Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

le cuoi cua nguoi Viet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.67 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Lễ cưới người Việt</b>



<b>Phong Tục</b> – Trong đời sống hôn nhân của người Việt Nam, khi trai gái lấy nhau, người Việt gọi là <b>đám cưới</b>, <b>lễ cưới</b> hoặc gọn hơn
là <b>cưới</b>, gọi theo tiếng Hán-Việt là <b>giá thú</b>

. Đối với người Việt, lễ cưới là một trong bốn nghi lễ quan trọng và


được xã hội quan tâm nhiều hơn cả.



Mục lục



 1 Phong tục và lễ nghi thời phong kiến


 1.1 Quan niệm về hôn nhân


 1.2 Lễ nghi dân gian


 1.2.1 Lễ cưới dân gian


 1.3 Pháp chế


 1.4 Lễ nghi cung đình


 1.4.1 Hồng tử nạp phi


 1.4.2 Cơng chúa hạ giá


 2 Phong tục và lễ nghi ngày nay


 2.1 Lễ dạm ngõ


 2.2 Lễ Ăn hỏi


 2.3 Lễ cưới



 3 Những đám cưới đặc biệt
 4 Cưới hỏi trong thơ văn, âm nhạc


 4.1 Bài hát “Ngại ngùng”


 4.2 Bài thơ “Màu tím hoa sim


 4.3 Bài hát “Đám cưới trên đường quê”


 5 Hình ảnh


 6 Xem thêm


 7 Chú thích


 8 Sách đọc thêm


 9 Liên kết ngoài


Phong tục và lễ nghi thời phong kiến



Quan niệm về hôn nhân



Thời phong kiến, theo luân lý “tam cương ngũ thường”, con cái mà có cha khi nào cũng ở địa vị phụ thuộc, việc hôn nhân của con cái cha
mẹ có quyền độc đốn và “đặt đâu ngồi đấy”. Nếu con cái khơng bằng lịng với người vợ (hay chồng) mà cha mẹ chỉ định thì chỉ có cách bỏ
nhà ra đi. Chính sự khơng cần biết ái tình của con cái, chỉ cốt tìm được nơi “môn đăng hộ đối” là cha mẹ nhờ “mối lái” điều đình để đính
hơn nên đã xảy ra tệ tảo hôn [3]<sub> và tục phúc hôn </sub>[4]<sub>.</sub>


Người xưa quan niệm mục đích hơn nhân cốt duy trì gia thống cho nên việc hôn nhân là việc chung của gia tộc chứ không phải việc riêng


của con cái. Bởi vậy định vợ gả chồng cho con là quyền quyết định của cha mẹ. Nghĩa vụ của mỗi người đối với tổ tiên, dòng họ là phải
truyền giống về sau để “vĩnh truyền tơng tộc”, do đó ln lý cho người “vô hậu” là phạm điều bất hiếu rất lớn [5]<sub>. Việc hơn nhân khơng </sub>


những chỉ có ngun nhân huyết thống mà cịn có ngun nhân kinh tế. Người vợ không những phải sinh con đẻ cái nối dõi tơng đường mà
cịn phải làm lụng và coi sóc việc nhà cho gia đình nhà chồng.


Chế độ “đa thê, đa thiếp” cho phép đàn ơng được phép có nhiều vợ [6]<sub> mà khơng phải vì vợ chính khơng sinh con hay chỉ sinh con gái. Lấy </sub>


thiếp (còn gọi là vợ lẽ, vợ hai, vợ ba, nàng hầu…) không cần tổ chức lễ cưới [7]<sub> và vì người thiếp không phải là một phần tử trọng yếu trong </sub>


gia đình nên chồng hay vợ chính muốn đuổi khi nào cũng được [8]<sub>.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Trang phục truyền thống của cô dâu chú rể trong đám cưới xưa


Trước đây (và cả bây giờ) người Việt gọi lễ cưới là là hơn lễ. Theo giải thích của Đào Duy Anh, chữ “hôn” nguyên nghĩa là chiều hôm, theo
lễ tục xưa người ta làm lễ cưới vào buổi chiều tối [9]<sub>.</sub>


Dân gian coi cưới xin là một trong ba việc lớn của đời người (sự nghiệp, làm nhà và cưới vợ) khi nhấn mạnh trong câu ca dao: “tậu trâu
cưới vợ làm nhà…”


Ảnh hưởng văn hóaTrung Quốc, hơn nhân của người Việt xưa có sáu lễ chính. Để tiến đến lễ cưới, hai gia đình phải thực hiện những lễ
chính sau:


<b>Lễ nạp thái</b>: sau khi nghị hơn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp “nhạn” để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.


<b>Lễ vấn danh</b>: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con gái.


<b>Lễ nạp cát</b>: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc
thì thơi.



<b>Lễ nạp tệ</b> (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.


<b>Lễ thỉnh kỳ</b>: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới. Và sau cùng là


<b>Lễ thân nghinh</b> (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.


Lễ cưới dân gian



Lễ rước dâu tại miền Trung vào đầu thế kỷ 20.


Khi nhà trai xin cưới và nếu nhà gái thuận thì trả lời cho ơng bà mai. Sự trả lời này còn bao gồm việc thách cưới, nghĩa là nhà gái địi nhà
trai trong lễ đón dâu phải có những đồ lễ gì, bao nhiêu. Thách cưới, nhà gái thường đòi với số lượng lớn, yêu cầu thường là trầu rượu, cau,
trà, bánh trái, gạo, heo, đồ trang sức, y phục cho cô dâu và tiền mặt [10]<sub>.</sub>


Đúng ngày cưới, người ta chọn giờ “hoàng đạo” mới đi, thường là về chiều, có nơi đi vào chập tối. Dẫn đầu đám rước đàng trai là một cụ
già nhiều tuổi được dân làng kính nể vì tuổi tác, tư cách, địa vị xã hội, đóng vai chủ hôn.


Ở miền Bắc Việt Nam ngày xưa, tại nhà trai, người ta chờ đợi đám rước dâu về. Một quả lò than đốt hồng đặt trước ngưỡng cửa để chờ cô
dâu với nghĩa: lửa hồng sẽ đốt hết những tà ma theo ám ảnh cô dâu và sẽ đốt vía của tất cả những kẻ độc mồm độc miệng đã quở mắng
cô dâu ở dọc đường.


Cô dâu vào lễ gia tiên nhà chồng xong, ông bà cũng như bố mẹ chồng tặng cho cơ dâu món q, thường là tiền hoặc là đồ nữ trang.
Lễ tơ hồng được cử hành rất đơn giản. Bàn thờ thiết lập ngoài trời, bày lư hương và nến hay đèn, tế vật dùng xôi, gà, trầu, rượu.
Hai ngày sau lễ cưới, vợ chồng đưa nhau về thăm cha mẹ vợ với một số lễ vật, tùy theo tập tục địa phương bên vợ. Xưa lễ này gọi là “Nhị
hỷ”. Nếu nhà chồng ở cách xa quá, không về được trong hai ngày thì có thể để bốn ngày sau, gọi là “Tứ hỷ”.


Theo tục lệ vợ chồng đem lễ chay hoặc lễ mặn về nhà để cúng gia tiên, để trình bày với gia tiên và cha mẹ, cùng họ hàng việc cưới đã
xong xi tồn mãn.


Pháp chế




</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Năm 1864, vua Tự Đức cũng sai định rõ lại kễ lễ cưới xin của dân gian: “Từ lúc vấn danh đến khi xin cưới, cho kỳ hạn là 6 tháng, đều theo
tiết kiệm, không được quá xa xỉ” [12]<sub>.</sub>


Lễ nghi cung đình



Lễ cưới trong giới quý tộc, quan lại ở các triều đại phong kiến nhìn chung giống với tục cưới gả của Trung Hoa là căn cứ vào sáu bước (lục
lễ), có thể rút bớt hay kết hợp nhưng được sắp đặt cầu kỳ, tỷ mỉ, trang trọng và xa hoa hơn trong dân gian. Việc dựng vợ gả chồng hoàn
toàn do cha mẹ chủ trương và theo lối “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Hồng tử lấy vợ chính gọi là “nạp phi” và “nạp thiếp” khi lấy vợ thứ
(khi về nhà chồng, cô dâu được gọi là phủ phi hay phủ thiếp), và công chúa lấy chồng gọi là “hạ giá” (chú rể được phong Phị mã Đơ ).


Hồng tử nạp phi



Hoàng tử khi đến 15-18 tuổi sẽ được phong tước, cấp đất và tiền để lập phủ riêng, sau đó vua mới nghĩ đến việc cưới vợ cho con. Cô dâu
do chính vua kén chọn qua việc dị hỏi các vị đại thần, ai muốn gả con gái đến tuổi cho hồng tử. Khi có vị nhận lời, vua mới chuẩn bị hôn
lễ. Theo “Nghị định” năm Gia Long thứ 7 (1808), hôn lễ được cử hành qua các bước:


<b>Truyền mệnh</b>: vua cử hai đại thần lãnh cờ tiết đến nhà gái thông báo, đúng ngày đã định, cha mẹ cô gái vào cung nhận mệnh,
sau đó Khâm Thiên giám chọn ngày tốt để tiến hành hơn lễ.


<b>Nạp thái</b>: trước ngày nạp lễ, có một buổi thiết triều ở điện Cần Chánh để vua truyền cho biết ngày giờ hôn lễ và cử các quan
vào trong ban phụ trách việc hôn lễ này. Hai quan đại thần và một số người khác và vài mệnh phụ, quân lính bưng tráp thiếp và lễ vật
đến nhà gái. Lễ vật được đặt sẵn trên các án sơn son thếp vàng bao gồm: vàng, bạc, gấm, lụa, nữ trang, trầu, cau, trâu, bò, lợn, rượu.
Hòm thiếp đựng giấy ghi danh sách, số lượng vật phẩm và ngày giờ cử hành các lễ tiếp theo.


<b>Nạp trưng</b>: Theo ngày tốt đã chọn, nghi thức được tiến hành. Lần này, ngồi những vật phẩm như trên cịn có mũ áo, xiêm,
hài, kiệu, lọng và “tờ sách vàng” khắc bài dụ của vua. Một nữ quan đọc tờ sách, cô dâu ngồi vào ghế để nhận lạy mừng của mọi người.
Lễ xong, một bữa tiệc được nhà gái bày ra để khoản đãi những người tham dự, sau đó rước cơ dâu về phủ của hồng tử. Hai đại thần
về điện nạp cờ tiết phục mệnh. Hôm sau, cha mẹ của cô dâu phải vào cung để làm lễ tạ ơn (ông đến tiện điện và bà đến điện Khôn
Đức).


Khác với dân gian, nếu hồng tử muốn cưới nàng hầu thì nghi lễ cũng phải tiến hành tương tự. Theo cuốn “Văn hóa Huế xưa”, tác giả Lê
Nguyễn Lưu, phần nói về đời sống văn hóa cung đình(tập 3), trang 285-286 viết: Hồng tử lấy vợ gọi là nạp phi (đối với bà chính) và nạp
thiếp (đối với bà thứ). Cơ gái khi đã về làm dâu của vua (hoàng tức) được gọi là “phủ phi” hay “phủ thiếp”.


Công chúa hạ giá



Khi cơng chúa hạ mình xuống để lấy chồng thì người chồng được gọi là “thượng giá” và trở thành phò mã. Tuy nhiên, việc chọn phị mã
khơng hề đơn giản. Vua sai Bộ Lại, Bộ Binh lập danh sách 5 người là con cháu và chắt các công thần từ nhị phẩm trở lên, những chàng trai
này tất nhiên là không bị tàn tật, nhưng phải thông minh và đẹp. Một vị hoàng thân và một vị đại thần mà vợ chồng song tồn được cử làm
chủ hơn và chiếu liệu (lo sắp đặt mọi chuyện). Họ hội ý với nhau để cử người xứng đáng nhất và hợp tuổi với hoàng nữ trong bản kê, tâu
với vua vua sẽ khuyên son (quyết định).


Trong lịch sửtriều Nguyễn, có những vua như Minh Mạng hay Thiệu Trị, vì số hồng nữ q nhiều, con cháu cơng thần khơng đáp ứng đủ
nên nhiều người phải tìm cách trốn tránh, chạy chọt để khỏi bị ghi danh vì sợ mình lấy phải cơng chúa nhiều tuổi hay kém nhan sắc, mà đã
kết hơn với cơng chúa thì phải suốt đời “một vợ một chồng”.


Sau khi vua chọn, phò mã tương lai được vua ban tiền để tậu phủ và sắm vật dụng, trang phục đúng nghi thức, trong đó có một chiếc
thuyền bồng[13]<sub>, đồng thời cha mẹ phải vào lạy tạ ơn trên.</sub>


Khâm Thiên giám làm nhiệm vụ chọn ngày để tiến hành lục bộ (sáu lễ), nhà trai phải liên hệ để biết mà chuẩn bị, cũng có thể kết hợp một
ngày 2 đến ba lễ, cách quãng nhau.


<b>Lễ nạp thái và vấn danh</b>: gia đình phị mã sẽ đưa lễ vật vào cung, cúng tổ tiên công chúa và được chủ hôn mở tiệc khoản đãi.
Công chúa nhận vàng bạc và nữ trang.


<b>Lễ nạp trưng và nạp cát</b>: gia đình lại đưa lễ vật vào cung, sau đó hai bên tự tổ chức lễ cáo với tổ tiên mình về việc cưới hỏi.


<b>Lễ điện nhạn và thân nghinh</b>: trước đó, vua sai quan khâm mạng đến phủ đệ phò mã, bày giường thất bảo, màn tiên. Đúng
ngày giờ đã định, gia đình phị mã lễ vật vào cung, trong đó có một cặp ngỗng. Vị đại thần làm chủ hơn lập một phái đồn rước cơng

chúa về phủ phò mã.


Phẩm vật cưới về số lượng mỗi khi mỗi khác và thường là khá nặng. Vào năm 1833, lễ nạp thái được ghi nhận gồm: 20 lạng vàng, 100 lạng
bạc, 2 mâm trầu, 2 mâm cau; lễ vấn danh gồm: 1 con trâu, 2 con lợn, 2 hũ rượu; lễ nạp cát gồm: 4 tấm gấm, 10 tấm lĩnh màu, 10 tấm sa
màu; lễ nạp trưng gồm: 2 mâm trầu, 2 mâm cau, 2 hũ rượu; lễ thỉnh kỳ gồm: 1 con bò, 2 con dê, 3 hũ rượu; lễ điện nhạn gồm: 2 con chim
nhạn (được thay bằng ngỗng), 1 hộp kim chỉ, 100 đồng tiền cổ, 20 lạng vàng, 100 lạng bạc… Có quan nghèo khơng lo nổi nên vào
năm 1864, vua Thiệu Trị dụ rằng:“Đời xưa, vua Nghiêu gả 2 con gái cho Ngu Thuấn ở Vĩ Nhuế, chả nghe nói lễ cưới sang trọng. Hơn nữa,
đám cưới chỉ dùng 2 da hươu làm lễ, xưa kia vẫn nói thế. Nay gả hồng nữ cho con các đại thần, mà các đại thần thanh thận trung cần,
trẫm biết sẵn, vậy 6 lễ cưới, cho tuỳ theo cảnh nhà giàu nghèo mà sắm sửa, không nên ấn định lễ vật, chớ nên bày đặt quá nhiều. Vậy các
quan chủ hôn cần biết rõ.” [14]


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Một phơng nền trang trí đám cưới người Việt


Một nghi lễ rót tháp rượu theo phong tục phương Tây được
tổ chức tại nhà hàng


Nhà nước phong kiến Việt Nam, triều đại nhà Nguyễn chấm dứt sau Cách mạng tháng Tám (1945), cùng với sự hình thành của nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, đã có quy định như sau về hôn nhân:


<i>Việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con </i>
<i>cái, Xoá bỏ những tàn tích cịn lại của chế độ hơn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái, Cấm </i>
<i>tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, đánh đập hoặc ngược đãi vợ. Cấm lấy vợ lẽ…</i>


Dần dần, những quy định trên được thể chế hóa thành luật [15]<sub>.</sub>


Ở phương diện luật định, sau khi đăng ký kết hôn đôi trai gái được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, trong tâm thức và văn hóa dân tộc, lễ cưới
chứ khơng phải tờ hôn thú, mới là thời điểm để họ hàng, bè bạn và mọi người chính thức cơng nhận đơi trai gái là vợ chồng. Cũng vì vậy,
tại lễ cưới nhiều vấn đề xã hội diễn ra, khen chê của dư luận xã hội đều tập trung vào đó, “ma chê cưới trách” nhưng lại “ai chê đám cưới,
ai cười đám ma”. Một đám cưới theo nghi thức cổ truyền có thể vừa được khen, vừa bị chê. Người khen thì cho rằng thế mới là đám cưới
Việt Nam, thế mới không sợ sự du nhập của văn hóa bên ngồi, nhưng người chê thì lại nói rằng thế là rườm rà, lãng phí và luỵ cổ.


Tuy vậy, chính quyền khơng cấm việc tổ chức cưới hỏi theo phong tập tập quán xưa, mà chỉ ban hành “quy chế thực hiện nếp sống văn
minh trong việc cưới hỏi”, theo đó, quy định rằng: “các thủ tục có tính phong tục, tập qn như chạm ngõ, lễ hỏi, xin dâu cần được tổ chức
đơn giản và gọn nhẹ” và “việc cưới cần được tổ chức trang trọng vui tươi, lành mạnh phù hợp với phong tục, tập quán tốt đẹp của dân
tộc”.


Trình tự tiến đến lễ cưới của người Việt Nam, có thể có những cách thức, tên gọi khác nhau, đa số có những điểm chung:
 Đăng ký kết hôn: Lễ cưới ngày nay thường được tổ chức sau khi đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn.


 Chụp ảnh, quay phim: Ở một số thành phố lớn, cô dâu và chú rể thường đến một số địa điểm đẹp ngoài trời để chụp ảnh làm kỷ
niệm.


 Chuẩn bị vật phẩm hôn lễ, quà cưới, phòng cưới, tiệc cưới, quần áo, xe hoa…


 Phải chọn một người trung gian, đóng vai trị bắc cầu cho hai bên gia đình. Đó thường là người đứng tuổi, có uy tín, có kinh
nghiệm trong ăn nói,thường được gọi là Chủ hơn.[16]


<b>Lễ dạm ngõ</b>



Bài chi tiết: Dạm ngõ


Được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai đem lễ sang. Đồ lễ bắt buộc phải có là trầu, cau, rượu, chè, bánh, kẹo, nước uống… Phải có trầu cau
vì câu chuyện trầu cau trong cổ tích Việt Nam là tiêu biểu cho tình nghĩa vợ chồng, họ hàng ruột thịt. Miếng trầu là đầu câu chuyện, khơng
có trầu là khơng theo lễ. Lễ vật được dâng lên bàn thờ tổ tiên. Sau đó, nhà trai sẽ đem về phần lễ mà nhà gái đã lưu lại, được gọi là lại
quả.


<b>Lễ Ăn hỏi</b>



Bài chi tiết: Ăn hỏi


Hay còn gọi là lễ vấn danh, theo tục xưa là hỏi tên tuổi cô gái, nhưng ngày nay cha mẹ đôi bên đã biết biết rõ rồi. Cô gái nhà nào đã nhận


lễ vấn danh coi như đã có nơi, có chốn. Sau ngày lễ ăn hỏi, phải có báo hỉ, chia trầu. Nhà gái trích trong lễ vật nhà trai đưa đến một lá
trầu, một quả cau, một gói trà nhỏ, một cái bánh cốm, hoặc vài hạt mứt. Tất cả gói thành hộp hay phong bao giấy hồng, mang đến cho
các gia đình họ hàng, bạn hữu của nhà gái. Nhà trai cũng báo hỉ, nhưng khơng phải có lễ vật này mà chỉ cần thiếp báo hỉ. Cũng trong lễ ăn
hỏi, hai họ định luôn ngày cưới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Lễ gia tiên tại nhà trai


<b>Lễ nạp tài</b>: Là ngày nhà trai đem sính lễ sang nhà gái. Đồ sính lễ gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn, quần áo và đồ trang sức cho
cô dâu. Ý nghĩa của lễ nạp tài là nhà trai góp với nhà gái chi phí cỗ bàn, cho nhà gái và cơ dâu biết mọi thứ đã chuẩn bị sẵn. Với đồ nữ
trang cho cơ dâu làm vốn, cơ có thể n tâm xây dựng tổ ấm mới, chứ không đến nỗi sẽ gặp cảnh thiếu thốn.


<b>Lễ xin dâu</b>: Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đồn đón dâu sẽ đến.


Tục chăng dây: ở một số đám cưới, nhà gái bố trí vài em nhỏ bụ bẫm, xinh xắn, mặc áo đỏ chăng dây trước của nhà


gái. Khi nhà trai đến, một trong các em nhỏ chạy về báo cho nhà gái biết. Nhà trai chuẩn bị một ít kẹo để phân phát cho lũ trẻ
chăng dây này, khi đã nhận được kẹo bọn chúng sẽ rút dây để đoàn nhà trai đi vào nhà gái.


<b>Lễ rước dâu</b>: Đoàn rước dâu của nhà trai đi thành một đồn, có cụ già cầm hương đi trước, cùng với người mang lễ vật. Nhà gái
cho mời cụ già thắp hương vái trước bàn thờ rồi cùng ra đón đồn nhà trai vào. Cô dâu cùng với chú rể lạy trước bàn thờ, trình với tổ
tiên. Sau đó hai người cùng bưng trầu ra mời họ hàng. Bố mẹ cô dâu tặng q cho con gái mình. Có gia đình cũng lúc này bày cỗ bàn
cho cả họ nhà gái chung vui. Khách nhà trai cũng được mời vào cỗ. Sau đó là cả đồn rời nhà gái, để đưa dâu về nhà chồng. Họ nhà
gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.


<b>Rước dâu vào nhà</b>: đoàn đưa dâu về đến ngõ. Lúc này, bà mẹ chồng cầm bình vơi, tránh mặt đi một lúc, để cô dâu bước vào
nhà. Hiện tượng này được giải thích theo nhiều cách. Thường người ta cho rằng việc làm này có ý nghĩa khắc phục những chuyện cay
nghiệt giữa mẹ chồng và nàng dâu sau này.


<b>Lễ tơ hồng</b>: khi hai họ ra về, một số người trừ người thân tín ở lại chứng kiến cô dâu chú rể làm lễ cúng tơ hồng. Người ta cho
rằng vợ chồng lấy được nhau là do ông Tơ bà Nguyệt trên trời xe duyên cho. Cúng tơ hồng là để tạ ơn hai ông bà này. Lễ cúng đơn

giản, ông cụ già cầm hương lúc đón dâu, hoặc ơng cụ già cả nhất của họ hàng làm chủ lễ. Hai vợ chồng lạy lễ tơ hồng rồi vái nhau.


<b>Trải giường chiếu</b>: bà mẹ chồng, hoặc một bà cao tuổi khác, đông con nhiều cháu, phúc hậu, hiền từ, cô dâu chú rể vào phịng
tân hơn, bà sẽ trải sẽ trải đơi chiếu lên giường ngay ngắn, xếp gối màn cẩn thận…


<b>Lễ hợp cẩn</b>: đây là buổi lễ kết thúc đám cưới tại nhà trai. Trước giường có bàn bày trầu rượu và một đĩa bánh phu thê. Ông cụ
già đứng lên rót rượu vào chén rồi mời đơi vợ chồng cùng uống.


<b>Tiệc cưới</b>: dù đám cưới lớn hay nhỏ, cũng phải có tiệc cưới. Đặc biệt là ở nơng thơn, tính cộng đồng xóm giềng, làng xã, họ
hàng đang cịn mạnh thì tiệc cưới là một dịp tốt để củng cố tính cộng đồng ấy. Ở thành phố, người ta thường tổ chức tiệc cưới ngay sau
lễ thành hôn, cho nên nhiều khi cái “tục” của sự ăn lấn át mất cái “thiêng” của lễ cưới. Người ta đến ăn, ngồi cùng bàn ăn là những
người không quen biết, ăn sao cho đúng giờ. Tiệc cưới có thể tổ chức nhà gái (trước hôm cưới) và nhà trai (trong ngày cưới); nhưng
cũng có thể hai nhà tổ chức chung thành một tiệc.


Lễ cheo: một số vùng của Việt Nam cịn có lễ cheo. Lễ cheo có thể tiến hành trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một


ngày. Lễ cheo là nhà trai phải có lễ vật hoặc kinh phí đem đến cho làng hay cho xóm có con gái đi lấy chồng. Lễ cưới là để họ hàng
cơng nhận, lễ cheo là để xóm làng tiếp thu thêm thành viên mới, tế bào mới của làng.


<b>Lễ lại mặt</b>: (còn gọi là <b>nhị hỷ</b> hoặc tứ hỷ), sau lễ cưới (2 hoặc 4 ngày), hai vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà cha mẹ vợ mang theo lễ
vật để tạ gia tiên. Lễ vật cũng có trầu, xơi, lợn. Bố mẹ vợ làm cơm để mời chàng rể và con gái mình. Ở một số trường hợp nếu xảy ra
chuyện gì mà nhà trai khơng bằng lịng sau đêm hợp cẩn, thì lễ nhị hỉ lại có những chuyện khơng hay, nhưng trường hợp này rất hiếm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Thủ tục trong nhà thờ


<b>Đám cưới của tín đồ tơn giáo:</b>



Phật giáo: Phật chưa hề khuyến khích chuyện lứa đơi; nhưng giáo lý Phật có dạy về bổn phận của vợ đối với chồng,


chồng đối với vợ, con cái đối với cha mẹ, cha mẹ đối với con cái. Nếu hai Phật tử là người đã quy y, hoặc chưa quy y, nhân ngày


cưới, sắm sửa lễ vật nhang đèn, hoa quả đến chùa nhờ Thầy làm lễ chú nguyện cho hai Phật tử và có sự chứng kiến của hai họ.
Quý Thầy sẽ tụng kinh, trì chú, đọc lời dạy của Ðức Phật theo như trong tinh thần của “kinh Thiện Sanh”. Sau đó hai người đọc lời
phát nguyện trước Tam bảo và sau cùng là lễ trao nhẫn cho nhau. Sau phần tụng kinh lễ Phật, cô dâu chú rể đến lễ ông bà và cảm
ơn những người tham dự cũng như đón nhận những lời chúc tụng hoặc quà cưới và cuối cùng là tiệc trà Ðạo vị[17]<sub>.Lễ cưới tổ chức </sub>


theo kiểu này gọi là “Lễ Hằng Thuận”. Người khởi xướng nghi lễ này là ơng Đồ Nam Tử (1883-1940). Ơng tên thật là Nguyễn Trọng
Thuật quê tỉnh Hải Dương.Lễ Hằng Thuận đầu tiên là Lễ cưới của ơng Hồng Văn Tâm và bà Lê Thị Hoành ở chùa Từ Đàm (Huế).
Năm 1971, hồ thượng Thích Thiện Hoa chính thức dùng hai chữ “Hằng Thuận” để chỉ nghi lễ kết hôn trước cửa Phật[18]<sub>.</sub>


Công giáo: Lễ cưới được gọi là “Bí tích Hơn phối” và được tổ chức ở nhà thờ. Mọi nghi lễ đều do linh mục của nhà thờ


lo liệu (thường thì có nhiều quy định trước khi tổ chức lễ cưới). Lễ cưới ở nhà thờ cũng có nghi lễ đeo nhẫn cưới cho chú rể và cô
dâu. Nếu chú rể và cô đâu đã đeo nhẫn cưới ở nhà thì khi đến nhà thờ, linh mục cũng lặp lại nghi thức đeo nhẫn. Ở hải ngoại, nếu
lễ cưới được cử hành ở nhà thờ thì nhà thờ đã thừa lệnh của chính quyền địa phương để làm giấy hôn thú cho chú rể cô dâu ngay
tại nhà thờ trong khi làm lễ cưới. Nhưng ở Việt Nam, vì khơng có quy chế này nên cô dâu và chú rể bắt buộc phải có Giấy đăng ký
kết hơn từ chính quyền thì mới được tổ chức lễ cưới.[19]<sub>.</sub>


Cao Đài: Chiếu theo Tân Luật Cao Đài điều thứ 6 đến thứ 10 dạy sự chọn hôn trong người đồng Đạo, trừ khi nào người


ngồi ưng thuận nhập mơn thì mới được kết làm giai ngẫu.


Tám ngày trước Lễ Sính hơn, chủ hôn trai phải dán bố cáo nơi Thánh Thất sở tại cho trong bổn đạo hay biết, sau khỏi điều trắc trở.
Làm Lễ Sính hơn, hai đàng trai và gái phải đến Thánh Thất hoặc Đền Thánh mà cầu lễ Chứng Hôn (Lễ Hôn Phối).


<b>Phương pháp thực hành:</b>


Tất cả người trong Đạo khi kết thành hôn nhơn cho con cháu, phải tuân hành theo Tân Luật như sau:
1. Trước hết phải chọn hôn là người trong Đạo, như điều thứ 6 của Tân Luật.


2. Trước ngày Sính hơn, phải đăng bát nhựt tại Thánh Thất sở tại, như điều thứ 7 của Tân Luật.



3. Khi làm lễ cưới, gả, hai đàng trai và gái phải xin phép lập lễ Hôn Phối tại Thánh Thất hoặc Đền Thánh theo điều thứ 8 của Tân Luật.
4. Cấm không được cưới hầu thiếp, trừ khi nào khơng con nối hậu thì đặng phép cưới hầu thiếp nhưng chính người chánh thê đứng cưới
mới đặng (Điều thứ 9 Tân Luật).


5. Cấm người trong Đạo khơng được để bỏ nhau, trừ khi ngoại tình hay thất hiếu với công cô (Điều thứ 10 Tân Luật).


<b>Cưới chạy tang: </b>



 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định “Việc để tang khơng cản trở việc kết hôn” nhưng việc cưới chạy tang vẫn có thể


xảy ra. Cưới chạy tang tức đám cưới cử hành trước đám tang. Trường hợp cha mẹ hay người thân (thuộc ngũ hạng tang) mất thình lình
mà hai đưa trẻ đã hứa hơn hay đính hơn, nếu phải chờ cho mãn tang thì bất tiện nên hai nhà thu xếp để cho làm đám cưới trước và sau
đó mới cử hành tang lễ. Lễ cưới cũng đủ các giai đoạn nhưng giản lược đi nhiều.


<b>Đám cưới tập thể</b>

:



 Là hình thức tuy một lễ cưới nhưng cho nhiều cặp cơ dâu chú rể.[20]


 <b>Hơn nhân có yếu tố nước ngoài</b>: là một trào lưu mới khi nền kinh tế đi vào thời kỳ đổi mới của một bộ phận phụ nữ, nhằm có


điều kiện di cư hoặc cải thiện đời sống kinh tế gia đình. Yếu tố nước ngồi có thể là kết hơn với người nước ngoài da trắng, Việt Kiều
hoặc về sau là người dân các nước quanh vùng như người Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore. Một số vùng quê đồng bằng
sơng Cửu Long đã có hiện tượng bắt chước nhau cùng lấy chồng ngoại để giúp cha mẹ, phần lớn họ là những phụ nữ thiếu học vấn,
khơng rành tiếng nước ngồi, phong tục nơi sắp đến và không biết cách kêu cứu khi bị ngược đãi. Thông qua các công ty mai mối hôn
nhân một người đàn ông độc thân từ 20 đến 70 tuổi chỉ cần một cú điện thoại, một số tiền cọc 1.000 đơ la Singapore là có thể lựa chọn
trong một số đông phụ nữ trẻ Việt Nam được trưng bày trong các “bể cá”[21]<sub>. Đã có một số cơ dâu vùng quê bị chồng hoặc gia đình </sub>


chống ngược đãi, hành hạ, đánh chết sau một thời gian ngắn kết hôn với người ngoại quốc xa lạ vừa mới được môi giới thông qua một
đám cưới tập thể ở thành phố rồi bỏ nước ra đi làm dâu nơi xứ người.[22]



<b>Lễ Tun hơn</b>

:



 Hay là cịn gọi là Lễ Tun bố là lễ cưới khơng theo trình tự hỏi, cưới ở trên mà Lễ cưới và Ăn hỏi nhập chung lại thành một gọi là


đám cưới một lễ[23]<sub>. Trước đây hình thức này rất phổ biến trong quân đội.</sub>


Cưới hỏi trong thơ văn, âm nhạc



Bài hát “Ngại ngùng”



Trong bài hát “Ngại ngùng” có câu hát nói đến đám rước dâu:


Mơ thầm một sáng mùa vinh quang. Đám cưới dù khơng sang, nhưng lịng ai thấy đẹp niềm tin
Có đàn em bé, đi theo chàng rể áo hoa tươi màu. Cơ dâu đàng sau, đứng nhìn buồng cau
Em ơi đi mau, nghe lòng thương mến, cớ sao em ngại ngùng


Bài thơ “Màu tím hoa sim”


Trong bài thơ “Màu tím hoa sim” của nhà thơ Hữu Loan:


Tơi người Vệ-Quốc-qn
xa gia đình


u nàng


như tình u em gái
Ngày hợp hơn


nàng khơng địi may áo mới
Tơi mặc đồ qn nhân



đơi giày đinh bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Tôi ở đơn vị về
cưới nhau xong là đi.


Bài hát “Đám cưới trên đường quê”


Trong bài hát “Đám Cưới Trên Đường Q” của Hồng Thi Thơ:


</div>

<!--links-->
Lịch Sử Mở Rộng Lãnh Thổ Của Người Việt
  • 8
  • 766
  • 8
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×