Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng trọng tài thương mại thực tiễn triển khai và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.19 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Phần I: Khái quát về trọng tài thương mại.........................................................................3
1.
2.
3.
4.
5.

Khái niệm về trọng tài thương mại..............................................................................3
Đặc điểm của trọng tài thương mại..............................................................................3
Một số ưu điểm và hạn chế của trọng tài thương mại..................................................4
Các hình thức tổ chức trọng tài....................................................................................4
Pháp luật trọng tài thương mại ở Việt Nam.................................................................6

Phần II: Thực tiễn triển khai và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật..............................9
1.
2.

Thực tiễn triển khai......................................................................................................9
Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trọng tài....................................................11

KẾT LUẬN

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1



Nền kinh tế Việt Nam sau đổi mới đã có những chuyển biến tích cực, trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế và hồ mình vào dịng chảy tồn cầu hoá, đặc biệt là trong bối cảnh
Hiệp định TTP sắp có hiệu lực, các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng, phức
tạp. Nhu cầu tất yếu đặt ra là cần phải giải quyết kịp thời các tranh chấp phát sinh.
Pháp luật Việt Nam quy định rất nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như thương lượng,
hịa giải, tịa án hay trọng tài. Trong đó thì trọng tài mang những ưu điểm vượt trội,
thường được các doanh nghiệp lựa chọn, đặc biệt là với các tranh chấp có yếu tố nước
ngồi. Tuy nhiên, thực tế triển khai cho thấy các doanh nghiệp vẫn chưa khai phá hết tiềm
năng của phương thức này. Pháp luật về trọng tài thương mại tại Việt Nam trong thời gian
qua đã không ngừng hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung để tạo hành lang pháp lý tốt nhất cho
việc giải quyết các tranh chấp bằng con đường trọng tài.
Từ thực tiễn trên, người viết chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng trọng tài
thương mại- Thực tiễn triển khai và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật” làm đề tài viết
báo cáo thu hoạch học phần 2 thực hành kỹ năng tư vấn và cung cấp dịch vụ pháp lý
khác.
2. Giới hạn phạm vi
Phạm vi nghiên cứu của bài viết chủ yếu tập trung vào các quy định của pháp luật hiện
hành về trọng tài thương mại và thực tiễn áp dụng. Cụ thể ở đây là Luật Trọng tài thương
mại 2010.
3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về trọng tài
thương mại tại Việt Nam.
- Phương pháp so sánh để đối chiếu, so sánh với hoạt động trọng tài của một số nước trên
thế giới.
- Phương pháp tổng hợp để tổng hợp các vấn đề đã được nghiên cứu nhằm đưa ra những
nhận định và kết luận.
- Phương pháp thống kê để thống kê các số liệu trong thực tiễn về hoạt động giải quyết
tranh chấp bằng phương pháp trọng tài làm cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, kết
luận và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trọng tài.

4. Kết cấu của bài thu hoạch
Phần I: Khái quát về trọng tài thương mại
Phần II: Thực tiễn triển khai và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật
I.

Khái quát về trọng tài thương mại
2


1. Khái niệm về trọng tài thương mại

Theo khoản 1 điều 3 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì “Trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định
của Luật này”
Như vậy ta có thể hiểu trọng tài thương mại là một phương pháp pháp lý để giải quyết
tranh chấp ngồi tịa án mà quyền lực của nó được tạo nên bởi chính các bên trong quan
hệ tranh chấp thương mại. Theo đó các bên thỏa thuận đưa tranh chấp của mình cho bên
thứ ba (trọng tài) giải quyết và chấp nhận sự ràng buộc pháp lý của phán quyết do bên thứ
ba đó đưa ra (phán quyết trọng tài).
2. Đặc điểm của trọng tài thương mại

Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại mang các đặc điểm sau:
Thứ nhất, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết một tranh chấp cụ thể nào đó khi các bên
tranh chấp tự nguyện thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết. Tuy nhiên khi giữa các
bên đã có một thỏa thuận trọng tài hợp pháp theo quy định của pháp luật áp dụng thì việc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trở thành một yêu cầu bắt buộc. Khi đó tịa án sẽ
được coi là khơng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó.
Thứ hai, trọng tài cũng là hình thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba
khách quan để giúp các bên giải quyết bất đồng. Tuy nhiên, khác với bên thứ ba làm
trung gian hòa giải – người khơng có quyền đưa ra quyết định giải quyết tranh chấp có

tính chất ràng buộc các bên, quyết định của trọng tài viên hoặc hội đồng trọng tài là
chung thực và có tính chất ràng buộc pháp lý đối với các bên tranh chấp tương tự như
một bản án của tòa án.
Thứ ba, trọng tài là một phương thức giải quyết tư (phi chính phủ) nên trọng tài khơng
mang trong mình quyền lực nhà nước như tịa án. Tuy nhiên, do phán quyết của trọng tài
là chung thẩm và ràng buộc các bên như một bản án của tòa án nên khác với phương thức
thương lượng hoặc hòa giải, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được điều chỉnh bởi các
quy định pháp luật cụ thể. Nhiều quốc gia ban hành những quy định pháp luật về tổ chức
và hoạt đọng của trọng tài. Ngoài ra Ủy ban Luật Thương mại quốc tế của Liên hiệp quốc
(UCITRAL) cũng ban hành Luật mẫu về trọng tài thương mại được rất nhiều quốc gia
trên thế giới dựa vào để ban hành để ban hành luật về trọng tài của quốc gia mình.
Thứ tư, so với tố tụng tòa án, tố tụng trọng tài linh hoạt, mềm dẻo hơn. Các bên tranh
chấp được quyền lựa chọn trọng tài viên, được quyền quyết định ngôn ngữ, địa điểm và
thời gian xét xử.

3


Thứ năm, trọng tài thường nhận được sự hỗ trợ của cơ quan có quyền lực nhà nước trong
q trình tố tụng như các hỗ trợ của Tòa án trong việc ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, hỗ trợ cho trọng tài viên đối với hình thức trọng tài vụ việc hay sự hỗ
trợ của cơ quan thi hành án đối với việc thi hành quyết định của trọng tài.
3. Một sô ưu điểm và hạn chế của trọng tài thương mại

3.1 Ưu điểm
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đảm bảo được bí mật kinh
doanh và uy tín nghề nghiệp của các bên tranh chấp. Theo Điều 4 Luật Trọng tài thương
mại 2010 thì giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại được tiến hành không công
khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Đây là một ưu thế so với ngun tắc xét
sử cơng khai của tịa án trong trường hợp giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thương mại

đầy nhạy cảm, đồng thời cũng là ưu điểm được các bên tranh chấp ưa chuộng nhất.
Thứ hai, phán quyết của trọng tài thương mại có tính chung thẩm, tính chung thẩm của
phán quyết trọng tài được thể hiện khi các bên đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài,
vụ việc đó sẽ được xét xử ở một cấp duy nhất, phán quyết của trọng tài đưa ra có hiệu lực
như bản bản án của tịa án và có giá trị ràng buộc với các bên tranh chấp. Khi phán quyết
đưa ra các bên không thể chống án hay kháng án, chỉ trừ trường hợp một bên trong tranh
chấp yêu cầu và có một trong các căn cứ quy định tại Khoản 2 điều 68 Luật trọng tài năm
2010 thì quyết định trọng tài bị hủy theo quyết định của tòa án.
Thứ ba, trọng tài thương mại mang tính linh hoạt, đảm bảo tốt hơn quyền tự định đoạt
của các bên. Nghĩa là các bên có quyền tự quyết định chọn hình thức tổ chức trọng tài
cũng như trọng tài viên mà mình ưa thích; có quyền lựa chọn ngôn ngữ sử dụng trong tố
tụng trọng tài (khoản 2 điều 10 Luật trọng tài thương mại 2010), địa điểm vụ tranh chấp
(khoản 1 điều 11 Luật Trọng tài thương mại 2010), đối với các tranh chấp có yếu tố nước
ngồi các bên có thể chọn luật áp dụng (khoản 2 điều 14 Luật Trọng tài thương mại
2010). Như vậy so với tịa án, các cơng việc đó do thẩm phán có thẩm quyền quyết định
và doanh nghiệp phải tuân theo thì hình thức trọng tài thương mại tạo cho các bên tranh
chấp có thể chủ động hơn.
Thứ tư, giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài có thế giúp các bên
tiết kiệm được thời gian so với phương thức thơng qua tịa án. Trung bình, một vụ việc do
trọng tài giải quyết mất khoảng 06 tháng, đối với những vụ không quá phức tạp thì thời
gian giải quyết có thể chỉ trong vài tuần.
Thứ năm, phán quyết trọng tài được sự công nhận quốc tế. Thông qua một loạt các công
ước quốc tế, đặc biệt là công ước New-york năm 1958 về thi hành và cơng nhận quyết
định trọng tài nước ngồi, các quyết định của trọng tài sẽ được công nhận và thi hành tai
các quốc gia, vùng lãnh thổ và thành viên của các nước. Việc công nhận và cho thi hành
4


phán quyết trọng tài tại nước ngoài là dễ hơn rất nhiều so với việc công nhận và cho thi
hành bản án tại nước ngoài.

3.2 Nhược điểm
Thứ nhất, trọng tại chỉ xét xử một lần chung thẩm tạo nên hiệu lực cho phán quyết trọng
tài, song đồng thời hạn chế cơ hội sửa chữa, khắc phục nếu có sai xót về nội dung hay
không đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho các bên tranh chấp.
Thứ hai, chi phí để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài khá cao, không phải chủ thể nào
cung đáp ứng được.
Thứ ba, trọng tài có tính chất phi chính phủ nên khi hiểu biết của một bộ phận dân trí về
trọng tài chưa cao thì sự tin tưởng về khả năng, hiệu quả công việc, giá trị pháp lí của
phán quyết trọng tài…cũng cịn hạn chế.
Tóm lại, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại tuy có một số hạn chế, nhưng
với những ưu điểm nổi trội như giải quyết đơn giản, nhanh chóng, linh hoạt,… của
phương thức này thì đây vẫn là sự lựa chọn phù hợp nhất với các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt trong thời gian tới khi mà hiệp định TTP có hiệu lực
tại Việt Nam.
4. Các hình thức tổ chức trọng tài

Trọng tài thưng mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc (trọng tài ad hoc) và trọng tài thường trực:
4.1 Trọng tài vụ việc
Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để
giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết
xong vụ tranh chấp.
Bản chất của trọng tài vụ việc thể hiện qua các đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt
hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp.
Thứ hai, trọng tài vụ việc khơng có cơ sở thường trực, khơng có bộ máy điều hành,
khơng có danh sách trọng tài viên.
Thứ ba, trọng tài vụ việc khơng có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.

5



Ưu thế của trọng tài vụ việc là có thể giải quyết nhanh chóng và ít tốn kém vì nó vẫn chủ
yếu phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp; quyền lựa chọn trọng tài viên của các
bên không bị giới hạn bởi danh sách trọng tài viên như trọng tài quy chế; các bên tranh
chấp có quyền rộng rãi trong việc xác định quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp giữa
các bên, khi nếu lựa chọn hình thức trọng tài quy chế, các bên sẽ bị ràng buộc bởi quy tắc
tố tụng của trung tâm trọng tài.
4.2 Trọng tài thường trực
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các trung tâm
trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu
và có tài khoản riêng, trụ sở giao dịch ổn định.
Các trung tâm trọng tài có các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, khơng nằm trong hệ thống các
cơ quan nhà nước.
Thứ hai, các trung tâm trọng tài là tổ chức thỏa mãn các điều kiện về pháp nhân, bao gồm
được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ
chức và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh chính mình tham gia các quan hệ
pháp luật một cách độc lập.
Thứ ba, tổ chức và quản lý ở trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ;
Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài đều tự quyết định về lĩnh vực và có quy tắc tố tụng riêng;
Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài riêng
của trung tâm.
5. Pháp luật Trọng tài thương mại ở Việt Nam

Ta có thể thấy sau nhiều năm thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 đã có những
hạn chế nhất định. Để khắc phục những hạn chế đó thì Luật TTTM 2010 đã ra đời và có
hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2011. Đi kèm với Luật là Nghị định 63/2011/NĐ-CP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương mại .
5.1 Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định các nguyên tắc giải quyết tranh chấp

bằng trọng tài như sau:
Thứ nhất, trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó khơng vi
phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
6


Thứ hai, trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp
luật.
Thứ ba, các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có
trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Thứ tư, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác.
Thứ năm, phán quyết trọng tài là chung thẩm.
Tất cả những nguyên tắc giải quyết tranh chấp mà Luật Trọng tài thương mại 2010 đặt ra
đều nhằm mục đích giúp các bên tranh chấp có thể giải quyết tranh chấp một cách nhanh
chóng, chính xác, hiệu quả.
5.2 Thẩm quyền của trọng tài thương mại
Về nguyên tắc, tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu trước hoặc sau khi xảy ra
tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài trừ các trường hợp thuộc thẩm quyền bắt buộc
của tòa án. Các tranh chấp này là tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại, tranh
chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại hoặc
tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài.
Về thỏa thuận trọng tài, kế thừa các quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003,
Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định thỏa thuận trọng tài phải được xác lập bằng văn
bản và cụ thể hóa những tình huống ý chí thỏa thuận của các bên được xem là đã được
ghi nhận bằng văn bản. Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại 2010 giải thích rõ ý
chí trung thực của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài. Đồng thời Luật cũng quy định
giới hạn các trường hợp cụ thể mà thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại Điều 18 Luật Trọng tài
thương mại 2010.
5.3 Trình tự giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

5.3.1 Nộp đơn và thụ lý
Khoản 1 Điều 30 Luật Trọng tài thương mại 2010 có quy định: “trường hợp giải quyết
tranh chấp tại Trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện gửi đến Trung tâm
trọng tài. Trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, nguyên đơn
phải làm đơn khởi kiện và gửi cho bị đơn.
Đơn kiện phải chứa đựng các nội dung chủ yếu theo quy định tại khoản 2 Điều 30 của
Luật này.

7


Nguyên đơn có thể sửa đổi, bổ sung, rút đơn kiện trước khi Hội đồng xét xử ra quyết định
trọng tài. “Nếu các bên khơng có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm
trọng tài khơng có quy định khác, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi
kiện, các tài liệu kèm theo và chứng từ nộp tạm ứng phí trọng tài, Trung tâm trọng tài
phải gửi cho bị đơn bản sao đơn khởi kiện của nguyên đơn và những tài liệu theo quy
định tại khoản 3 Điều 30 của Luật này.” (Điều 32 Luật Trọng tài thương mại 2010).
Về nguyên tắc, tố tụng trọng tài chỉ bắt đầu khi có đơn khởi kiện của nguyên đơn và đơn
phải được gửi khi vụ tranh chấp còn khởi kiện. Điều 31 Luật Trọng tài thương mại 2010
quy định: “Trường hợp tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài, nếu các bên
khơng có thỏa thuận khác, thì thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ khi Trung
tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn.” và “Trường hợp tranh chấp
được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, nếu các bên khơng có thoả thuận khác, thì thời
điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ khi bị đơn nhận được đơn khởi kiện của
nguyên đơn.”.
5.3.2 Thành lập Hội đồng trọng tài
Việc thành lập Hội đồng trọng tài dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thỏa thuận
của các bên tham gia trọng tài. Về cách thức thành lập Hội đồng trọng tài được quy định
khá cụ thể tại Điều 39 Luật Trọng tài thương mại 2010. Theo đó, “Thành phần Hội đồng
trọng tài có thể bao gồm một hoặc nhiều Trọng tài viên theo sự thỏa thuận của các

bên.Trường hợp các bên khơng có thoả thuận về số lượng Trọng tài viên thì Hội đồng
trọng tài bao gồm ba Trọng tài viên.” Điều 40, Điều 41 quy định khá cụ thể về cách thức
thành lập Hội đồng trọng tài tại trung tâm và Hội đồng trọng tài vụ việc.
Các bên được tự do lựa chọn trọng tài viên và có quyền yêu cầu thay đổi trọng tài viên
nếu phát hiện trọng tài viên đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1
Điều 42.
Trong q trình tố tụng trọng tài, các bên có khiếu nại xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài. (Điều 43 Luật trọng tài thương mại). Các bên có thể hịa
giải hoặc u cầu Hội đồng trọng tài hịa giải, có quyền u cầu áp dụng một số biện
pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 48, 49, 50, 51, 52, 53 Luật Trọng tài
thương mại 2010.
Bị đơn có quyền kiện lại bị đơn về những vấn đề có liên quan đén vụ tranh chấp. (Điều
36 Luật Trọng tài thương mại 2010)
5.3.3 Phiên họp giải quyết tranh chấp
Điều 55 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định: “Phiên họp giải quyết tranh chấp được
tiến hành khơng cơng khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Các bên có thể
trực tiếp hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp; có
8


quyền mời người làm chứng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong
trường hợp có sự đồng ý của các bên, Hội đồng trọng tài có thể cho phép những người
khác tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp. Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp giải
quyết tranh chấp do quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài quy định; đối với
Trọng tài vụ việc do các bên thỏa thuận.”
Kết thúc quá trình giải quyết tranh chấp , Hội đồng trọng tài phải đưa ra được phán quyết
trọng tài.
5.3.4 Thi hành phán quyết trọng tài
Phán quyết trọng tài được thi hành theo quy định pháp luật về thi hành án dân sự
Tóm lại, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài khá đơn giản, theo một trình tự, quy

định cụ thể, rõ ràng. Tuy có nhiều bất cập cần sửa đổi nhưng đây vẫn là thủ tục đơn giản
thuận tiện hơn tòa án rất nhiều.
II.

Thực tiễn triển khai và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật

1. Thực tiễn triển khai

Trong những năm gần đây việc sử dụng trọng tài để giải quyết các tranh chấp thương mại
ngày càng phổ biến tại Việt Nam, thể hiện không chỉ qua số lượng các vụ tranh chấp
được giải quyết mà còn qua sự đa dạng của các lĩnh vực tranh chấp. Thật vậy, tính từ sau
khi Luật trọng tài thương mại năm 2010 có hiệu lực đến năm 2014 tổng số vụ tranh chấp
được giải quyết tại các trung tâm trọng tài tại Việt Nam là 879 vụ. Riêng với trung tâm
trọng tài quốc tế Việt Nam là 370 vụ, gần bằng tổng số vụ kiện được giải quyết tại trung
tâm 10 năm trước đó. Đặc biệt, trong năm 2014, số lượng vụ việc được giải quyết bằng
trọng tài đã đạt đến con số kỷ lục là 124 vụ và không chỉ dừng lại ở những tranh chấp từ
hợp đồng mua bán hàng hóa, doanh nghiệp còn tin tưởng giải quyết tranh chấp trên nhiều
lĩnh vực khác như bảo hiểm, công nghệ thông tin, xây dựng, phân phối, đại lý, năng
lượng …Đồng thời với chính sách khuyến khích phát triển hoạt động trọng tài, hiện nay
Việt Nam có 14 trung tâm trọng tài với hơn 300 trọng tài viên , trong đó, nhiều người là
trọng tài viên nước ngoài. Tuy nhiên, nếu so sánh với hiệu quả hoạt động của các trung
tâm trọng tài vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu giải quyết tranh chấp thương mại
hiện nay của các doanh nghiệp. Có thể dễ dàng nhận thấy, phần lớn các vụ tranh chấp chỉ
được giải quyết tại VIAC. Các trung tâm trọng tài khác tiếp nhận rất ít vụ việc. Hơn thế,
theo một số liệu của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) thì trọng tài chỉ giải
quyết được 11% số lượng các tranh chấp thương mại. Số vụ tranh chấp mà VIAC thụ lý
trong năm 2011 là 83 là rất khiêm tốn nếu so với 188 vụ mà Trung tâm trọng tài quốc tế
Singapore (SIAC) giải quyết hay như Ủy ban trọng tài Bắc Kinh là 1.500 vụ. Qua những
thống kê đa chiều nêu trên, có thể thấy thực trạng sử dụng trọng tài tại Việt Nam hiện nay
do đó vừa cho thấy những tín hiệu phát triển hết sức khả quan, nhưng đồng thời cũng còn

nhiều thách thức không nhỏ trong việc cải thiện niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp.
9


1.1 Vai trò hỗ trợ và giám sát của Tòa án đối với trọng tài
Một trong những nội dung cơ bản của Luật trọng tài thương mại so với pháp lệnh trọng
tài năm 2003 là ngoài việc trao cho Hội đồng trọng tài quyền thu thập chứng cứ, triệu tập
người làm chứng, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Luật trọng tài và sau đó là Nghị
quyết 01/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao còn phân định rõ vai trò
hỗ trợ và giám sát của Tòa án Việt Nam đối với hoạt động trọng tài. Tuy nhiên, trên thực
tế, do một số thẩm phán còn thiếu kinh nghiệm trong việc giải quyết các vụ việc trọng tài
này mà cịn khơng ít bất cập đã xảy ra như áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái với
thỏa thuận của các bên trong hợp đồng, áp dụng biện pháp khẩn cấp đối với bên thứ ba
không bị ràng buộc bởi thỏa thuận trọng tài, hay thụ lý giải quyết vụ tranh chấp kể cả khi
đã có thỏa thuận trọng tài giữa các bên. Điều này đã gây ra nhiều lo ngại đối với các bên
tranh chấp, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia tố tụng trọng tài tại Việt
Nam.
1.2 Hủy phán quyết trọng tài
Một trong những ưu điểm của giải quyết tranh chấp của trọng tài là khả năng thi hành của
phán quyết trọng tài bởi phán quyết của trọng tài Việt Nam sẽ được thi hành tương tự như
bản án của tịa án tại Việt Nam và hơn thế, có khả năng thi hành tại 155 quốc gia thành
viên khác của Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết
trọng tài nước ngoài. Do đó, việc đảm bảo khả năng thi hành của phán quyết trọng tài là
một điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp cân nhắc khi chọn sử dụng trọng tài để giải
quyết tranh chấp. Tuy nhiên thực trạng hiện nay về tỷ lệ thi hành phán quyết trọng tài tại
Việt Nam là rất đáng lo ngại: sau khi LTTTTM được ban hành tỷ lệ phán quyết trọng tài
bị hủy khi có đơn lên đến 22%. Bên cạnh vấn đề tỷ lệ thi hành, còn nhiều ý kiến cho rằng
phán quyết trọng tài bị hủy hay từ chối công nhận một cách khơng thuyết phục khi Tịa
án xem xét lại nội dung vụ tranh chấp, giải thích quá rộng các căn cứ để hủy/từ chối công
nhận phán quyết trọng tài đặc biệt là căn cứ “những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt

Nam”. Mặc dù, điều 14.2(đ) của Nghị quyết 01/2014 đã làm rõ hơn cách hiểu thế nào là
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam và nhờ vậy, tránh được cách hiểu sai lầm
trước đây là mọi quy định của pháp luật Việt Nam đều có thể được coi là các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật. Tuy nhiên, hướng dẫn này của Nghị quyết cần phải cụ thể hơn nữa
vì có rất nhiều “các ngun tắc cơ bản” được quy định trong mỗi bộ luật và còn nhiều
tranh cãi đối với quy định về mối quan hệ giữa quyền và lợi ích của bên thứ ba với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật.
1.3 Đội ngũ Trọng tài viên, luật sư, học giả chuyên về trọng tài
Có một nhận định được các học giả uy tín thế giới ủng hộ đó là “chất lượng của trọng tài
viên tương đương với chất lượng của tố tụng trọng tài”, và về điểm này, các Trọng tài
viên hiện nay tại Việt Nam đa phần đều là những tên tuổi có uy tín, là những chun gia
đầu ngành trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, để có một quá trình tố tụng trọng
10


tài thật sự hiệu quả, nhanh chóng, các trọng tài viên cịn cần kinh nghiệm điều hành q
trình tố tụng cũng như nắm vững trình tự tố tụng trọng tài. Việc tố tụng trọng tài phải tuân
thủ tuyệt đối nguyên tắc bảo mật khiến cho các trọng tài viên không thể tìm hiểu kinh
nghiệm qua các vụ kiện trọng tài khác mà mình khơng được tham gia, trong khi hiện nay
khơng có nhiều những diễn đàn trong nước cũng như quốc tế để các Trọng tài viên trao
đổi những đúc kết thực tiễn của mình với nhau và tìm tịi thêm về cách xử lý của trọng tài
viên, chuyên gia quốc tế. Đội ngũ luật sư chuyên về trọng tài cũng ngày càng được cải
thiện cả về lượng và chất. Mặc dù vậy so với nhu cầu ngày một cao của doanh nghiệp và
tính đến sự phát triển trong tương lai của hoạt động trọng tài, Việt Nam cần nhiều hơn
nữa những luật sư có thể đại diện cho doanh nghiệp trong nước tham gia tranh tụng tại
các trung tâm trọng tài quốc tế. Chưa nhắc tới rào cản ngôn ngữ, tác giả nhận thấy hiện
nay đội ngũ luật sư về trọng tài đôi khi vẫn bị ảnh hưởng bởi thói quen khi tham gia tố
tụng dân sự tại Tịa án, từ đó khơng khai thác hết những ưu điểm vốn có của tố tụng trọng
tài.
2. Những kiến nghị hồn thiện pháp luật về trọng tài


Trọng tài thương mại quốc tế được các chuyên gia kinh tế đánh giá là phương thức giải
quyết tranh chấp trong tương lai với nhiều ưu điểm nổi trội. Do vậy, Việt Nam muốn hội
nhập vào nền kinh tế thế giới một cách nhanh chóng và bền vững thì phải khơng ngừng
hồn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về trọng tài nói riêng cho phù hợp
với xu thế phát triển chung.
2.1 Hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của Trọng tài thương mại
Các văn bản pháp luật hướng dẫn Luật Trọng tài thương mại 2010 nên giải thích theo
hướng mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài, tơn trọng ý chí tự do thỏa thuận của
các bên tranh chấp. Cụ thể, nên quy định thẩm quyền của trọng tài theo phương pháp loại
trừ, mở rộng thẩm quyền của trọng tài ra cả những tranh chấp dân sự, trừ một số tranh
chấp liên quan đến quyền nhân thân, quan hệ hơn nhân, gia đình và thừa kế theo quy định
của Luật dân sự theo quy định tại dự thảo lần 1 của Luật này. Quy định như vậy sẽ phù
hợp với pháp luật chung của thế giới. Ví dụ, theo Luật Trọng tài Singapore thì trọng tài
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự, trừ tranh chấp về hình sự và tranh chấp
HNGĐ.
2.2 Hồn thiện quy định của pháp luật về vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài
vô hiệu.
Pháp luật Trọng tài thương mại nên bổ sung quy định về thủ tục yêu cầu Tòa ám xem xét
quyết định của Hội đồng trọng tài về vấn đề vô hiệu của thỏa thuận trọng tài. Cụ thể trong
thời gian Tòa án xem xét để ra quyết định thỏa thuận trọng tài có vơ hiệu hay không, Hội
đồng trọng tài nên tạm dừng tố tụng. Bản thân trong thời gian này, dù có tiến hành tố
11


tụng, các bên cũng khó đạt được một kết quả như mong đợi khi một bên đã không thiết
tha với việc giải quyết tranh chấp tại Trọng tài và yêu cầu Tịa án xem xét tun thỏa
thuận trọng tài vơ hiệu. Hơn nữa, dù có đạt được kết quả giải quyết tranh chấp trong thời
gian này, mà sau đó, Tịa án tuyên thỏa thuận trọng tài vô hiệu, đương nhiên dẫn đến việc

phán quyết của Trọng tài khơng có giá trị. Sau khi Tịa án có quyết định cụ thể, phụ thuộc
vào quyết định của Tòa án mà tố tụng trọng tài tiếp tục nếu Tòa án xác định thỏa thuận
trọng tài là khơng vơ hiệu; trường hợp tịa án tun thỏa thuận vơ hiệu thì khi đó từ việc
tạm dừng tố tụng, Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp. Khi
đó, các bên chuẩn bị tâm thế cho việc vụ tranh chấp có thể được đưa ra tịa án để giải
quyết.
2.3 Hồn thiện một số quy định về trọng tài viên
Thứ nhất, để đảm bảo nâng cao số lượng song hành với việc nâng cao chất lượng Trọng
tài viên theo hướng giỏi về trình độ chun mơn,có đạo đức nghề nghiệp, giàu kinh
nghiệm thực tiễn, các thương nhân có thời gian dài hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại muốn trở thành Trọng tài viên nên buộc tham gia một khóa học Trọng tài.
Thứ hai, các tiêu chuẩn về chuyên môn của Trọng tài viên nên được xóa bỏ trong Luật
Trọng tài thương mại 2010. Thay vào đó, để nâng cao chất lượng đội ngũ Trọng tài viên,
Nhà nước có thể thực hiện các biện pháp khác.
2.4 Hoàn thiện quy định của pháp luật về trọng tài vụ việc:
Thứ nhất, Luật Trọng tài thương mại cần quy định về thời gian thành lập Hội đồng Trọng
tài vụ việc trong trường hợp có khiếu nại quyết định chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn.
Việc quy định thời hạn bao lâu hai Trọng tài viên phải bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài
sau khi có quyết định giải quyết khiếu nại của Tịa án có ý nghĩa hết sức quan trọng về
tính hợp pháp liên tục của tố tụng Trọng tài, bởi lẽ, nếu hai Trọng tài viên khơng thể tự
mình bầu được Chủ tịch Hội đồng Trọng tài thì các bên phải đề nghị TAND có thẩm
quyền chỉ định Chủ tịch Hội đồng Trọng tài cho mình theo quy định tại khoản 3 Điều 41
Luật TTTM chứ không thể kéo dài tố tụng. Cụ thể nên quy định bổ sung: “Trường hợp có
khiếu nại quyết định chỉ định Trọng tài viên cho các bên, thì trong vịng 15 ngày kể từ
ngày Tịa án có thẩm quyền có văn bản giải quyết khiếu nại, hai Trọng tài viên phải bầu
Chủ tịch Hội đồng Trọng tài để giải quyết vụ kiện.”
Thứ hai, Luật Trọng tài thương mại cần quy định bổ sung trao cho Hội đồng Trọng tài vụ
việc các thẩm quyền quyết định liên quan đến trình tự, thủ tục tố tụng Trọng tài. Cụ thể là
bổ sung: “Hội đồng Trọng tài vụ việc được quyền quyết định các trình tự, thủ tục giải
quyết vụ tranh chấp nếu các bên tranh chấp không tự thỏa thuận được”. Còn nếu sự thay

đổi thủ tục tố tụng của các bên về địa điểm và ngôn ngữ giải quyết tranh chấp đều hợp
pháp thì nên bổ sung trong Luật Trọng tài thương mại như sau: “Mọi sự thay đổi về trình

12


tự, thủ tục tố tụng Trọng tài trước và sau khi xảy ra tranh chấp đều phải được lập thành
văn bản và do Hội đồng Trọng tài quyết định sự thay đổi”.
Thứ ba, cần có văn bản hướng dẫn áp dụng quy định: “Chủ tịch Hội đồng Trọng tài vụ
việc phải thực hiện việc đóng gói và lưu trữ hồ sơ vụ kiện trong thời gian 05 năm và có
trách nhiệm cung cấp cho cơ quan tịa án có thẩm quyền khi có u cầu”.
2.5 Hồn thiện những quy định khác của luật để phù hợp với thực tế.
Về khoản 8 Điều 71 Luật TTTM 2010 nên có hướng dẫn về tiền tài chính cần cung cấp
phải tương đương với giá trị thiệt hại xảy ra mà nên có những biện pháp đánh giá đúng
tình hình thực tế vụ việc cũng như tài chính của doanh nghiệp để đưa ra những con số
hợp lý. Quy định này trên thực tế sẽ đảm bảo quyền lợi người bị xâm phạm, ngăn chặng
bên vi phạm tẩu tán và thay đổi hiện trạng tài sản.
Ngoài ra, cần đưa ra chế tài đối với các cá nhân, tổ chức không thực hiện yêu cầu của Toà
án liên quan đến hoạt động Trọng tài. Đồng thời, cũng phải có chế tài đối với cá nhân, tổ
chức lưu giữ chứng cứ trong thời gian chờ đợi để giao chứng cứ cho Hội đồng trọng tài.
KẾT LUẬN
Pháp luật về trọng tài được hình thành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Tùy vào trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau mà pháp luật về trọng tài có những quy định khác nhau. Luật Trọng tài
thương mại 2010 ra đời đã tạo ra một hành lang pháp lý hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận
lợi để phát triển hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở nước ta. Việc hoàn thiện
pháp luật về trọng tài là việc rất cần thiết trong bối cảnh mà Hiệ định TTP sắp có hiệu
lực. Hy vọng rằng trong tương lai không xa, trọng tài thương mại sẽ được sử dụng phổ
biến hơn.

13



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kỹ năng tư vấn pháp luật – Nhà xuất bản Công An nhân dân
2. Dự thảo tham luận tổng kết thi hành Luật Trọng tài thương mại -

/>3. Sơ kết 04 năm thi hành luật trọng tài thương mại -

/>4. Những hạn chế của pháp luật trọng tài - />
han-che-cua-phap-luat-trong-tai.html
5. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài: Thực tiễn tại Việt Nam -

/>6. Trọng tài thương mại, một phương thức giải quyết tranh chấp – Trần Thị Tú Anh –

QT33D401.

14



×