ chun mơn tốt mà quan trọng hơn là phải


13
có văn hóa ứng xử. Thái độ, cách ứng xử của người điều dưỡng là “liều thuốc tinh
thần” quan trọng với mỗi người bệnh… Người điều dưỡng có vai trị quan trọng và
ảnh hưởng lớn trong hệ thống chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng cho người bệnh
và trong việc nâng cao sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật cho người bệnh khi rời khỏi
bệnh viện. Như vậy, nâng cao chất lượng chăm sóc tồn diện cho người bệnh cũng
chính là nâng cao năng lực cho điều dưỡng. Điều dưỡng là lực lượng chính mang dịch
vụ chăm sóc sức khỏe tới cộng đồng. Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá dịch vụ chăm sóc
sức khỏe do người điều dưỡng, hộ sinh cung cấp là trụ cột của hệ thống y tế [1].
Để làm tốt công tác, người điều dưỡng cần có những kỹ năng: Có kiến thức
chun mơn tốt, cập nhật kiến thức mới; Kỹ năng giao tiếp tốt; Kỹ năng tư vấn – giáo
dục sức khỏe tốt; Có lịng nhiệt tình, đạo đức nghề nghiệp.
Nâng cao kỹ năng GDSK cho người điều dưỡng cũng chính là nâng cao chất
lượng nguồn lực điều dưỡng, hồn thiện cơng tác chăm sóc người bệnh tồn diện. Đây
cũng là một nhu cầu cấp thiết của ngành Y tế để đáp ứng được mục tiêu chiến lược
trong cơng tác chăm sóc sức khỏe cho người dân.
Với các ý nghĩa trên, GDSK giữ vai trị quan trọng và là một bộ phận hữu cơ,
khơng thể tách rời của hệ thống y tế, là một chức năng nghề nghiệp bắt buộc của điều
dưỡng, của mọi cán bộ y tế và của mọi cơ quan y tế từ trung ương đến cơ sở. Kỹ năng
GDSK cũng là một trong những tố chất cơ bản giúp người điều dưỡng thực thi chức
năng, nhiệm vụ của mình[1].
1.1.2.3. Tầm quan trọng của GDSK đối với người bệnh
- Là một bộ phận công tác y tế quan trọng nhằm làm thay đổi hành vi sức khỏe.
- Góp phần tạo ra, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho con người.
- Nếu giáo dục sức khỏe đạt kết quả tốt nó sẽ giúp làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, tỷ
lệ tàn phế và tỷ lệtử vong nhất là ở các nước đang phát triển.

- Tăng cường hiệu quả các dịch vụ Y tế.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Phương pháp tiến hành
 Đánh giá kiến thức bằng các bộ câu hỏi test
 Phỏng vấn trực tiếp Điều dưỡng về những thuận lợi, khó khăn và các đề xuất về
công tác GDSK.


14
 Quan sát trực tiếp về công tác GDSK của Điều dưỡng đối với NB.
 Thu tập thông tin Tư vấn – GDSK trong hồ sơ người bệnh
 Thu thập qua kênh thơng tin phiếu khảo sát hài lịng người bệnh theo mẫu của
Bộ Y tế.


15
Chương 2.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC SỨC KHỎE CỦA ĐIỀU DƯỠNG
2.1. Thực trạng công tác giáo dục sức khoẻ của điều dưỡng trong nước và thế giới
Thực tế cho thấy có rất ít nghiên cứu đánh giá trực tiếp và cụ thể về công tác
giáo dục sức khoẻ của điều dưỡng. Hoạt động này cơ bản chỉ dừng lại ở mức là một
phần của hoạt động kiểm tra công tác chăm sóc điều trị nói chung hoặc trong các đợt
kiểm tra đánh giá chung chất lượng bệnh viện.
Với sự nỗ lực tìm hiểu và tổng quan các tài liệu hiện có chúng tơi ghi nhận một
số thực trạng về công tác giáo dục sức khoẻ của điều dưỡng cho người bệnh dưới đây:
Năm 2005, trong một nghiên cứu mô tả cắt ngang của Bekele Chaka [16] ở 3
bệnh viện công gồm Tikur Anbessa, Saint Paul và Zewditu Memorial tại tỉnh Addis
Ababa, Ethiopianhằm đánh giá cơng tác chăm sóc của điều dưỡng thơng qua mức độ
hài lịng của 631 NB, kết quả cho thấy: Trong khi, tỷ lệ NB hài lịng với khả năng
chun mơn của người điều dưỡng đạt 70% thì tỷ lệ NB hài lịng với lượng thơng tin

nhận được từ điều dưỡngvề tình trạng bệnh tật, cách thức điều trị bệnh của họ chỉ đạt
40%.
Nghiên cứu của tác giả Bùi Thị Bích Ngà năm 2011 [13] về thực trạng cơng tác
chăm sóc của điều dưỡng thơng qua nhận xét của người bệnh điều trị nội trú tại Bệnh
viện Y học cổ truyền Trung ương cho thấy điều dưỡng viên làm tương đối tốt các chức
năng cơ bản như: hỗ trợ điều trị và phối hợp thực hiện y lệnh của bác sĩ đạt 84,2%;
theo dõi, đánh giá NB đạt 80,5%; tiếp đón NB đạt 78,9%; Tuy nhiên, công tác tư vấn,
GDSK cho NB chỉ đạt 49,6%.
Nghiên cứu của Dương Thị Bình Minh tiến hành tại một số khoa lâm sàng bệnh
viện Việt Xô năm 2012 nhằm mô tả thực trạng cơng tác chăm sóc điều dưỡng cho
thấy: về cơ bản ĐDV của bệnh viện đã hoàn thành tương đối tốt các nhiệm vụ với 4
trong 5 nhiệm vụ được đánh giá đều đạt trên 90% như: công tác tiếp đón NB đạt
95,8%, tiếp theo là hoạt động chăm sóc hỗ trợ về tâm lý, tinh thần; theo dõi đánh giá
NB lần lượt đạt 94,9% và 94,0%, và công tác phối hợp thực hiện y lệnh của bác sỹ đạt
90,3%. Tuy nhiên, kết quả thực hiện công tác tư vấn, hướng dẫn GDSK lại khá thấp
chỉ đạt 66,2%.


×