Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Cơ sở lý luận và thực tiễn về khu kinh tế cửa khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.59 KB, 19 trang )

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
KHU KINH TẾ CỬA KHẨU
1.1. Khu kinh tế cửa khẩu và đặc điểm của khu kinh tế cửa khẩu
1.1.1. Khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu
Thuật ngữ Khu KTCK mới xuất hiện ở Việt Nam trong vài năm gần đây. Quan hệ
kinh tế, thương mại giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc ngày càng được mở rộng, đạt
đến bước phát triển mới, do đó địi hỏi cần phải có một hình thức tổ chức kinh tế phù hợp
nhằm phát huy tối đa các tiềm năng, thế mạnh của hai bên thông qua cửa khẩu vùng biên.
Hơn nữa, Việt Nam cịn có đường biên giới với Campuchia và Lào. Tuy là các quốc gia
nhỏ, kinh tế cịn nhiều khó khăn, nhưng lại có vị trí hết sức quan trọng là nằm trong tiểu
vùng sông Mêkông. Các quốc gia thuộc tiểu vùng sơng Mêkơng hiện đang có nhiều dự án
xây dựng cầu, đường nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trên tuyến hành lang Đơng – Tây.
Mơ hình Khu KTCK là mơ hình phù hợp nhất để phát huy tốt nhất tấc cả các điều kiện
thuận lợi trên.
Khái niệm Khu KTCK ra đời dựa trên cơ sở nhiều khái niệm có liên quan. Trước
hết là khái niệm: "Giao lưu kinh tế qua biên giới". Theo nghĩa hẹp, “giao lưu kinh tế qua
biên giới” được hiểu là các hoạt động trao đổi hàng hoá, trao đổi thương mại giữa dân cư
sinh sống trong khu vực vùng biên, hoặc giữa các doanh nghiệp nhỏ đóng tại địa bàn
vùng biên xác định, thuộc tỉnh có cửa khẩu. Hoạt động thương mại qua các cửa khẩu có
thể được thực hiện dưới hình thức trao đổi hàng hoá qua các cặp chợ biên giới, nơi cư
dân hai bên biên giới thực hiện các hoạt động mua/bán hàng hoá trên cơ sở tuân thủ các
quy định của Nhà nước về tổng khối lượng hoặc tổng giá trị trao đổi. Chính quyền của
hai bên sẽ thỏa thuận địa điểm của các cặp chợ này. Ngoài ra các hoạt động thương mại
qua các cửa khẩu còn được thực hiện dưới dạng trao đổi hàng hố giữa hai xí nghiệp nhỏ
tại địa phương với các đối tác của mình ở nước bạn. Thơng thường, các hoạt động trao
đổi hàng hố này có giá trị khơng lớn lắm. Trong khi đó, hiểu theo nghĩa rộng, giao lưu
kinh tế qua biên giới bao gồm các dạng hoạt động trao đổi kinh tế, kĩ thuật qua các cửa
khẩu vùng biên, một trong những yếu tố cấu thành là các hoạt động trao đổi thương mại.
Trong hơn mười năm qua , nội dung của giao lưu kinh tế đã có những thay đổi lớn và trở
thành các hoạt động hợp tác kinh tế, kĩ thuật ngày càng đầy đủ và toàn diện hơn. Các hoạt
động giao lưu kinh tế không chỉ đơn thuần là việc bn bán, trao đổi hàng hố thơng


thường mà cịn bao gồm cả các hoạt động hợp tác kỹ thuật, hoạt động xuất nhập khẩu,
dịch vụ, thực hiện các liên doanh xuyên biên giới, các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của


phía bên kia biên giới, bn bán các trang thiết bị kỹ thuật, liên doanh phát triển cơ sở hạ
tầng, du lịch qua biên giới, v..v…
Các lý thuyết kinh tế học phát triển đã chỉ rõ rằng giao lưu kinh tế qua biên giới là
một hình thức mở cửa kinh tế giữa các nước láng giềng, có thể mang lại nhiều cơ hội phát
triển cho các nước này.
Thứ nhất, các nước láng giềng có ưu thế về vị trí địa lý, khoảng cách nối liền qua
biên giới sẽ làm giảm nhiều chi phí giao thơng vận tải và liên lạc; các vùng biên giới lại
thường là các vùng có nguồn tài nguyên dồi dào, sản vật quý đa dạng, là những tiền đề tốt
để phát triển thương mại và du lịch.
Thứ hai, khu vực các cửa khẩu biên giới trên bộ hiện còn chưa phải đối mặt với
cạnh tranh thương trường ở mức gay gắt như các vùng cửa khẩu hàng không hàng hải,
mà chỉ là một thị trường mới mở, mang tính chất bổ sung cho các nhu cầu của nhau.
Thứ ba, các nước láng giềng có trình độ phát triển không quá chênh lệch về cơ cấu
ngành nghề, sản phẩm, nguyên liệu, nhu cầu thị trường.
Thứ tư, buôn bán biên giới trên bộ có thể có những hình thức đa dạng hơn so với
buôn bán qua các cửa khẩu hàng không, hàng hải. Nhân dân vùng biên giới hai nước qua
lại buôn bán, giao lưu, làm thúc đẩy nhu cầu quan hệ, trao đổi chính thức ở cấp Nhà
nước. Giao lưu kinh tế tại khu vực các cửa khẩu biên giới là hình thức tiếp cận mới để
thực hiện mục tiêu mở rộng hợp tác kinh tế giữa các nước láng giềng. Cho đến nay, lịch
sử hợp tác kinh tế đã biết đến nhiều hình thức liên kết kinh tế thơng thường. Trong đó, ở
trình độ cao, phải kể đến các hình thức như: Khu vực thương mại tự do; Liên minh thuế
quan; Thị trường chung; Liên minh kinh tế.
Trong khi đó, tại các vùng, các địa phương có trình độ phát triển kinh tế cịn thấp,
các hoạt động hợp tác kinh tế còn được thực hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau. Trong
đó phải kể đến là:
- Các vùng tăng trưởng: là hình thức hợp tác kinh tế mới giữa các vùng nằm kề

nhau về mặt địa lý của các nước làng giềng, cho phép đạt được mục tiêu tăng trưởng
nhanh hơn về thời gian, thấp hơn về chi phí. Đồng thời, chúng cịn cho phép khai thác các
thế mạnh bổ sung của mỗi nước thành viên, tận dụng hiệu quả kinh tế qui mô lớn.
- Các thỏa thuận về thương mại miễn thuế thực hiện các quy định miễn trừ thuế
quan cho một số loại hàng hóa được trao đổi giữa các nước thành viên, là cơ sở để phát
triển tới hình thức liên kết kinh tế cao hơn, đó là liên minh thuế quan.
- Các đặc khu kinh tế như khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung được áp dụng
tại Trung Quốc, các nước ASEAN trong vài thập kỷ gần đây.


Tính đa dạng trong các loại hình và yếu tố quyết định cho sự lựa chọn một mơ
hình cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, những điều kiện cần và đủ để quyết
định những loại hình phù hợp, có hiệu quả. Thơng qua các hình thức, các cấp độ phát
triển khác nhau của liên kết kinh tế, căn cứ theo đặc điểm của một loại hình Khu KTCK
cho phép áp dụng những chính sách riêng trong một phạm vi không gian, thời gian xác
định mà ở đó đã có giao lưu kinh tế biên giới phát triển sẽ hình thành Khu KTCK.
Qua những phân tích trên, ta có khái niệm: Khu kinh tế cửa khẩu là một không
gian kinh tế xác định, gắn với cửa khẩu, có dân cư hoặc khơng có dân cư sinh sống và
được thực hiện những cơ chế chinh sách phát triển riêng, phù hợp với đặc điểm ở đó
nhằm đưa lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao hơn do Chinh phủ hoặc Thủ tướng Chinh phủ
quyết định thành lập.
Hay Khu kinh tế cửa khẩu có thể được hiểu là một vùng lãnh thổ bao gồm một
hoặc một số cửa khẩu biên giới được Chính phủ cho áp dụng một số chinh sách ưu đãi,
khuyến khích phát triển kinh tế-xã hội nhằm tăng cường giao lưu kinh tế với các nước,
tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước va đầu tư chuyển đổi cơ cấu kinh tế các địa
phương có cửa khẩu.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của khu kinh tế cửa khẩu
- Các khu kinh tế cửa khẩu thường cách xa trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa
của nước mình.
- Dân cư tại các khu kinh tế cửa khẩu với dân cư địa phương lân cận của các

nước láng giềng có sự tương đồng nhau về văn hóa, truyền thống, tín ngưỡng tơn giáo...
- Có sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội – môi trường và chất
lượng cuộc sống.
- Hợp tác và cạnh tranh là đặc trưng chủ yếu.
1.1.3. So sánh mô hình khu kinh tế cửa khẩu với các mơ hình kinh tế khác
Từ khái niệm và đặc trưng về Khu KTCK nêu trên ta thấy, Khu KTCK có một số
điểm giống nhau và khác nhau so với một số mô hình kinh tế khác như mơ hình khu cơng
nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế ven biển...
Tồn tại nhiều cách hiểu và cách tiếp cận khác nhau về khu kinh tế, khu chế xuất,
khu công nghiệp, khu công nghệ cao. Ở Việt Nam các khái niệm trên được hiểu thống
nhất theo cơ chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu cơng nghệ cao ban hành kèm theo
NĐ số 36/Chính phủ ngày 24/4/1997. Theo đó, các khái niệm được hiểu như sau:
- Khu kinh tế là khu vực có khơng gian kinh tế riêng biệt, với môi trường đầu tư
và kinh doanh thuận lợi và bình đẳng bao gồm: các khu chức năng, các cơng trình hạ tầng


kỹ thuật - xã hội, các cơng trình dịch vụ và tiện ích cơng cộng với các chính sách ưu đãi,
khuyến khích, ổn định lâu dài và cơ chế quản lý thơng thống tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ. Theo quy định, một khu kinh tế phải có diện tích tối thiểu là 10 ngàn
hecta (100 km²).
- Khu cơng nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất cơng nghiệp, có ranh giới địa lý xác định,
khơng có dân cư sinh sống, được hưởng một số chế độ ưu tiên của Chính phủ hay địa
phương, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Khu cơng nghiệp
là mơ hình kinh tế linh hoạt hơn, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngồi, vì họ hi vọng vào
thị trường nội địa, một thị trường mới, có dung lượng lớn để tiêu thụ hàng hố của mình.
- Khu chế xuất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới xác định khơng có dân cư
sinh sống, được hưởng một chế độ ưu tiên đặc biệt của Chính phủ, do Chính phủ hoặc

Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
- Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghệ kỹ thuật cao và
các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, gồm nghiên cứu - triển khai
khoa học – công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên quan, có ranh giới địa lý xác định
được hưởng một số chế độ ưu tiên nhất định, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ
quyết định thành lập.
- Đặc khu kinh tế là một khu vực không gian kinh tế, mà ở đó thiết lập một chế độ
ưu tiên riêng, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ thành lập. Chế độ ưu tiên này
được hình thành nhờ một loạt các điều kiện ưu đãi nhất định (như được miễn giảm các
loại thuế, nới lỏng qui tắc thuế quan và ngoại hối…), nhằm thúc đẩy các hoạt động sản
xuất, kinh doanh hoặc nghiên cứu khoa học trong khu vực.
Như vậy, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao là ba loại của đặc khu
kinh tế, chúng có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ sự khác nhau về mục đích, đối
tượng tham gia hay mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế. Qua các khái niệm trên có
thể thấy một số điểm giống và khác nhau giữa Khu KTCK với các loại hình kinh tế trên.
Những điểm giống nhau: Về tư cách pháp nhân, các loại hình kinh tế này đều được
thành lập theo quyết định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ; được hưởng một số
chế độ ưu đãi của Chính phủ và chính quyền địa phương; có một khơng gian kinh tế xác
định. Các hình thức kinh tế này đều nhằm mục đích nâng cao hiệu quả, thúc đẩy phát
triển kinh tế vùng, thông qua việc phát huy đặc điểm hoạt động của từng loại hình này


đối với vùng hay kinh tế cả nước.
Những điểm khác nhau: Điểm khác nhau dễ thấy giữa Khu KTCK với các hình
thức kinh tế nói trên là ở vị trí và điều kiện hình thành. Để thành lập được Khu KTCK,
điều kiện đầu tiên là phải gắn với vị trí cửa khẩu, là khu vực có hoặc khơng có dân cư
sinh sống, có các doanh nghiệp trong nước, nước ngồi. Mục đích thành lập Khu KTCK
nhằm ưu tiên phát triển thương mại, xuất nhập khẩu, dịch vụ, du lịch và cơng nghiệp.
Trong đó, quan trọng nhất là hoạt động thương mại, dịch vụ gồm: Hoạt động xuất nhập
khẩu, tạm nhập, tái xuất, vận chuyển hàng hóa quá cảnh, kho ngoại quan, cửa hàng miễn

thuế, hội chợ triển lãm, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các cơ sở sản xuất, gia công hàng
xuất khẩu và các chi nhánh đại diện của các cơng ty trong nước, nước ngồi, chợ cửa
khẩu. Các chính sách ưu tiên cũng khác nhau, phù hợp với đặc thù của từng loại hình và
địa phương nơi chúng được thành lập. Với những đặc điểm riêng, Khu KTCK coi trọng
các hoạt động về thương mại, dịch vụ, gắn với cửa khẩu. Hoạt động này chịu tác động
mạnh mẽ của khu vực kinh tế, chính sách biên mậu của các nước láng giềng có đường
biên giới chung. Hoạt động của Khu KTCK cịn liên quan nhiều đến thơng lệ quốc tế, vấn
đề chủ quyền, an ninh biên giới, các chính sách chung của hai nước thơng qua cặp cửa
khẩu và hệ thống các đường giao thông.
1.1.4. Nội dung phát triển khu kinh tế cửa khẩu
1.1.4.1. Phát triển không gian lãnh thổ kinh tế và dân cư tại khu kinh tế cửa khẩu
Tổ chức không gian lãnh thổ kinh tế của các Khu KTCK biên giới là việc xác định
ranh giới địa lý của Khu KTCK để tiến hành các hoạt động kinh tế.
Trong việc xác định này cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nguyên tắc chung của mơ hình khơng gian lãnh thổ là Khu KTCK phải
tôn trọng chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, thềm lục địa, vùng trời, theo hiệp định đã ký và
các quy ước quốc tế.
Thứ hai, phải xác định các loại hình hoạt động kinh tế trong Khu KTCK. Trong
Khu KTCK biên giới phải xác định tỷ lệ và quan hệ hợp lý về phát triển giữa các ngành,
các lĩnh vực. Hoạt động nòng cốt của Khu KTCK là giao lưu kinh tế, giao lưu thương
mại. Nhưng về lâu dài, sự phát triển kinh tế tại các Khu KTCK sẽ được mở rộng sang
lĩnh vực sản xuất, gia công chế biến.
Thứ ba, trong tổ chức không gian lãnh thổ kinh tế tại các Khu KTCK, cần chú ý
đến các loại hình dịch vụ thương mại và du lịch. Đây không những là nơi diễn ra hoạt
động mua bán hàng hóa, phục vụ nhu cầu mua sắm, mà còn là các trung gian xúc tiến


thương mại như hội chợ, triển lãm, trưng bày, giới thiệu và quảng cáo sản phẩm; tổ chức
gặp gỡ, trao đổi, tìm hiểu, ký kết hợp đồng giữa các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp
giữa các nước; tham quan, du lịch…

Thứ tư, phát triển dân cư tại Khu KTCK. Trong phát triển Khu KTCK phải quan
tâm đến việc phát triển dân cư. Về căn bản phát triển dân cư tại các Khu KTCK phải đảm
bảo sự hài hòa giữa phân bố dân cư, phân bố lực lượng sản xuất và mơi trường sinh thái.
Xuất phát từ tính chất của Khu KTCK, hoạt động trọng tâm của Khu KTCK là
giao lưu thương mại, nên tỷ lệ dân số phi nông nghiệp phải chiếm tỷ trọng lớn trong cơ
cấu dân cư, cơ cấu lao động của Khu KTCK. Đặc điểm dân cư tại các Khu KTCK mang
tính chất của dân cư đô thị. Và đây cũng là cơ sở khách quan cho việc phát triển các Khu
KTCK trở thành các đô thị ven biên giới.
1.1.4.2. Phát triển giao lưu kinh tế qua cửa khẩu biên giới
 Đặc điểm giao lưu kinh tế qua cửa khẩu biên giới
Ở tầm quốc gia, lý thuyết kinh tế đã chỉ ra, “Phát triển kinh tế được xem như là
quá trình biến đổi cả về lượng và về chất của nền kinh tế”. Mặt lượng của sự phát triển
hàm nghĩa sự gia tăng về quy mô thu nhập và tiềm lực của nền kinh tế; còn sự thay đổi về
chất bao gồm cả quá trình thay đổi cấu trúc bên trong của nền kinh tế “chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và tiến bộ xã hội”.
Phát triển kinh tế là gắn liền tăng trưởng kinh tế với sự thay đổi cơ cấu kinh tế, đời
sống xã hội, thể chế chính trị, văn hố pháp luật. Cịn phát triển kinh tế tại Khu KTCK
biên giới là một khái niệm mới về phát triển kinh tế nhằm khai thác các tiềm năng và
nguồn lực của yếu tố vị trí địa lý kinh tế và chính trị của dải biên giới mà tâm điểm là
hình thành một khu vực đầu mối giao lưu thương mại cửa khẩu biên giới đất liền với cơ
sở pháp lý cùng hệ thống kết cấu hạ tầng và những chính sách phát triển phù hợp để tạo
động lực mới cho quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa nước sở tại với nước
láng giềng và qua đó với các nước khác trong khu vực trong xu hướng hội nhập khu vực
và quốc tế.
Như vậy phát triển kinh tế tại các Khu KTCK là phát triển các hoạt động thương
mại gắn với các cửa khẩu.
 Nội dung chủ yếu của phát triển kinh tế tại Khu KTCK
1) Hoạt động mua bán hàng hóa.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, việc giao lưu hàng hóa giữa các
vùng miền, giữa các quốc gia ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Mà các cửa khẩu là đầu mối



tiếp giáp thúc đẩy hoạt động giao lưu này.
Việc mua bán hàng hóa tại các Khu KTCK bao gồm cả mua bán hàng hóa trên thị
trường nội địa và mua bán hàng hóa quốc tế. Trong phát triển kinh tế tại các Khu KTCK,
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế được quan tâm hàng đầu. Các hoạt động này được
thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập
và chuyển khẩu.
2) Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó bên cung ứng dịch vụ có
nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ
(khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo
thỏa thuận. Tại các Khu KTCK, các hoạt động dịch vụ chủ yếu bao gồm các hoạt động
như: Dịch vụ vận chuyển hàng hóa; Dịch vụ thanh tốn; Dịch vụ thông tin; Dịch vụ
logistics...
3) Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa
và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới
thiệu hàng hóa, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại. Thông thường tại các Khu KTCK,
hoạt động xúc tiến thương mại không dừng lại ở mục tiêu bán hàng hóa mà cịn nhằm tìm hiểu
thị trường, tim kiếm đối tác và thu hút đầu tư.
4) Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia cơng
sử dụng một phần hoặc tồn bộ ngun liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện
một hoặc nhiều cơng đoạn trong q trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để
hưởng thù lao. Tại các Khu KTCK, hoạt động gia công thương mại có ý nghĩa rất lớn
trong việc làm tăng giá trị hàng hóa.
5) Hoạt động du lịch tại các Khu KTCK.
Du lịch tại các Khu KTCK gắn liền với hoạt động xuất nhập cảnh. Vì vậy, du lịch
tại các Khu KTCK phải tuân theo các quy định xuất nhập cảnh của các nước có chung
đường biên giới.
Du lịch tại các Khu KTCK cịn gắn liền với mục đích hoạt động kinh doanh quốc
tế. Với tư cách là cầu nối giao lưu kinh tế qua biên giới giữa các nước, người nước ngồi,

du lịch tại các Khu KTCK khơng chỉ dừng lại ở mục đích “sử dụng” tài nguyên du lịch,
mà du lịch tại Khu KTCK còn gắn liền với các hoạt động đầu tư, kinh doanh. Do đó, du
lịch tại các Khu KTCK còn bao gồm cả việc việc quản lý các phương tiện XNC như ô tô,
các phương tiện vận tải khác. Việc quản lý các hoạt động này cũng tùy theo thỏa thuận
của các nước.


1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của khu kinh tế cửa
khẩu
Có rất nhiều nhân tố và nhóm nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát
triển các Khu KTCK bởi lẽ đây là mơ hình kinh tế được hình thành và phát triển từ lâu,
chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố và bị chi phối dưới nhiều chiều, nhiều hướng tác động.
Trong đó, nổi lên các nhóm nhân tố chính yếu sau :
Thứ nhất, các yếu tố tự nhiên bao gồm vị trí địa lí, khí hậu, địa hình, mơi trường...
Việc lựa chọn xây dựng các Khu KTCK trước hết phải căn cứ vào điều kiện tự
nhiên, đó phải là nơi có những thuận lợi về vị trí địa lí “đắc địa”, phù hợp với giao lưu
kinh tế - thương mại biên giới, là cầu nối kinh tế trong và ngoài nước, bởi đây là đầu mối
phát triển không gian kinh tế mở nước ta. Ngoài ra, các nước láng giềng thường có sự bổ
sung cho nhau về các nhóm hàng (nông nghiệp, chế biến, nguồn tài nguyên, sản vật địa
phương,…) vốn được khai thác trên cơ sở tận dụng các yếu tố tự nhiên đặc thù của nước
mình, tạo nên những lợi thế cạnh tranh động trên nền tự nhiên tĩnh.
Thứ hai, yếu tố lịch sử. Quan hệ giao lưu kinh tế giữa nước ta với các nước láng
giềng có lịch sử từ lâu đời, xuất phát từ các chuyến cống phẩm bang giao giữa các nước
cũng như hình thành từ các phiên chợ biên giới trao đổi các vật phẩm địa phương phục vụ
nhu cầu hằng ngày và sản xuất tại chỗ. Từ đó, các tuyến đường mịn biên giới hình thành
là cơ sở phát triển các tuyến, các hành lang kinh tế - giao thông sau này ; các phiên chợ
ba hay bảy ngày ngày xưa giờ nâng lên thành chợ thường nhật, chợ biên giới, chợ cửa
khẩu được tổ chức quy mô với cơ sở hạ tầng khang trang, rộng rãi hiện nay.
Thứ ba, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, các vấn đề giáo dục, y
tế, phong tục tập quán,… cũng ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển KTCK. Kinh tế càng

phát triển, lượng hàng hóa luân chuyển trên thị trường càng tăng cao nhằm đáp ứng nhu
cầu cơ bản và ngày càng cao của người tiêu dùng. Kinh tế trong nội địa phát triển, các
dịng hàng hóa, dịch vụ được vận chuyển nhanh với quy mô ngày càng lớn ra các vùng
biên, thông qua cửa khẩu đến thị trường các nước. Bán kính tiêu thụ càng mở rộng với
những hạt nhân là các trung tâm thương mại có tiềm lực về kinh tế sẽ phát triển càng
nhanh, từ đó hình thành nên các cực, tuyến điểm trong giao thương các nước. Đồng thời,
trình độ phát triển kinh tế cịn chi phối cả cơ cấu hàng xuất nhập khẩu, kim ngạch trao đổi
song phương, đa phương lẫn quy mô và bán kính lan tỏa hàng hóa (thị trường ngày càng
mở rộng).
Thứ tư, chính sách đối ngoại và quan hệ kinh tế - chính trị. Bầu khơng khí chính trị
giữa các nước láng giềng có chung đường biên ảnh hưởng rất nhiều đến sự hình thành và


phát triển Khu KTCK không chỉ trong quá khứ, hiện tại mà cả trong tương lai. Trong lịch
sử, nước ta đã trải qua nhiều thời kì, khi quan hệ hai nước lắng xuống, khu vực vùng biên
có điểm nóng về an ninh chính trị, hàng loạt các cửa khẩu phải đóng cửa làm cho hoạt
động trao đổi thương mại hầu như khơng diễn ra.
1.2. Vai trị của khu kinh tế cửa khẩu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Việc xây dựng các Khu KTCK nhằm thực hiện nhiều mục tiêu trên cơ sở phát huy
lợi thế của vùng về quan hệ kinh tế - thương mại cửa khẩu biên giới, thu hút các kênh
hàng hóa, đầu tư, dịch vụ và du lịch từ các nơi trong cả nước, từ nước ngồi vào nội địa
thơng qua các cơ chế, chính sách ưu đãi. Khu KTCK là khơng gian diễn ra các hoạt động
thương mại xuất nhập khẩu và vùng trung chuyển hàng hóa, trao đổi, bn bán giữa dân
cư biên giới các nước. Ở tầm quốc gia, Khu KTCK là nơi thể hiện sự giao thoa về các
chính sách kinh tế đối ngoại của các quốc gia có đường biên giới chung. Phát triển các
Khu KTCK không chỉ tác động tới đối tác thương mại bên kia biên giới mà trong phạm
vi vùng và cả nước, các Khu KTCK tác động trực tiếp tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành, vùng, khu vực, thúc đẩy phân công lao động, khai thác tối đa những tiềm năng,
thế mạnh của từng vùng thơng qua lợi thế về vị trí, cơ chế, chính sách ưu đãi, nhờ đó thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Các Khu KTCK còn thúc đẩy q trình đơ thị hóa, hình thành

những thị trấn, thị xã, thành phố, các trung tâm thương mại lớn....
Khu KTCK phát triển sẽ trực tiếp tạo ra nhu cầu, khơi thơng và đưa ra các tín hiệu
để thơng tin giúp cho các kênh hàng hóa, dịch vụ, du lịch trong cả nước phát triển, nhờ đó
kinh tế - xã hội của vùng cũng ngày càng phát triển. Vai trò của Khu KTCK thể hiện trên
một số nội dung sau:
1.2.1. Vai trò của khu kinh tế cửa khẩu đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc
dân
Các Khu KTCK được hình thành nhằm mục đích phát huy lợi thế về quan hệ kinh
tế-thương mại cửa khẩu biên giới, thu hút các kênh hàng hoá, đầu tư, thương mại, dịch vụ
và du lịch từ các nơi trong cả nước, từ nước ngồi vào nội địa thơng qua cơ chế chính
sách ưu đãi tại các khu KTCK. Chính sự thu hút này đã làm cho các ngành, các địa phương
trong cả nước, tùy theo quy mô, sự hấp dẫn của cơ chế chính sách ưu đãi thực hiện sự
chuyển dịch sản xuất, lưu thơng hàng hố cho phù hợp. Bên cạnh đó khi mơ hình khu kinh tế
cửa khẩu được phát huy tốt sẽ tạo ra sự lưu thơng hàng hố giữa trong và ngoài nước nhằm
khai thác thị trường rộng lớn của nước bạn. Hơn nữa, trong các lĩnh vực cơng nghiệp, dịch
vụ và và du lịch cũng có những đòi hỏi tương tự, cần phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
để nhanh chóng hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này càng có ý
nghĩa đối với nền kinh tế hàng hố chậm phát triển, thị trường còn nhỏ hẹp, sức mua


thấp, khả năng cạnh tranh trước mắt của nền kinh tế cịn thấp kém như Việt Nam.
Việc hình thành Khu KTCK đã làm phong phú thêm tính đa dạng hóa của các loại
hình khu kinh tế đặc biệt như khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở được xây
dựng tại nước ta trong thời kì đổi mới vừa qua. Và cũng chính việc hình thành các Khu
KTCK đã hình thành một mơ hình phát triển kinh tế nhằm khơi dậy và phát huy tiềm
năng của địa bàn có điều kiện đặc thù là có các cửa khẩu.
Khu KTCK có sức thu hút đầu tư khá mạnh mẽ khơng chỉ các nhà đầu tư trong
nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài. Để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng trưởng
kinh tế nhằm thực hiện kế hoạch phát triển vùng của Chính phủ. Bên cạnh đó, khu KTCK
góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng mới,

hiện đại, có giá trị lâu dài ở địa phương. Mặt khác, khu KTCK cịn góp phần làm tăng
nguồn thu cho ngân sách địa phương giảm bớt sự phụ thuộc, trông chờ vào ngân sách
Nhà nước. Hơn nữa cịn đóng góp cho ngân sách Nhà nước ở cửa khẩu có doanh thu lớn,
qua đó nâng cao được tỉ lệ tích luỹ đầu tư cho tương lai, đồng thời nâng cao đời sống,
nâng cao dân trí đồng bào biên giới.
Bên cạnh đó, quá trình phát triển các khu KTCK tác động thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình giao lưu kinh tế giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nó có
tác dụng như chiếc cầu nối kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới, nhằm đẩy nhanh tiến
trình hội nhập kinh tế.
1.2.2. Vai trị của khu kinh tế cửa khẩu đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Khu KTCK hình thành sẽ tạo ra sự phân công lao động theo hướng chuyển lao
động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp, tạo điều kiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng phát triển các ngành thương mại,
dịch vụ, du lịch, công nghiệp, hỗ trợ phát triển đối với dịch vụ trong nước thông qua việc
đẩy mạnh giao lưu kinh tế với các nước láng giềng; tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
kinh tế, kiểm tra giám sát các hoạt động, phát hiện và xử lý các vi phạm. Khu KTCK
cũng là nơi thể hiện sự giao thoa về các chính sách kinh tế đối ngoại của các quốc gia có
đường biên giới chung. Vì vậy những nhu cầu về kinh tế cả cho sản xuất và tiêu dùng
trong phạm vi hẹp, trực tiếp phục vụ cho nhu cầu tại chỗ của địa phương, vùng lân cận;
trong phạm vi rộng nó sẽ trực tiếp đáp ứng nhu cầu của địa phương, các vùng trong cả
nước thông qua sự luân chuyển các kênh hàng hóa từ khu vực KTCK đến các nơi và
ngược lại theo sự vận động của quan hệ cung cầu và giá cả trên thị trường đối với các
chủng loại hàng hóa trao đổi ở đây. Do đó với phạm vi ảnh hưởng càng lớn, khu KTCK
càng phát triển, nó sẽ tác động càng mạnh mẽ tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc


đẩy phân công lao động, làm cho thị trường được thông suốt trong cả nước, khai thác tối
đa những tiềm năng và thế mạnh của vùng.
Ngồi ra khu KTCK cịn góp phần đẩy nhanh xu hướng đơ thị hố, hình thành
những thị trấn, thị tứ, các khu thương mại dịch vụ …

1.2.3. Vai trò của khu kinh tế cửa khẩu đối với q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại
hố đất nước
Phát triển các khu KTCK là một trong những chủ trương đúng đắn của Đảng và
Nhà nước ta nhằm xây dựng một mơ hình kinh tế mới, thúc đẩy sự nghiệp CNH – HĐH
đất nước. Các Khu KTCK thúc đẩy q trình hiện đại hố thơng qua việc ứng dụng cơng
nghệ mới và trình độ quản lý hiện đại trong hoạt động thương mại, dịch vụ và sản xuất,
tạo ra những yếu tố để liên kết các doanh nghiệp đầu tư trong nước cũng như ngồi nước,
góp phần tích cực vào việc nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ; thực
hiện phân công lao động góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
1.2.4. Vai trò của khu kinh tế cửa khẩu đối với phát triển văn hóa - xã hội
Sự tác động đối với kinh tế của các Khu KTCK thực chất cũng tác động đến phát
triển xã hội, nhằm hướng tới mục tiêu phát triển xã hội là nâng cao phúc lợi xã hội cho
con người.
Phát triển Khu KTCK là cơ sở thúc đẩy quan hệ hợp tác về khoa học, giáo dục – đào
tạo và các lĩnh vực khác. Theo đó hai bên sẽ cùng thực hiện các chương trình hợp tác kinh tế
để tạo điều kiện trao đổi nghiên cứu khoa học, phối hợp đào tạo.
Sự phát triển Khu KTCK tạo điều kiện hình thành các khu dân cư tập trung dọc
biên giới, phát triển kết cấu hạ tầng, các tuyến đường giao thơng, hệ thống bưu chính viễn
thơng, hệ thống chợ, mạng lưới cung cấp... góp phần cải thiện đời sống của dân cư.
Các Khu KTCK còn góp phần giải quyết vấn đề việc làm tạo sự ổn định cho cuộc
sống của nhân dân qua việc đào tạo và nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động xã hội,
hình thành nhiều trung tâm tạo việc làm mới, phát triển kinh tế gắn văn minh, tiến bộ và
cơng bằng xã hội..
Nhìn chung, việc hình thành các Khu KTCK đã thúc đẩy sự phát triển chung, nhất
là đối với những địa phương có điều kiện kinh tế xã hội cịn gặp nhiều khó khăn; đồng
thời tạo tiền đề thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài để
phát triển Khu KTCK.
1.2.5. Vai trò của khu kinh tế cửa khẩu đối với an ninh quốc phịng
Việc hình thành các Khu KTCK sẽ thu hút dân cư đến làm ăn, sinh sống, tạo thành



những khu tập trung dân cư, một số đô thị biên giới góp phần làm tăng thêm tiềm lực
kinh tế, quốc phòng tại tuyến biên giới. Đời sống của nhân dân tại địa bàn các Khu
KTCK sẽ được nâng cao tạo thêm lịng tin về chính quyền và về các chính sách của Đảng
và Nhà nước. Ngồi ra, các lực lượng cơng an, hải quan, biên phịng tại Khu KTCK được
tăng cường năng lực cũng như trang thiết bị, do đó hoạt động bảo vệ biên giới, chủ quyền
Quốc gia, đảm bảo an ninh, quốc phòng sẽ được nâng cao về nhiều mặt.
Như vậy việc thành lập khu KTCK có tác động nhiều mặt đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước như tổ chức lại cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân cư,
nâng cao mức sống nhân dân, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho khu vực.
1.3. Một số mơ hình khu kinh tế cửa khẩu
Khơng có một mơ hình chung cho các Khu KTCK mà tùy thuộc vào những đặc
điểm đặc trưng của nó về mặt địa lý, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, nguồn
hàng hố và các chính sách phát triển. Mơ hình Khu KTCK được xác lập dựa trên các
yếu tố: (1) Hoạt động thương mại, dịch vụ gắn với cửa khẩu và chịu tác động mạnh của
các khu vực kinh tế, các vùng kinh tế cũng như chính sách biên mậu trong và ngồi nước;
(2) Nguồn hàng hóa, dịch vụ,… tại chỗ hay từ nơi khác đến để đảm bảo hoạt động và vận
hành có hiệu quả; (3) Chính sách quản lí điều hành liên quan rất nhiều đến các thông lệ
quy luật chung của quốc tế, vấn đề chủ quyền và an ninh biên giới, các hiệp định thỏa
thuận chung giữa các nước có chung đường biên thơng qua thực tế tại các cửa khẩu.
Vì vậy, tùy vào điều kiện từng nơi, trình độ tổ chức, quy mô phát triển (cửa khẩu
quốc tế, cửa khẩu quốc gia, cửa khẩu phụ...) sẽ hình thành các mơ hình KTCK khác nhau.
Về đại thể, có các mơ hình chính như: mơ hình đường thằng, mơ hình quạt giao nhau ở
cán, mơ hình lan tỏa,... Mỗi mơ hình ứng với một giai đoạn phát triển khác nhau theo xu
hướng phát triển từ đối ứng sang đối trọng, từ bị động sang chủ động sao cho phát huy
hết những lợi thế cạnh tranh tĩnh và động quốc gia trong quá trình hội nhập và phát triển.
1.3.1. Mơ hình khơng gian
Là mơ hình đòi hỏi được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản: Tôn trọng
chủ quyền, lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, thềm lục địa, các hiệp định và hiệp ước quốc
tế; đảm bảo sự phối hợp tốt tất cả các yếu tố để các quốc gia có đường biên giới chung

đều có lợi, đảm bảo về mơi trường, sự phối hợp các nguồn lực khi triển khai; tìm kiếm
các yếu tố tương đồng, các vị trí tạo ra khả năng phát triển đối xứng, Mặt khác, có mối
liên hệ tốt trong nội địa để bù đắp sự thiếu hụt về nguồn lực và trao đổi hàng hóa, cũng
như tránh các vị trí bất lợi xảy ra tranh chấp, lấn chiếm... Các hình thức tồn tại của mơ
hình khơng gian bao gồm (Mơ hình đường thẳng; Mơ hình quạt giao nhau ở cánh; Mô


hình quạt giao ở rìa cánh; Mơ hình lan tỏa).

Hình 1.1.a: Mơ hình đường thẳng

Hình 1.1.b: Mơ hình quạt giao ở cánh

Hình 1.1.c: Mơ hình quạt giao ở rìa cánh
Hình 1.1.d: Mơ hình lan tỏa
Chú thích:
Khu kinh tế cửa khẩu:
Đường biên giới:
Đường giao thơng đơ thị:
Khu cơng nghiệp:
1.3.2. Mơ hình hợp nhất
Mơ hình này cịn được gọi là mơ hình đối xứng, mơ hình đối trọng hay (mơ hình
đặc biệt). Mơ hình này căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế của mỗi nước, khả năng
giao lưu với nước thứ ba nhờ hệ thống giao thông như đường bộ, sân bay, bến cảng
đường thủy; dựa trên các điều kiện tự nhiên thuận lợi các nước sẽ bố trí các cặp cửa
khẩu quốc tế, quốc gia và địa phương. Các phiên bản cụ thể của mơ hình hợp nhất bao
gồm (Mơ hình đối xứng; Mơ hình đặc biệt; Mơ hình đối trọng).
Khu sản xuất

Các cửa

kiểm sốt

Khu hành chính

Khu thương mại và
dịch vụ

Dải phân cách
Các cửa
Khu thương mại và
Khu hành chính
kiểm sốt
dịch vụ
Hình 1.2. Sơ đồ mơ hình Khu KTCK đối xứng (mơ hình đặc biệt)
1.3.3. Mơ hình thể chế
Vì các Khu KTCK có vị trí đặc biệt và nhạy cảm nên được cho phép thí điểm một
số cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội tồn diện, được
phân cấp trong quản lí từng bên cũng như chịu sự tác động của cơ chế, chính sách kinh tế
biên mậu mà nước bạn áp dụng. Kết quả là hình thành nên sự giao thoa về cơ chế chính
sách giữa Trung ương và địa phương trong nước cũng như tại nước bạn mà khu KTCK áp
dụng.
Đối với Khu KTCK Đồng Đăng –Lạng Sơn đang thực hiện “Mơ hình tổng hợp”
Khu sản xuất


(là mơ hình hợp nhất của 3 mơ hình, đó là: mơ hình khơng gian; mơ hình hợp nhất; mơ
hình thể chế.
Mơ hình này được xây dựng theo định hướng phát triển của mỗi bên và thoả thuận
quốc gia. Mỗi bên xây dựng Khu KTCK độc lập của mình, cạnh tranh phát triển. Do đó
nó có nét đối xứng, mỗi bên có kết cấu hạ tầng giống nhau nên chúng có những điểm bố

trí tương đồng với nhau về kết cấu bao gồm: khu dân cư, khu thương mại, khu sản xuất,
khu vui chơi giải trí, khu hành chính. Mơ hình đối trọng nhằm tạo thế cân bằng giữa hai
bên cửa khẩu. Nhà nước ban hành chính sách phù hợp với thực tế hoạt động của Khu
KTCK. Việc xây dựng thể chế, chính sách phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế,
các hiệp định, thỏa thuận song phương hoặc đa phương, truyền thống và tập quán, bản
sắc văn hóa của mỗi quốc gia. Đảm bảo giữ gìn hịa bình, cùng có lợi, bảo vệ mơi trường
và phát triển bền vững. Đồng thời chủ động cùng nhau trao đổi thường xuyên, phối hợp
điều chỉnh và giải quyết các vấn đề còn tồn tại, vướng mắc tạo điều kiện tốt nhất cho việc
phát triển các hoạt động sản xuất - kinh doanh.
Khu sản xuất
Khu thương mại
Khu hành chính
Cửa kiểm sốt

Khu sản xuất
Khu thương mại
Khu hành chính
Cửa kiểm sốt
Phát triển hạ tầng
Chính sách thương mại
Chính sách đầu tư
Chính sách ưu đãi
vv...

Phát triển hạ tầng
Chính sách thương mại
Chính sách đầu tư
Chính sách ưu đãi
vv...



Hình 1.3. Mơ hình tổng hợp Khu KTCK Đồng Đăng
Trong đó:
1: Chính sách quốc gia
2: Quy định của địa phương
3: Chính sách của nước láng giềng có đường biên giới chung
4: Thể chế kinh tế cửa khẩu
5: Chính sách hỗ trợ Khu KTCK
Đối với Mơ hình này có ưu điểm là linh hoạt trong quản lý vận hành. Đồng thời
cùng một thời điểm thực thi nhiều chính sách khác nhau, thống nhất tương đồng trong
việc kiểm soát tại của khẩu, kết nối giao thơng hạ tầng tương thích, tạo thế đối trọng
trong cạnh tranh phát triển, nâng cao hiệu quả hợp tác.
1.4. Bài học kinh nghiệm phát triển một số khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam
1.4.1. Khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái – Quảng Ninh
Khu KTCK Móng Cái - Quảng Ninh là Khu KTCK đầu tiên của Việt Nam được
thành lập và thí điểm theo mơ hình mới, qua hơn 18 năm hoạt động, Móng Cái đã có
bước phát triển vượt bậc, trở thành thành phố điển hình trong hợp tác kinh tế khu vực
biên giới của Việt Nam. Những thành tựu đạt được trong thời gian qua tạo tiền đề quan
trọng để trong tương lai, Móng Cái trở thành thành phố cửa khẩu quốc tế, hiện đại và gắn
với khu công nghiệp Hải Hà với nhiều chức năng của một trung tâm công nghiệp cảng
biển, tài chính, khu vực mậu dịch tự do...
Khu KTCK Móng Cái có vai trị rất lớn đối với vùng Đơng Bắc Việt Nam, là đầu
mối giao thương quan trọng giữa Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Đông Á và là thị
trường trung chuyển giữa các nước ASEAN và Trung Quốc.
Trong những năm qua, Khu KTCK Móng Cái đã đạt được nhiều thành tựu về kinh
tế, xã hội, tác động thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương cũng như tồn vùng Đơng Bắc
bộ.
Q trình hình thành và phát triển Khu KTCK Móng Cái phù hợp với yêu cầu thực
tiễn, đã khai thác và phát huy được lợi thế của khu KTCK và đóng góp đáng kể phát triển



vùng, tạo điều kiện thức đẩy hoạt động thương mại Việt Nam - Trung Quốc.
Thu ngân sách trên địa bàn Khu KTCK chiếm một tỷ trọng lớn và đóng góp đáng
kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước tỉnh. Đồng thời thúc đẩy sự phát triển kinh tế của
tỉnh Quảng Ninh, kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng tăng. Công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp trong Khu KTCK phát triển mạnh. Các ngành sản xuất vật liệu xây dựng,
hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc, sản phẩm chè, sửa chữa và đóng tàu thuyền... đạt được
bước phát triển mới.
Tận dụng lợi thế là thành phố biển, Khu KTCK Móng Cái đã đẩy mạnh phát triển
các hoạt động du lịch và dịch vụ. Tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ, thương mại trong GDP tại
Móng Cái đã thay đổi đúng định hướng. Số doanh nghiệp hoạt động và số hộ kinh doanh
tăng nhanh. Nhờ có mơi trường đầu tư thơng thống, các chinh sách khuyến khích, Khu
KTCK Móng Cái đã thu hút được số lượng lớn các doanh nghiệp trong và ngồi nước và
rất nhiều hộ bn bán tham gia hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá qua biên giới.
Những năm qua, việc hợp tác giao lưu kinh tế giữa Khu KTCK Móng Cái và các
nước ASEAN diễn ra khá sơi động, mạnh mẽ và đa dạng. Tốc độ tăng xuất nhập khẩu đạt
khoảng gần 20%/năm.
Tuy nhiên trong quá trình xây dựng và phát triển, Khu KTCK Móng Cái vẫn cịn
bộc lộ một số vấn đề cần giải quyết.
- Hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch: Thương mại XNK qua cửa khẩu chưa
tương xứng với tiềm năng, tăng trưởng không ổn định, bền vững.
- Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng: Vấn đề giao thông nối liền giữa Khu KTCK
với các nơi khác ở trong nước và ngay cả với bên ngồi (phía Trung Quốc) chưa tốt.
Trong khi chính sách ưu đãi, thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển cho Khu KTCK còn
hạn chế và chưa đồng bộ.
- Về thu hút đầu tư trong và ngoài nước: Do nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản
được thực hiện theo cơ chế hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách trung ương và các nguồn vốn
huy động khác cịn tương đối hạn hẹp, nên một số cơng trình trọng điểm phục vụ phát
triển Khu KTCK Móng Cái gặp rất nhiều khó khăn về vốn. Mức hỗ trợ từ ngân sách
trung ương hàng năm chưa thực sự tương xứng với mức thu thuế xuất nhập khẩu trên địa

bàn tỉnh. Mức hỗ trợ bình quân hàng năm 10,5% số thu thuế xuất nhập khẩu là quá ít so
với nhu cầu đầu tư, cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng khu KTCK, nhằm đáp ứng hoạt động
thương mại hàng hoá.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý xuất nhập cảnh chưa được hiện đại


hố đồng bộ, hiệu quả cơng tác kiểm sốt chưa cao, tốc độ chậm.
1.4.2. Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai
Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới phía Tây Bắc của Tổ quốc, có Phía Bắc giáp
tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, cách Hà Nội 296 km theo đường sắt và 345 km theo đường
bộ, cách Côn Minh 500 km theo đường bộ, 465 km theo đường sắt. Lào Cai có lợi thế và
tiềm năng phát triển kinh tế cửa khẩu, là cửa ngõ giao thương thuận lợi nhất giữa Việt
Nam, các nước trong khu vực với vùng Tây Nam rộng lớn của Trung Quốc. Trong xu thế
hội nhập, lợi thế và tiềm năng phát triển KTCK đã và đang được Chính phủ và Uỷ ban
nhân dân tỉnh quan tâm phát huy và khai thác, nhằm tạo động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội của Lào Cai. Ngày 26 tháng 5 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra
Quyết định số 100/1998/QĐ.TTg, sau là Quyết định số 53/2001/QĐ- TTg ngày 19 tháng
4 năm 2001 cho phép tỉnh Lào Cai áp dụng thí điểm một số chính sách đối với Khu
KTCK Lào Cai. Kể từ tháng 3 năm 2008 đến nay, được hưởng các chính sách ưu đãi theo
Quyết định số 44/TTg ngày 26/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ. Khu KTCK Lào Cai là
đầu mối giao thông quan trọng trong tuyến hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà
Nội - Hải Phòng.
Thực tiễn các năm qua cho thấy chủ trương phát triển KTCK là hoàn toàn phù
hợp, kinh tế cửa khẩu Lào Cai có bước tăng trưởng mạnh mẽ và đạt được nhiều kết quả
quan trọng, khẳng định vị trí mũi nhọn trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Việc áp dụng các chính sách ưu đãi là động lực để Khu KTCK Lào Cai có bước
phát triển mới. Thu ngân sách trên địa bàn Khu KTCK chiếm một tỷ trọng lớn trong thu
ngân sách toàn tỉnh. Sự phát triển của Khu KTCK Lào Cai đã có những tác động lớn đã
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của tỉnh, hoạt động kinh tế thương mại sôi động hơn, kim
ngạch xuất - nhập khẩu liên tục tăng mạnh qua các năm....

- Nhà nước đầu tư vào việc phát triển cơ sở hạ tầng, nên các doanh nghiệp, hộ gia
đình đã tăng cường đầu tư vào các ngành nghề kinh doanh để khai thác từ lợi ích cơ sở hạ
tầng tạo ra, góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống nhân dân địa phương. Mặt
khác, việc phát triển cơ sở hạ tầng tại KKTCK Lào Cai góp phần quan trọng vào việc
hình thành đơ thị phát triển ở vùng biên giới.
- Sự phát triển Khu KTCK đã có những tác động tích cực đến cơng tác quản lý nhà
nước và cải cách bộ máy hành chính.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, trong quá trình hoạt động Khu
KTCK Lào Cai cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề:


- Về quy hoạch: Mặc dù đã có quy hoạch chi tiết song chưa có đề án quy hoạch
tổng thể Khu Kinh tế cửa khẩu tỉnh Lào Cai (hiện nay thực hiện theo quy hoạch chung
của thành phố Lào Cai và khu vực huyện lỵ Mường Khương).
- Hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch: Thương mại xuất nhập - khẩu qua cửa
khẩu chưa tương xứng với tiềm năng, tăng trưởng không ổn định, bền vững, thiếu hợp
đồng ngoại thương của các đối tác lớn, mặt hàng chiến lược.
- Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng: Tiến độ thực hiện đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ
tầng cho Khu KTCK Lào Cai còn chậm.
- Về thu hút đầu tư trong và ngoài nước: Nhiều dự án được phê duyệt quy mơ nhỏ,
chủ đầu tư có nguồn tài chính hạn chế. Một số dự án triển khai chậm, ảnh hưởng đến sự
phát triển chung.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý xuất nhập cảnh chưa được hiện đại
hố đồng bộ, hiệu quả cơng tác kiểm sốt chưa cao, tốc độ chậm. Tháo gỡ vướng mắc về
thủ tục xuất nhập cảnh qua cửa khẩu còn chậm như vấn đề miễn thị thực nhập cảnh vào
Khu KTCK, vấn đề miễn giấy phép vận tải quốc tế đối với xe chở hàng hoá xuất nhập
khẩu....
- Ban quản lý Khu KTCK Lào Cai mới chủ yếu tập trung tại cửa khẩu, lối mở,
chưa bao quát được các nội dung của chương trình phát triển Khu KTCK trên phạm vi
tồn Khu KTCK Lào Cai.

1.4.3. Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Tháp
Đồng Tháp là một tỉnh nằm trong khu vực đồng bằng sơng Cửu Long trù phú, có
đường biên giới giáp nước bạn Campuchia dài hơn 48 km, với 7 cửa khẩu, trong đó có 2
cửa khẩu quốc tế là Thường Phước và Dinh Bà, hai nhánh sông Cửu Long chảy qua, hai
bến cảng nằm bên bờ sông Tiền giúp vận chuyển hàng hố thuận lợi với biển Đơng và
nước bạn Campuchia. Đồng Tháp có quốc lộ 30, 80, 54 chạy cùng với đường Hồ Chí
Minh qua trung tâm tỉnh lỵ vượt sông Tiền nối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long,
tạo lợi thế về giao thông đường bộ với thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ và
các tỉnh trong khu vực.
Khu KTCK Đồng Tháp là 1 trong 9 khu kinh tế cửa khẩu quan trọng nhất của Việt
Nam. Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, Khu kinh tế cửa khẩu Đồng
Tháp có diện tích 319,36 km2 và đường biên giới với Campuchia dài 48 km với 2 cửa
khẩu Quốc tế là Thường Phước và Dinh Bà, cùng 5 cửa khẩu phụ. Đồng Tháp giáp với
tỉnh Prey Veng của Campuchia. Khu KTCK Đồng Tháp còn tiếp giáp với các tỉnh An


Giang, Long An. Đầu tư vào khu kinh tế cửa khẩu Đồng Tháp được hưởng các ưu đãi quy
định tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008. Bản thân việc phát triển khu kinh
tế cửa khẩu này cũng được chính phủ Việt Nam quan tâm hơn các khu kinh tế cửa khẩu
nói chung, thể hiện tại Quyết định 33/2009/QĐ-TTg.
Sau khi triển khai đề án phát triển Khu KTCK, các hoạt động thương mại, dịch vụ,
xuất nhập - khẩu phát triển. Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu tăng dần dần, tốc độ tăng
trưởng kinh tế là 16,56%. Thu ngân sách trên địa bàn Khu KTCK mỗi năm đều tăng.
Về đầu tư, Khu KTCK Đồng Tháp khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư,
kinh doanh trong các lĩnh vực và tất cả các dự án đầu tư vào Khu thương mại - công
nghiệp được hưởng các ưu đãi tối đa áp dụng đối với các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Luật Đầu tư, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp,
Luật Thuế giá trị gia tăng... Khách du lịch trong và ngồi nước khi vào Khu Thương mại
- Cơng nghiệp được phép mua hàng hoá nhập khẩu đưa vào nội địa Việt Nam và được
miễn thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt với giá trị không quá

500.000 đồng/người/ngày. Trong những năm qua, ban quản lý Khu KTCK Đồng Tháp đã
tập trung xây dựng nhiều công trình hạ tầng, khu tái định cư…



×