Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Thực trạng tìm kiếm thông tin sức khỏe và các yếu tố liên quan của người dân thành phố Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.12 KB, 9 trang )

THỰC TRẠNG TÌM KIẾM THƠNG TIN SỨC KHỎE VÀ CÁC YẾU TỐ
LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI DÂN THÀNH PHỐ HUẾ
Nguyễn Đắc Quỳnh Anh*, Nguyễn Minh Tuấn, Nguyễn Kỳ Nhật Minh,
Trần Đình Khánh Sỹ, Ngô Thị Diệu Hường
Trường Đại học Y Dược Huế

TĨM TẮT
Tìm kiếm thơng tin sức khỏe (TKTTSK) đang dần trở thành một nhu cầu không thể thiếu và là vấn đề rất
được quan tâm. Nghiên cứu mô tả cắt ngang, thực hiện từ 10/2018–10/2019 trên 814 người dân từ 18 tuổi,
tại 4 phường ở thành phố Huế (Việt Nam) được tiến hành nhằm mô tả thực trạng TKTTSK và một số yếu
tố tác động đến hành vi TKTTSK. Kết quả cho thấy 77,0% người dân có nhu cầu và đã thực hành hành vi
TKTTSK. Trong đó, chỉ 32,3% đối tượng có kiến thức tốt. Nhân viên y tế được cho là nguồn thông tin đáng
tin cậy nhất (75,3%) nhưng chỉ 47,4% người dân tiếp cận được với kênh thông tin trên. Nguồn tin thơng
dụng nhất là Internet (62,7%). Nhóm thơng tin mà người dân có nhu cầu tìm kiếm cao bao gồm: Dấu hiệu
bệnh tật (78,6%), phương pháp điều trị hiện đại (77,5%) và chế độ dinh dưỡng (75,9%). Các yếu tố độc
lập tác động đến hành vi TKTTSK của người dân là: Trình độ học vấn, Tình trạng sức khỏe bản thân theo
đánh giá chủ quan, tình trạng sức khỏe bản thân theo chẩn đoán bác sĩ và kiến thức về TKTTSK. Cần
phát triển các hoạt động tuyên truyền sức khỏe, tạo điều kiện để người dân tiếp cận được những thơng
tin chính thống và phù hợp.
Từ khóa: Tìm kiếm thơng tin sức khỏe; người trưởng thành; nhu cầu; Huế; Việt Nam

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thông tin sức khỏe là các dữ liệu liên quan
đến y tế, bệnh tật, dự phòng và bảo vệ sức khỏe
của mỗi cá nhân [1], những thơng tin này đóng
vai trị vơ cùng quan trọng trong cuộc sống.
Với khả năng tìm kiếm thơng tin sức khỏe
(TKTTSK), con người có thể chủ động dự
phịng bệnh tật, nâng cao chất lượng đời sống
cá nhân cũng như phát triển xã hội. Tại Việt
Nam, 82,9% người dân rất quan tâm đến sức


khỏe của bản thân. Trong đó, 40,5% thường
xun tìm kiếm những thơng tin về sức khỏe
[1]. Điều này chứng tỏ nhu cầu TKTTSK ngày
càng trở nên cấp thiết hơn.
Bên cạnh các kênh thông tin sức khỏe
truyền thống như: Nhân viên y tế, tivi, loa đài,
sách báo…, sự phát triển của internet và tăng
thơng tin y tế có sẵn trên mạng xã hội đang dần

*Tác giả: Nguyễn Đắc Quỳnh Anh
Địa chỉ: Trường Đại học Y Dược Huế
Điện thoại: 0702 312 980
Email:

16

thay đổi cảnh quan thông tin sức khỏe. Khoảng
60% người dùng tại Mỹ sử dụng Internet để tìm
kiếm thơng tin phục vụ sức khỏe [2]. Nếu so
với việc tìm kiếm thơng tin từ các nguồn tin
truyền thống, việc tìm kiếm thơng tin thơng
qua Internet được cho là dễ dàng, đa dạng và
cập nhật hơn [3, 4]. Tại Việt Nam, số người sử
dụng Internet đang tăng lên không ngừng, từ
khoảng 44,4 triệu (2015) lên 54,7 triệu (2018)
và ước tính sẽ đạt 75,7 triệu (2023) [5 ,6]. Điều
này đặt ra thách thức cho cả người dân, cán bộ
y tế và các cơ sở chăm sóc sức khỏe, quản lý y
tế về việc chọn lọc và xử lý thông tin.
Từ những lí do trên, chúng tơi tiến hành đề

tài nghiên cứu: “Thực trạng tìm kiếm thơng tin
sức khỏe của người dân thành phố Huế” với
mục tiêu mô tả thực trạng tìm kiếm thơng tin
sức khỏe và một số yếu tố liên quan của người
dân Thành phố Huế.

Ngày nhận bài: 09/04/2020
Ngày phản biện: 24/04/2020
Ngày đăng bài: 12/05/2020

Tạp chí Y học dự phòng, Tập 30, số 2 - 2020


II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Người dân từ 18 tuổi trở lên, có hộ khẩu
thường trú tại địa bàn và đồng ý tham gia
nghiên cứu.
2.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại thành phố
Huế từ tháng 10/2018 đến tháng 05/2019
2.3 Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.4 Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Sử dụng cơng thức tính cỡ mẫu ước lượng
1 tỷ lệ [7]:
n = c x Z2/2

p(1-p)
d2


Với hệ số thiết kế c=2, tỷ lệ ước đoán
p=0,405 [1], d=0,05 và độ tin cậy 95%, lấy dự
trù thêm 10%, cỡ mẫu tính được theo cơng thức
là 818. Trên thực tế, cỡ mẫu thu được là 818.
Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu nhiều
giai đoạn
Giai đoạn 1: Chọn ngẫu nhiên 4 trong 27
phường tại thành phố Huế, bao gồm Phường
Đúc, Trường An, Phú Cát và Vỹ Dạ.
Giai đoạn 2: Dựa theo số dân của mỗi
phường, tiến hành xác định số lượng người dân
tham gia nghiên cứu theo phương pháp tỷ lệ
với quần thể. Chọn ngẫu nhiên đối tượng tham
gia nghiên cứu từ danh sách nhân khẩu của mỗi
phường cho đến khi đủ số lượng.

Kiến thức TKTTSK được đánh giá là đạt
hay không đạt dựa vào định nghĩa về thông tin
sức khỏe và hành vi TKTTSK với 16 câu hỏi
lựa chọn đúng sai, phân loại bởi điểm cắt tứ
phương vị [8 - 10].
Hành vi TKTTSK, bao gồm: Tần suất
TKTTSK, các nguồn thông tin sức khỏe, nội
dung tìm kiếm, lí do và mục đích TKTTSK.
Nhu cầu TKTTSK được xác định dựa theo
bảng đánh giá mức độ quan tâm về các chủ đề
khác nhau (1= “Rất không quan tâm” đến 4=
“Cực kỳ quan tâm”).
2.6 Công cụ thu thập thông tin

Sử dụng bộ câu hỏi được xây dựng dựa trên
thang đo HLS-Asia-Q, đã được hiệu chỉnh cho
phù hợp với đặc điểm của các quốc gia Đông
Nam Á từ HLS-EU-Q [8, 9].
2.7 Phương pháp phân tích số liệu
Số liệu được phân tích bằng phần mềm
SPSS 18.0. Kết quả được mô tả bằng phân phối
tần suất, tỷ lệ; kiểm định mối liên quan giữa
các biến số bằng phương pháp hồi quy đa biến
Logistic với độ tin cậy 95%.
2.8 Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được sự chấp thuận của trường
Đại học Y Dược Huế, của chính quyền địa
phương nơi tiến hành nghiên cứu. Đối tượng
nghiên cứu được giải thích rõ ràng và tự
nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu. Nghiên
cứu chỉ nhằm mục đích nghiên cứu khoa học,
mọi thơng tin liên quan đến đối tượng được mã
hóa và đảm bảo bí mật.

2.5 Nội dung nghiên cứu

III. KẾT QUẢ

Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu:
Giới tính (nam/nữ), tuổi (<60/≥60), tơn giáo
(có/khơng), tình trạng hơn nhân (trong/ngồi
hơn nhân), điều kiện kinh tế (phân loại dựa
theo chứng nhận hộ nghèo/cận nghèo của hộ
gia đình), nghề nghiệp (tạo thu nhập/khơng tạo

thu nhập), trình độ học vấn, tình trạng sức khỏe
hiện tại của bản thân (tốt/không tốt).

3.1 Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên
cứu là là 44,9 ± 16,6. Tỷ lệ nữ giới cao hơn
nam giới (nam/nữ: 1/1,3); gần 2/3 dân số có
theo tơn giáo (phật giáo và thiên chúa giáo);
71,9% đang trong quan hệ hôn nhân và 60,1%
đang làm việc tạo ra thu nhập. Đa số đối tượng

Tạp chí Y học dự phịng, Tập 30, số 2 - 2020

17


nghiên cứu hiện đang sống cùng với người
khác, chỉ có 4,2% đang sống một mình. Về các
yếu tố liên quan đến sức khỏe, có khoảng 1/3
đối tượng đang trong tình trạng sức khỏe đặc
biệt (điều trị bệnh /mãn tính/ giai đoạn phục hồi
sau phẫu thuật/ có thai/ cho con bú,…) và 1/4
có người thân hiện đang trong tình trạng sức
khỏe đặc biệt.
3.2 Thực trạng tìm kiếm thơng tin sức khỏe
Nghiên cứu chỉ ra rằng, tất cả người dân đều
có nhu cầu TKTTSK , trong đó 77,0% đối tượng

đã từng thực hành TKTTSK, mục đích chính là
phục vụ cho việc chăm sóc sức khỏe bản thân

(89,2%). Tuy nhiên, chỉ có gần 1/3 người tham
gia có kiến thức đạt về hành vi này. Nội dung
được tìm kiếm nhiều nhất là bệnh tật và phương
pháp điều trị (81,4%), ít nhất là các thơng tin
về Y học cổ truyền (19,5%). Bảng 1 cũng cho
thấy, khó khăn lớn nhất của việc TKTTSK là
sự quá tải các nguồn thơng tin (54,4%). Tuy
nhiên, vẫn có 72,7% đối tượng cảm thấy hài
lòng với hành vi TKTTSK và những thơng tin
mà họ nhận được.

Bảng 1. Thực trạng tìm kiếm thông tin sức khỏe của đối tượng nghiên cứu (n=630)
Yếu tố

Thực hành hành vi TKTTSK

Tần số (n)

Tỉ lệ (%)

Hằng ngày

92

14,6

Hằng tuần

184


29,2

Hằng tháng

351

55,7

3

0,5

Đạt

204

32,3

Không đạt

426

67,7

Bản thân

562

89,2


Người thân

450

71,5

Bất cứ khi nào

491

66,5

Khi bản thân đang có dấu hiện mắc bệnh

241

38,3

Khi bản thân đang điều trị bệnh

81

12,9

Sau khi điều trị bệnh

27

4,3


Khi đang có thai, cho con bú

41

6,5

Khi người thân gặp vấn đề sức khỏe

105

16,7

1

0,2

Cơ sở chăm sóc sức khỏe

169

26,8

Dinh dưỡng

437

69,4

Dự phịng bệnh tật


429

68,1

Bệnh tật và phương pháp điều trị

513

81,4

Thuốc

370

58,7

Bảo hiểm y tế

144

22,9

Phục hồi chức năng

182

28,9

Thông tin thai kỳ, q trình ni con


171

27,1

Y học cổ truyền

123

19,5

1

0,2

Khác
Kiến thức về TKTTSK

Hành vi TKTTSK phục vụ cho

Thời điểm thực hành hành vi
TKTTSK

Khác

Nội dung TKTTSK

Khác

18


Tạp chí Y học dự phịng, Tập 30, số 2 - 2020


Yếu tố

Tần số (n)

Tỉ lệ (%)

Khó tiếp cận với nguồn thơng tin

64

10,2

Q nhiều nguồn thơng tin

343

54,4

188

29,8

74

11,7

35


5,6

150

23,8

Thơng tin kém chính xác
Những khó khăn khi thực hành
Khơng áp dụng được vào thực tế
hành vi TKTTSK
Không được mọi người xung quanh tin tưởng
Không có
Khác
Đánh giá mức độ hài lịng đối
với TTSK tìm kiếm được

9

1,4

Hài lịng

458

72,7

Khơng hài lịng

172


27,3

TKTTSK: Tìm kiếm thơng tin sức khỏe; TTSK: Thông tin sức khỏe

Bác sĩ, nhân viên y tế là nguồn cung cấp
thông tin sức khỏe được biết đến nhiều nhất
(73,6%) và có độ tin cậy cao nhất (75,3%).
Trong khi đó, Internet lại là nguồn thơng tin
phổ biến và được nhiều người sử dụng hơn cả

(53,7%). Hình thức cung cấp thơng tin sức khỏe
thơng qua băng rơn, áp phích được ghi nhận là
ít mang lại hiệu quả, chỉ có 13,6% người dân
biết; 6,5% đã từng thực hành và 16,5% cho
rằng nó đáng tin cậy.

Bảng 2. Các nguồn cung cấp thông tin sức khỏe (n=818)
Biết

Đã thực hành

Đáng tin cậy

n (%)

n (%)

n (%)


Người thân, bạn bè, người quen

384 (46,9)

259 (31,7)

178 (21,8)

Bác sĩ, nhân viên y tế

602 (73,6)

298 (36,4)

616 (75,3)

Sách, báo

336 (41,1)

207 (25,3)

192 (23,5)

Tivi, đài

488 (59,7)

325 (39,7)


330 (40,3)

Băng rơn, áp phích, tờ rơi

111 (13,6)

53 (6,5)

135 (16,5)

Hoạt động truyền thông tại địa phương

126 (15,4)

57 (6,9)

267 (32,6)

Internet

513 (62,7)

439 (53,7)

238 (29,1)

26 (3,2)

2 (0,3)


0

Nguồn thông tin

Khác

Tạp chí Y học dự phịng, Tập 30, số 2 - 2020

19


3.3 Nhu cầu tìm kiếm thơng tin sức khỏe

Hình 1. Nhu cầu tìm kiếm thơng tin sức khỏe của đối tượng nghiên cứu

Theo kết quả nghiên cứu, 3 chủ đề được
quan tâm nhất là: Dấu hiệu bệnh tật (91,5%),
điều trị bệnh theo y học hiện đại (90,2%) và
dinh dưỡng, an tồn vệ sinh thực phẩm (88,3%).

20

Chăm sóc phụ nữ mang thai và cho con bú là
chủ đề ít được quan tâm nhất (45,8%). Các chủ
đề cịn lại đều có tỷ lệ được quan tâm tương đối
cao (trên 60%).

Tạp chí Y học dự phòng, Tập 30, số 2 - 2020



3.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tìm kiếm thông tin sức khỏe
Bảng 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tìm kiếm thơng tin sức khỏe
Tần số
(n)

Tỷ lệ
(%)

OR (95% CI)

Nam

355

43,4

1

Nữ

463

56,6

1,025 (0,704 – 1,492)

≥ 60

183


22,4

1

< 60

635

77,6

0,949 (0,594 - 1,515)

Khơng

283

34,6

1



535

65,4

1,090 (0,727 - 1,635)

Ngồi hơn nhân


230

28,1

1

Trong hơn nhân

588

71,9

0,658 (0,413 – 1,048)

Nghèo/ cận nghèo

26

3,2

1

Ổn định

792

96,8

0,809 (0,306 – 2,134)


Khơng

326

39,9

1



492

60,1

0,685 (0,455 – 1,030)

Mù chữ

23

2,8

1

Từ dưới THCS

299

36,6


3,029 (1,120 – 8,190)

Từ THPT trở lên

496

60,6

11,699 (4,115 – 33,260)

Khơng

784

95,8

1



34

4,2

1,164 (0,435 – 3,116)

Tình trạng sức khỏe hiện
tại của các thành viên trong
gia đình


Khơng tốt

196

24,0

1

Tốt

622

76,0

1,051 (0,685 – 1,614)

Kiến thức về hành vi
TKTTSK

Không đạt

426

67,7

1

Đạt

204


32,3

2,342 (1,506 – 3,644)

Tự đánh giá tình trạng sức
khỏe hiện tại của bản thân

Tốt

557

68,1

1

Khơng tốt

261

31,9

2,285 (1,446 – 3,563)

Yếu tố
Giới tính
Tuổi
Tơn giáo
Tình trạng hơn nhân
Điều kiện kinh tế

Tạo ra thu nhập

Trình độ học vấn

Hiện đang sống một mình

p
0,898
0,825
0,675
0,078
0,668
0,069

<0,001

0,762

0,819

<0,001
<0,001

TKTTSK: Tìm kiếm thơng tin sức khỏe; TTSK: Thơng tin sức khỏe

Các yếu tố độc lập tác động đến hành vi
TKTTSK của đối tượng nghiên cứu được phát
hiện thông qua việc sử dụng mơ hình phân tích
hồi quy đa biến logistic. Các yếu tố ảnh hưởng
đến hành vi TKTTSK của người dân bao gồm:

Trình độ học vấn (OR=11,699, người có trình
độ học vấn từ THPT trở lên có tần suất thực
hành TKTTSK cao gấp gần 12 lần so với đối
tượng mù chữ), tình trạng sức khỏe bản thân
theo đánh giá chủ quan (OR=2,285, người có
sức khỏe tốt thường ít TKTTSK hơn) và kiến
thức liên quan đến TKTTSK (OR=2,342,

những người có hiểu biết về TKTTSK thực
hành nhiều gấp khoảng 2 lần những người thiếu
kiến thức về hành vi này).

IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tất cả mọi người
đều có nhu cầu TKTTSK, tỷ lệ người dân đã
thực hành TKTTSK là rất cao (77,0%), có sự
khác biệt so với khảo sát trước đó, khi tỷ lệ này
là 82,9% (p<0,001) [1]. Mặt khác, có 43,8%

Tạp chí Y học dự phịng, Tập 30, số 2 - 2020

21


đối tượng nghiên cứu thường xuyên thực hành
hành vi TKTTSK (hằng ngày, hằng tuần), điều
này khơng có sự khác biệt khi kết quả của một
khảo sát năm 2013 trên người dân Việt Nam
cho thấy tỷ lệ này là 40,5% (p=0,091) [1].
Chúng tôi cũng ghi nhận sự khác biệt trong

việc TKTTSK giữa các nhóm tuổi và nhóm
nghề nghiệp [1]. Đặc biệt, nghiên cứu này
cũng chỉ ra, ngoài TKTTSK cho bản thân, gần
¾ đối tượng tham gia thường xuyên TKTTSK
để phục vụ cho người thân của họ, đặc biệt là
cho ông bà, bố mẹ (43,2%) và con cái (44,1%),
điều này thể hiện rõ đặc trưng của văn hóa Việt
Nam khi nhiều thế hệ thường sống chung và
tình cảm giữa các thành viên trong gia đình là
rất thân thiết. Mặc dù hình thức tự điều trị khi
mắc bệnh vẫn còn khá phổ biến ở Việt Nam,
chiếm từ 40-60% tỷ lệ số trường hợp [11-13]
nhưng người dân đang dần có ý thức hơn trong
việc TKTTSK liên quan đến bệnh tật, phương
pháp điều trị hiện đại và dự phòng bệnh. Trong
khi nghiên cứu tại Bangladesh (1999) [10] cho
rằng rào cản lớn nhất của việc TKTTSK là khó
tiếp cận với nguồn thơng tin thì nghiên cứu của
chúng tơi ghi nhận khó khăn lớn nhất là việc
q tải thơng tin. Việc sẵn có q nhiều nguồn
thơng tin vừa tạo thuận lợi, vừa gây cho người
dân sự bất an về tính chính xác của những thơng
tin mà họ tiếp cận. Đây là vấn đề cần được đặc
biệt quan tâm nhằm đảm bảo chất lượng hành
vi TKTTSK.

khỏe chính thống còn thấp, điều này là một
trong những nguyên nhân khiến họ không thực
sự đánh giá cao độ tin cậy của nguồn thông tin
này. Bác sĩ, nhân viên y tế vẫn là nguồn thông

tin được biết đến nhiều nhất và đánh giá cao về
độ tin cậy. Kết quả này tương đồng với nghiên
cứu tại Úc [16] và tại Anh (2005) [4]. Các
phương tiện truyền thông truyền thống (Tivi,
sách báo) vẫn được u thích. Tivi, đặc biệt là
các chương trình giáo dục sức khỏe qua truyền
hình vẫn được người dân sử dụng và xem như
một kênh thơng tin hữu ích, các kết quả tương
tự đã được ghi nhận tại Việt Nam (50,9%, 2015)
[12], Hồng Kơng và Nhật Bản [14,17]. Có thể
thấy, song hành với sự phát triển nhanh chóng
của cơng nghệ thơng tin và cuộc cách mạng 4.0,
những nguồn thông tin sức khỏe truyền thống
vẫn ln được đánh giá cao và đóng một vai trò
quan trọng trong đời sống. Việt Nam là quốc
gia có hệ thống y tế tuyến cơ sở được chú trọng,
tuy nhiên giá trị giáo dục sức khỏe mà nó mang
lại chưa cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy, rất
ít người dân có cơ hội tiếp cận với các hình
thức như băng rơn, áp phích, tờ rơi hay hoạt
động truyền thông, giáo dục sức khỏe tại địa
phương. Ghi nhận này khơng có sự khác biệt so
với khảo sát trước đây [1] (13,2% băng rơn áp
phích) (p=0,755). Đây là một trong những hạn
chế cần được khắc phục, vì kênh thơng tin này
thực sự có giá trị và sẽ mang lại hiệu quả cao
nếu có biện pháp khai thác hợp lý.

Internet là nguồn thông tin được người dân
sử dụng nhiều nhất, mặc dù họ không thực sự

đánh giá cao độ tin cậy của nó. Tỷ lệ TKTTSK
qua Internet ở nghiên cứu này cao hơn so với
các nghiên cứu trước được tiến hành tại khu
vực Châu Á: Hồng Kông (30,6%, 2009, 38,2%,
2010 và 38,0%, 2012) [8], Nhật Bản (24%,
2007) [14] và thấp hơn so với Mỹ (71%, 2015
và 70,5%, 2018) [2,15]. Những nguồn cung
cấp thông tin sức khỏe qua Internet mà chúng
tôi ghi nhận bao gồm: các cơng cụ tìm kiếm
thơng thường (57,6%), mạng xã hội (34%),
… chỉ 16,5% người dân tiếp cận được với các
trang thơng tin sức khỏe chính thống và 2,2%
đã từng sử dụng dịch vụ tư vấn sức khỏe trực
tuyến. Như vậy, có thể thấy, khả năng tiếp cận
của đối tượng nghiên cứu với các thông tin sức

Nhu cầu TKTTSK của đối tượng nghiên cứu
là rất cao và có sự khác biệt ở các chủ đề sức
khỏe. Tương tự như một cuộc khảo sát trước
[1], dinh dưỡng và dấu hiệu bệnh tật vẫn là các
chủ đề được quan tâm nhiều nhất. Nghiên cứu
này cũng ghi nhận thêm, người dân ngày càng
mong muốn được hiểu biết về các thông tin liên
quan đến phương pháp điều trị bệnh hiện đại
và dự phòng bệnh tật. Điều này phù hợp với sự
phát triển chung hiện nay, khi nền kinh tế phát
triển, con người trở nên quan tâm nhiều hơn
đến sức khỏe và có ý thức cao hơn trong việc
dự phịng và chủ động điều trị bệnh.


22

Nhu cầu TKTTSK và việc thực hành
TKTTSK có sự khác nhau giữa các nhóm đối
tượng, tùy theo trình độ học vấn, kiến thức về

Tạp chí Y học dự phòng, Tập 30, số 2 - 2020


TKTTSK và tình trạng sức khỏe hiện tại của bản
thân. Điều nay tương đồng so với các nghiên
cứu trước đây tại Việt Nam và Mỹ [2, 3, 18, 19,
11]. Người có trình độ học vấn thấp và thiếu
kiến thức về TKTTSK thường có xu hướng
khơng chủ động TKTTSK và ưa thích sử dụng
các phương tiện truyền thơng sức khỏe truyền
thống (tivi, đài,..) hơn [11, 6]. Mặc khác, người
đang trong tình trạng sức khỏe đặc biệt thường
có nhu cầu và tiếp cận được với nhiều nguồn
thông tin sức khỏe, đặc biệt, một số nghiên cứu
khác cho rằng những người TKTTSK chủ động
có nhiều khả năng tự đánh giá tình trạng sức
khỏe của họ và có thể có xu hướng tìm kiếm
thơng tin sức khỏe từ những nguồn thơng tin có
độ tin cậy và chất lượng cao hơn (bác sĩ, nhân
viên y tế) [12, 20].

V. KẾT LUẬN
Mọi người đều có nhu cầu TKTTSK, trong
đó 77,0% đã từng thực hành hành vi này. Có

sự khác biệt trong nhu cầu TKTTSK giữa các
nhóm đối tượng khác nhau và về các chủ đề
khác nhau. Mặc dù, Internet đang dần trở thành
công cụ TKTTSK phổ biến (62,7%) nhưng mức
độ tin tưởng vẫn chưa cao. Người dân chưa tiếp
cận được với nguồn thông tin sức khỏe đáng tin
cậy và đáp ứng đúng nhu cầu của họ, chỉ 36,4%
được nhận thông tin từ cán bộ y tế trong khi đây
được đánh giá là nguồn thông tin chất lượng
nhất (75,3%). Các yếu tố ảnh hưởng đến hành
vi TKTTSK được ghi nhận bao gồm: Trình độ
học vấn, tình trạng sức khỏe bản thân và kiến
thức liên quan đến TKTTSK. Để nâng cao chất
lượng TKTTSK, cần thắt chặt công tác quản lý,
kiểm tra tính chính xác của thơng tin nói chung
và thơng tin sức khỏe nói riêng, nên chú trọng
phát triển các hoạt động truyền thông, giáo dục
sức khỏe tại hệ thống y tế tuyến cơ sở, đảm
bảo cho người dân có cơ hội tiếp cận được với
nguồn thơng tin sức khỏe chính thống và phù
hợp với nhu cầu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện nghiên cứu W&S. Quan điểm chăm sóc sức
khỏe của người dân Việt Nam, 2013.

2. Atkinson NL, Saperstein SL, Pleis J. Using the
internet for health-related activities: findings from
a national probability sample. J Med Internet Res.
2009; 11(1): e4.

3. Cline RJ, Haynes KM. Consumer health
information seeking on the Internet: the state of the
art, 2001. Health Educ Res. 2001; 16(6): 671-692.
4. Jacobs W, Amuta AO, Jeon KC. Health
information seeking in the digital age: An analysis
of health information seeking behavior among
US adults, 2017, J Am Coll Health. 2017; 3(1):
1302785.
5. Số liệu thống kê – Tổng cục dân số Việt Nam.
Truy cập lúc 23:20 ngày
12/03/2019.
6. Statista. 2019. Number of internet users in
Vietnam from 2017 to 2023 (in millions) URL:
/>369732/
internet-users-vietnam/[accessed 2017-11-29]
7. Lưu Ngọc Hoạt, Đinh Thanh Huề. Phương pháp
nghiên cứu khoa học sức khỏe, Nxb Đại học Huế.
2011: 62 – 81.
8. Duong TV, Aringazina A, et al. Measuring health
literacy in Asia: validation of the HLS-EU-Q47
survey tool in six Asian countries, 2017. J
Epidemiol. 2017 Feb; 27(2): 80-86.
9. Lambert S, & Loiselle C. Health information
seeking behavior. Qualitative Health Research.
2007; 17(8): 1006-19.
10. Piet-Pelon NJ, Rob U, Khan ME. Men in
Bangladesh, India and Pakistan: reproductive health
issues. Dhaka, J Reprod Health. 2011; 15(4): 24-32.
11. Giang KB, Allebeck P. Self-reported illness
and use of health services in a rural district of

Vietnam: findings from an epidemiological field
laboratory, 2003. Scand J Public Healt. 2003; 31
(suppl 62): 52-58.
12. Hoang Thuy Linh Nguyen, Keiko Nakamura, et
al. Association Between a Wider Availability of
Health Information and Health Care Utilization
in Vietnam: Cross-Sectional Study. 2017. J Med
Internet Res. 2017; 19(12): e405.
13. Okumura J, Wakai S, Umenai T. Drug utilisation and
self-medication in rural communities in Vietnam,
2002. Soc Sci Med. 2002; 54(12): 1875-1886.
14. Takahashi Y, Ohura T, Ishizaki T, et al. Internet
use for health-related information via personal
computers and cell phones in Japan: a crosssectional population-based survey. J Med Internet
Res. 2011;13(4): e110.
15. Fox S, Rainie L. Vital decisions: how Internet users
decide what information to trust when they or their
loved ones are sick, 2002 May 22. Washington,
DC: Pew Internet & American Life Project.

Tạp chí Y học dự phịng, Tập 30, số 2 - 2020

23


16. Murphy M. Women's Health Victoria. Access
to women's health information 5: research summary, 2003 URL: />post/access-to-womens-health-information-5-research-summary/
17. Wang MP, Viswanath K, et al. Social determinants of
health information seeking among Chinese adults in
Hong Kong, 2013. PLoS One. 2013; 8(8): e73049.

18. Gandhi M, Wang T. Rock Health. Digital
health consumer adoption, 2015 URL: https://
rockhealth.com/reports/digital-health-consumer-

adoption-2015/[accessed 2019-03-01]
19. Hesse BW, Nelson DE, et al. Trust and sources of
health information: The impact of the Internet and
its implications for health care providers: Findings
from the first Health Information National Trends
Survey. Archives of Internal Medicine. 2005; 165:
2618–2624.
20. Rains SA. Perceptions of traditional information
sources and use of the world wide web to seek
health information: findings from the health
information national trends survey, 2003. J
Health Commune. 2007; 12(7): 667-680.

HEALTH INFORMATION SEEKING BEHAVIOR AND
RELATED FACTORS AMONG ADULTS IN HUE CITY, VIETNAM
Nguyen Dac Quynh Anh, Nguyen Minh Tuan, Nguyen Ky Nhat Minh,
Tran Dinh Khanh Sy, Ngo Thi Dieu Huong
Hue University of Medicine and Pharmacy
Nowadays, health information seeking is
gradually becoming an indispensable demand
and playing a very important role in the social
life. Our study had 2 objectives: (1) To describe
Health Information Seeking Behavior (HISB)
and (2) To examine related factors influencing
HISB among study participants. This was a
cross-sectional study conducted from 10/2018

to 10/2019. Samples were 814 adults aged from
18 from 4 various wards in Hue City, Thua
Thien Hue province, Vietnam. Study indicated
that 77.0% of participants had needs and had
practiced HISB. Of these, merely 32.3% had
right knowledge about this behavior. Medical
staffs were considered as the most reliable
source of information (75.3%), but only 47.4%
of people had accessed to this channel. The

24

most popular source of information is Internet
(62.7%). Health information topics which were
highly sought include: signs of disease (78.6%),
treatment strategies (77.5%) and nutrition
(75.9%). The related factors affecting the
HISB of people were: education, self-reported
health status, doctor-reported health status
and knowledge about HISB. The demand for
health information of people is high. Relevant
ministries and agencies should launch more
positive policies for people to access the official
health information sources that are appropriate
for their health status.
Keywords: Health information seeking
behavior (HISB); adults; indiviual demand;
Vietnam

Tạp chí Y học dự phịng, Tập 30, số 2 - 2020




×