Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố vinh với phát triển du lịch nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.23 KB, 46 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Bảo tàng như một chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Đến với bảo
tàng, đứng trong một căn phòng nhỏ bé nhưng mở ra trước mắt ta một không
gian rộng lớn, một phần của ký ức, giúp cho mỗi người tiếp cận rõ hơn các giai
đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, nhận thức được văn hóa, xã hội thời đã qua.
Từ đó, giúp chúng ta thêm tự hào, thêm yêu mảnh đất mình ln gắn bó.
Ngày nay, bảo tàng có sự biến đổi lớn cả về quy mô lớn nhỏ, về mục đích,
về chức năng và nhiệm vụ để góp phần cho sự phát triển của xã hội và phục vụ
nhu cầu văn hóa của con người. Hơn thế nữa, trong những năm gần đây, Đảng
và Nhà nước ngày càng quân tâm hơn đến vấn đề đầu tư, xây dựng và phát triển
hệ thống bảo tàng trong cả nước. Bảo tàng khơng chỉ có ý nghĩa về văn hóa,
giáo dục mà nó cịn trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn của Việt
Nam.
Trong khi Bảo tàng chứng tích chiến tranh, Bảo tàng phụ nữ Việt Nam,
Bảo tàng dân tộc hoc Việt Nam lọt vào tốp 25 bảo tàng hấp dẫn nhất Châu Á
( theo bình chọn của trang wed du lịch TripAdvisor) mang lại niềm vui cho công
chúng yêu bảo tàng; là địa chỉ thu hút nhiều khách tham quan và là đối tượng
hấp dẫn cho các công ty du lịch khai thác thì bảo tàng ở Nghệ An vẫn “ đóng
cửa cài then”, vẫn “ say ngủ” trong sự chờ đợi của bao lớp người.
Ở Nghệ An có 3 bảo tàng lớn: Bảo tàng Quân khu 4, Bảo tàng Xô Viết
Nghệ Tĩnh và Bảo tàng tổng hợp Nghệ An, là những bảo tàng có tiềm năng rất
lớn để phát triển du lịch.
Bảo tàng Quân khu 4- địa chỉ đỏ, nơi minh chứng cho cuộc kháng chiến
trường kỳ, cho sức mạnh quật cường của quân và dân Quân khu 4 nói riêng và
cả nước nói chung.
Bảo tàng Xơ Viết Nghệ Tĩnh- là một bảo tàng lưu niệm sự kiện lịch sử
trọng đại, được thành lập năm 1960, sớm hơn cả bảo tàng Hồ Chí Minh, bảo
tàng Phụ nữ Việt Nam,…
1



Bảo tàng tổng hợp Nghệ An- được xây dựng ngay trên mảnh đất Nghệ
An, khúc ruột miền Trung phải gánh chịu cái nắng cái gió gay gắt, bao khó khăn
vất vả. Cũng từ đây hun đúc nên con người anh dũng, kiên cường, chịu thương
chịu khó, các nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc như cụ Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, Hồ Chí Minh, Phạm Hồng Thái,…cùng bao truyền thống tốt đẹp,
nơi lưu giữ những giá trị riêng độc đáo, tất cả đều được tái hiện rõ nét qua các
không gian trưng bày của bảo tàng tổng hợp Nghệ An.
Nhưng một câu hỏi lớn đặt ra ở đây là “ Vì sao đến nay, hệ thống bảo tàng
ở Nghệ An vẫn chưa thu hút được khách tham quan, vẫn tiến từng bước “ chậm
chạp? ”.
Là một người con của mảnh đất xứ Nghệ, cũng là một sinh viên đang theo
học ngành du lịch, chun ngành văn hóa, tơi mạnh dạn chọn đề tài: “ Hệ thống
bảo tàng trên địa bàn thành phố Vinh với phát triển du lịch Nghệ An” làm tiểu
luận của mình.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm gần đây, xu thế hồ bình, hợp tác ngày càng trở thành
xu thế chủ đạo trong các mối quan hệ hợp tác giữa các nước trên thế giới và khu
vực. Đảng và nhà nước ta đã từng bước quan tâm đầu tư, tạo điều kiện cho
ngành du lịch phát triển để hoà nhập với các hoạt động du lịch trên thế giới,
trong đó có lĩnh vực bảo tàng.
Nghệ An từ lâu được biết đến là mảnh đất địa linh nhân kiệt, giàu bản sắc
văn hoá và truyền thống. Hiện nay, Nghệ An có trên 1000 di tích lịch sử văn
hố, trong đó có gần 150 di tích lịch sử văn hố đã được xếp hạng. Nghệ An
khơng chỉ giàu sản phẩm văn hố vật thể mà cịn rất phong phú văn hố phi vật
thể có sức hấp dẫn cuốn hút khách du lịch - đó là những nét văn hoá dân gian
phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc. . Đây là điều kiện thuận lợi để du lịch
Nghệ An khai thác và phát huy những giá trị truyền thống của quê hương. Bên
cạnh đó hệ thống bảo tàng ở Nghệ An có tiềm năng du lịch rất lớn nhưng vẫn
chưa được coi trọng việc khai thác để góp phần phát triển du lịch của tỉnh nhà.

2


Từ trước tới nay đã có nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến
vấn đề bảo tàng và đưa ra nhiều kết quả nghiên cứu khác nhau. Nhưng chủ yếu
họ chỉ mới chú trọng các bảo tàng lớn như bảo tàng Hồ Chí Minh, bảo tàng Dân
tộc học Việt Nam, bảo tàng Chứng tích chiến tranh, …để làm đối tượng khai
thác, tìm hiểu. Đối với bảo tàng ở Nghệ An, mà cụ thể hơn là hệ thống bảo tàng
trên địa bàn thành phố Vinh vẫn chưa được đưa ra tìm hiểu một cách sâu sắc, cụ
thể. Có chăng chỉ là các bài báo viết về các bảo tàng riêng lẻ đăng trên báo hay
các bài viết in trong các cuốn sách viết về Nghệ An ( ví dụ: Nghệ An- di tích,
danh thắng). Do vậy, với đề tài này, nó sẽ là đề tài đầu tiên đi sâu tìm hiểu hoạt
động của hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Vinh cũng như thực trạng
phát triển của nó, để tìm ra hướng đi phù hợp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là toàn bộ các nội dung hoạt động liên
quan đến 3 bảo tàng trên địa bàn thành phố Vinh, chủ yếu là lịch sử hình thành
và phát triển của bảo tàng, thực trạng phát triển, thu hút khách tham quan, phục
vụ du lịch,…Bao gồm: Bảo tàng Quân khu 4, Bảo tàng Xô Viêt Nghệ Tĩnh và
Bảo tàng Tổng hợp Nghệ An.
- Bảo tàng Quân khu 4, tại 189- Lê Duẩn- thành phố Vinh- Nghệ An
- Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh, tại số 6 - đường Đào Tấn- thành phố VinhNghệ An.
- Bảo tàng Tổng Hợp Nghệ An, tại số 7- đường Đào Tấn- thành phố
Vinh- Nghệ An.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian của đề tài là ba bảo tàng ở thành phố Vinh- Nghệ
An: bảo tàng Quân khu 4, bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh và bảo tàng tổng hợp
Nghệ An.
- Phạm vi thời gian: chủ yếu khai thác hoạt động của bảo tàng trong giai

đoạn từ năm 2000 đến nay( đặc biệt số liệu thống kê từ năm 2010 đến nay).
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
3


* Nguồn tài liệu
Để hồn thành bài tiểu luận, tơi chủ yếu sử dụng nguồn tài liệu thành văn
là các sách chuyên ngành về bảo tàng tại thư viện, các cuốn sách lưu hành nội
bộ tại bảo tàng Quân khu 4, bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh, bảo tàng tổng hợp
Nghệ An. Đặc biệt các thông tin, tài liệu thông qua mạng internet. Bên cạnh đó,
tơi đã có một thời gian đi thực địa, điền dã tại ba bảo tàng này để thu thập số liệu
thực tế, đồng thời có các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và trao đổi với các cán bộ làm
việc tại bảo tàng để tìm hiểu những thông tin mới, cần thiết.
* Phương pháp nghiên cứu
- Để thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu: khảo
sát thực địa (quan sát, ghi chép, phỏng vấn, chụp ảnh…) để thu thập tài liệu.
- Đề tài dùng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp và
phương pháp xã hội học (tiến hành lấy ý kiến của 100 học sinh, sinh viên các
trường Trung học cơ sở, Phổ thông trung học, Cao đẳng và Đại học trên địa bàn
thành phố Vinh để biết được thực tế tham quan bảo tàng và nhu cầu của họ khi
tham quan 3 bảo tàng: bảo tàng Quân khu 4, bảo tàng Xô Viết Nghệ tĩnh và bảo
tàng Tổng hợp Nghệ An). Ngồi ra, tơi cịn có những câu hỏi phỏng vấn sâu
dành cho giám đốc, phó giám đốc và những nhân viên làm việc tại bảo tàng này.
5.Đóng góp của đề tài
Đề tài Hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Vinh với phát triển du
lịch Nghệ An ” khá mới mẻ, nhưng những vấn đề được nêu ra trong dó khơng
cịn xa lạ với những bạn đọc u thích ngành bảo tàng, muốn tìm hiểu về bảo
tàng.
Là sinh viên ngành du lịch, được tiếp cận với bảo tàng thơng qua lĩnh vực
văn hố du lịch, tơi mong muốn góp phần nhỏ bé của mình cùng các nhà khoa

học, các nhà quản lý bảo tàng, các chuyên gia trong lĩnh vực bảo tàng, các công
ty du lịch giúp các bạn có cái nhìn tổng quan về bảo tàng ở thành phố Vinh từ
lịch sử hình thành, phát triển; vị trí, quy mơ; chức năng, nhiệm vụ đến cơ cấu tổ
chức và nội dung trưng bày. Những mặt đã làm được cũng như thực trạng, mặt
hạn chế của các bảo tàng này. Đồng thời, nhận thức rõ tầm quan trọng của bảo
4


tàng trong đời sống kinh tế- xã hội nói chung và du lịch nói riêng. Từ đó, đưa ra
các giải pháp phát triển dựa trên tiềm năng vốn có của nó, nhất là thu hút khách
tham quan đến với bảo tàng. Và đây cũng là cơng trình nghiên cứu đầu tiên, nó
sẽ giúp ích cho cơng việc của tơi sau này.
6.Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của tiểu luận được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Khái quát hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Vinh
Chương 2: Thực trạng hoạt động và thu hút khách tham quan ở hệ thống
bảo tàng trên địa bàn thành phố Vinh
Chương 3: Một số giải pháp phát triển và thu hút khách tham quan bảo
tàng trên địa bàn thành phố Vinh

5


NỘI DUNG
Chương 1:
KHÁI QUÁT HỆ THỐNG BẢO TÀNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ VINH
Trên địa bàn thành phố Vinh hiện có 3 bảo tàng lớn: Bảo tàng quân khu
4, bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh và bảo tàng Tổng hợp Nghệ An. Đây là nơi lưu

giữ những kỷ vật, hiện vật có giá trị to lớn minh chứng cho truyền thống yêu
nước của nhân dân ta qua các thời kỳ lịch sử, có ý nghĩa quan trọng trong giáo
dục thế hệ trẻ, khơi dậy niềm tự hào dân tộc.
1.1. Bảo tàng Quân khu IV
1.1.1.Lịch sử hình thành
Từ một số hoạt động triển lãm, trưng bày hiện vật gốc mang tính chất bảo
tàng trong kháng chiến chống Pháp và trong những năm đầu cuộc kháng chiến
chống Mỹ, đến ngày 22/12/1966, bảo tàng Quân khu 4 chính thức được thành
lập và đi vào hoạt động.
Ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh phá hoại ác liệt của Mỹ, điều kiện
bom đạn ác liệt, bảo tàng đã nhiều năm phải sơ tán trong nhà dân. Tuy vậy, trước
tinh thần khơng ngại khó, ngại khổ, quyết tâm hồn thành nhiệm vụ, thì cán bộ,
nhân viên cùng chiến sỹ quân khu vẫn kiên cường bám trụ, vừa bền bỉ đi vào các
trận địa để sưu tầm hiện vật, tư liệu. Đồng thời, tích cực tìm tịi, học hỏi để tổ
chức được hàng tram cuộc trưng bày , triển lãm dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trong đó, đã có các cuộc trưng bày lưu động ngay tại trận địa để kịp thời cổ
động, tuyên truyền, cổ vũ chiến đấu trên các mặt trận.
Trải qua quá trình phát triển lâu dài, bảo tàng đã tích lũy đươc nhiều kinh
nghiệm trên tất cả các mặt. Đến nay, bảo tàng đã được Bộ văn hóa- thể thao và
du lịch xếp hạng là bảo tàng hạng 2 trong hệ thống bảo tàng quốc gia Việt Nam.
Lịch sử hình thành và phát triển của bảo tàng có thể chia làm 3 giai đoạn
chính sau:
1.Một số hoạt động tiền thân bảo tàng Quân khu 4 trong kháng chiến
chống Pháp và những năm đầu chống Mỹ ( 1948- 1965).
6


2.Bảo tàng Quân khu 4 ra đời, xây dựng và trưởng thành trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( 1966-1975).
3.Bảo tàng Quân khu 4 trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa ( 1976-nay).
1.1.2.Vị trí và quy mơ
*Vị trí
Qn khu 4 là một địa bàn chiến lược quan trọng về chính trị, quân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội.
Xuất phát từ yêu cầu và thực tiễn của cách mạng là cần lưu giữ, khôi phục
và tái hiện một cách sinh động, trung thực truyền thống vẻ vang , lịch sử xây
dựng, chiến đấu hào hùng, oanh liệt của quân và dân Quân khu 4. Công tác bảo
tàng đã sớm được Đảng ủy- Bộ tư lệnh quân khu quan tâm, nhận thức đầy đủ và
coi đó là một “cơng tác có vị trí đặc biệt quan trọng và hết sức cấp thiết”.
Bảo tàng đã được thành lập và xây dựng tại số 189- Lê Duẩn- thành phố
Vinh- Nghệ An. Nó từng bước được cải tạo và xây dựng khang trang hơn đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
*Quy mơ
Tại bảo tàng, phần diện tích mặt bằng của 6 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế chiếm khoảng 2.180m2. Phần
diện tích trưng bày trong bảo tàng chiếm khoảng 2.000m2, còn lại là kho bảo
quản và các hoạt động văn hố khác gần 2.500m2.
Ngồi ra, bảo tàng cịn tổ chức trưng bày lưu động tại các địa phương trên
địa bàn 6 tỉnh từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ
Chức năng: Bảo tàng thực hiện đầy đủ các chức năng sau : chức năng nghiên
cứu khoa học; chức năng giáo dục tuyên truyền; chức năng bảo vệ, bảo quản di
sản văn hóa; chức năng tài liệu hóa khoa học; chức năng thơng tin, giải trí và
thưởng thức.
Nhiệm vụ: Nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê lưu giữ tư liệu và hiện vật liên quan
đến sự ra đời, trưởng thành của quân dân Quân khu 4 .
7



1.1.4. Cơ cấu tổ chức
BB
na
kknn
m
kg
bi

qm

đ

c

a
ii

ểể

ê

,

n

Trong đó:

u

- Ban giám đốc gồm: 2người.

- Ban kiểm kê, bảo quản gồm: 6 người.
- Ban trưng bày, tuyên truyền gồm: 7 người
- Ban hành chính gồm: 4 người.

1.1.5. Nội dung trưng bày
Nội dung trưng bày chính của bảo tàng được thể hiện ở phần trưng bày
ngoại thất và trưng bày nội thất.
a,Trưng bày ngoại thất
Phần trưng bày này được thực hiện trên một khuôn viên rộng 800m 2 với
những hiện vật thể khối lớn và các tác phẩm nghệ thuật.
* Những hiện vật có thể khối lớn:
+ Nhóm pháo cao xạ: có 5 khẩu
+ Nhóm pháo mặt đất: có 5 khẩu.
+ Nhóm bệ phóng và tên lửa SAM-2 của Đoàn 236 đã bắn rơi chiếc máy
bay B52 đầu tiên trên miền Bắc tại Quảng Bình năm 1968.
+ Nhóm máy bay: có 2 chiếc.
+ Nhóm xe máy: có 2 chiếc.
+ Nhóm chiến lợi phẩm: có 3 hiện vật.
* Các tác phẩm nghệ thuật
Bao gồm 7 tác phẩm:
- 6 bức phù điêu ( 2 mặt) thể hiện những sự kiện tiêu biểu của lực lượng
vũ trang nhân dân 6 tỉnh Quân khu IV qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ.
8


- Tượng Bác Hồ.
Ngồi ra, bảo tàng cịn có các hạng mục cơng trình phục vụ khách tham
qn như: hệ thống bồn hoa, cây cảnh, hệ thống đèn chiếu sáng, cờ tổ quốc, cờ
Đảng, khẩu hiệu, băng rôn,..

b, Phần trưng bày nội thất: có nhà trưng bày chính và nhà tưởng niệm,
trưng bày di vật liệt sỹ.
*Nhà trưng bày chính
Nhà trưng bày chính có diện tích 1800m 2 với 925 hiện vật gốc khối, 572
tấm ảnh các cỡ, 114 tác phẩm nghệ thuật để minh họa, gồm 5 đề mục:
Đề mục thứ nhất: Phòng khánh tiết- sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh; các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội đối với quân và dân
Quân khu IV.
Diện tích trưng bày là 157m2, tỉ lệ 8,7 %.
Gồm 5 đề tài: có 93 hiện vật, 63 ảnh, 10 tác phẩm nghệ thuật.
Đề mục thứ hai: Quân khu 4 vị trí địa bàn chiến lược về quốc phịng,
truyền thống vẻ vang ( từ xưa đến cách mạng tháng 8 năm 1945). Diện tích
trưng bày 104 m2 tỷ lệ 6,0%.
Gồm 2 đề tài: có 62 hiện vật, 66 ảnh và 9 tác phẩm nghệ thuật.
Đề mục thứ 3: Liên khu 4 trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược ( 1946- 1954).
Diện tích trưng bày 245m2, tỷ lệ 13,6%.
Gồm 4 đề tài: 118 hiện vật, 114 ảnh và 21 tác phẩm nghệ thuật.
Đề mục thứ tư: Quân khu 4 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1955- 1975).
Diện tích trưng bày 631m2, tỷ lệ 35%, chia làm 2 giai đoạn.
Tổng số hiện vật trưng bày là 445 hiện vật, 186 ảnh và 46 tác phẩm nghệ
thuật.
Đề mục thứ năm: Quân khu 4 thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược của
Đảng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ( từ 1976 đến
nay).
9


Diện tích trưng bày là 266m2, tỷ lệ 14,8%.

Gồm có 5 đề tài : với 207 hiện vật, 154 ảnh và 30 tác phẩm nghệ thuật.
Ngoài hệ thống trưng bày đó, bảo tàng cịn có phịng chiếu phim tư liệu để
phục vụ khách tham quan với diện tích 280m2, tỷ lệ 15% và phịng triển lãm
chun đề có diện tích 159m2, tỷ lệ 7,6%.
* Nhà tưởng niệm và trưng bày di vật liệt sỹ
+ Phần tưởng niệm: diện tích 45m 2, có bia đá khắc lời Bác Hồ với liệt sỹ
và lư hương.
+ Phần trưng bày di vật liệt sỹ có diện tích 216m 2, với 2000 di vật, 1000
hiện vật và 500 tư liệu.
1.2..Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh
1.2.1.Lịch sử hình thành
Bảo tàng Xơ Viết Nghệ Tĩnh ra đời và được đặt trong thành cổ Nghệ An
theo nghị quyết của Hội đồng Chính phủ ngày 15/1/1960, Bộ văn hóa ra quyết
đinh số 106-VP/QĐ cho phép 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh xây dựng nhà trưng
bày thường trực những tư liệu hiện vật về phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
*1960- 1964
Bảo tàng ra đời năm 1960 với số lượng hiện vật chủ yếu thu thập được
nhờ sự đóng góp của các Đảng viên cũng như các gia đình cách mạng. Bên cạnh
đó là sự giúp sức thu thập tài liệu từ sinh viên trường Đại học sư phạm Vinh
( nay là trường Đại học Vinh).
Công tác xây dựng ban đầu gặp rất hiều khó khăn cả về kinh phí và tổ
chức cán bộ. Tuy nhiên, nhờ sự đóng góp sức người sức của từ bà con nhân dân
Nghệ Tĩnh, qun góp tùy theo điều kiện; cịn các Đảng viên trên địa bàn thành
phố Vinh ra sưc san lấp mặt bằng. Nhờ sự đóng góp đó mà qua 3 năm xây dựng,
trước yêu cầu phục vụ 33 năm ngày XôViết Nghệ Tĩnh ( 12/9/1963), bảo tàng đã
tổ chức trưng bày chuyên đề Xô Viết Nghệ Tĩnh ngay tại đây.
*1965- 1980
Ngày 5/8/1964, Mỹ ra sức đánh phá miền Bắc, lúc này thành phố Vinh trở
thành tâm điểm đánh phá của quân giặc. Vì vậy, bảo tàng đã phải đóng cửa nhà
10



trưng bày, đi sơ tán nhưng vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ phục vụ thời chiến. Ba
ngôi nhà cấp 4 đã được xây dựng nhanh chóng tại Kim Liên- Nam Đàn để phục
vụ việc trưng bày.
Ngay trong thời kỳ chiến tranh ác liệt, những đã có các đồn khách quốc
tế đến với bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh. Đây là niềm tự hào, nguồn động viên to
lớn cho quân và dân Nghệ Tĩnh nói riêng và cả nươc nói chung.
Đất nước thống nhất ( 1975), cùng với cả nước, nhân dân thành phố Vinh
hàn gắn vết thương chiến tranh, tiến hành công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Lúc này, bảo tàng lại được đưa về thành phố Vinh ( 1980). Cơng trình xây
dựng trước đó của bảo tàng đã bị phá hủy do bom đạn, chỉ còn lại tầng dưới.
Công tác tu sửa, phát triển bảo tàng được bắt đầu để phù hợp với tình hình mới:
hịa bình, phát triển kinh tế.
* 1980- nay
Qua quá trình hoạt động, đội ngũ cán bộ bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh
ngày càng trưởng thành. Từ buổi ban đầu thành lập mới có một cán bộ về
chun mơn, nay 99 % cán bộ có trình độ đại học, trong đó có 1 tiến sỹ và 1 thạc
sỹ; cán bộ chun mơn có khả năng tác nghiệp độc lập. Bảo tàng cũng đang
tuyển thêm cán bộ bảo tàng, là người có trình độ đại học, có nghiệp vụ chun
mơn và thạo viết, nói tiếng Lào.
Đến nay, bảo tàng đã đi được chặng đường 54 năm, trải qua những giai
đoạn phát triển khó khăn, vất vả để hoàn thành nhiệm vụ trên mặt trận văn hóa.
Khơng những thế, những năm gần đây, bảo tàng Xơ Viết Nghệ Tĩnh cịn là địa
chỉ của nhiều đồn tham quan trong tỉnh cũng như đoàn khách từ nơi khác đến.
Nó đã bước đầu góp phần vào phát triển du lịch chung của tồn tỉnh Nghệ An.
1.2.2. Vị trí và quy mơ
*Vị trí:
Bảo tàng Xơ Viết Nghệ Tĩnh nằm trên đường Đào Tấn, ngay cạnh bảo
tàng Tổng hợp Nghệ An, trong khu vực thành cổVinh. Đây là nơi có vị trí chiến

lược quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phịng của tỉnh.
*Quy mơ:
11


Bảo tàng Xơ Viết Nghệ Tĩnh lúc này đã có một khn viên với 2 ha, diện
tích trưng bày có 10 phòng với 600 m2 đủ để thể hiện được khí thế đấu tranh
hào hùng của nhân dân Nghệ Tĩnh năm 1930-1931.
1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ
*Chức năng: Nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền thống về phong trào Xô
Viết Nghệ Tĩnh.
* Nhiệm vụ:
Nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê lưu giữ tư liệu và hiện vật liên quan đến sự
kiện lịch sử Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Trưng bày, giới thiệu về phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh phục vụ khách
tham quan tại bảo tàng, đưa giáo dục truyền thống Xô Viết Nghệ Tĩnh đến với
nhân dân các vùng, miền trong tỉnh. Phục vụ cán bộ, học sinh, sinh viên nghiên
cứu khai thác tư liệu về Xô Viết Nghệ Tĩnh hiện đang lưu giữ tại bảo tàng; Phục
vụ các địa phương trong hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh xây dựng lịch sử Đảng
bộ, xác minh lập hồ sơ đối với những người có cơng với cách mạng.
1.2.4. Cơ cấu tổ chức
PB
na
ssnn
k
qg
i
á
m


ưư

h
g
i




u

n

h
uu

i

tt

m


g
ê

ầầ

n
k


mm

c
ê

,

,,



u
b

,


o

n

đ

c

Trong đó:

- Ban giám đốc gồm: 1 giám đốc và 1 phó giám đốc.
- Phịng nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản gồm: 6 người.

- Phòng trưng bày, tuyên truyền gồm: 8 người.
- Phịng hành chính, tổng hợp gồm: 6 người.

1.2.5. Nội dung trưng bày
Bảo tàng XôViết Nghệ Tĩnh là nơi trưng bày chuyên đề về sự kiện lịch sử
tiêu biểu của dân tộc khi Đảng ta mới ra đời, đó là cao trào Xơ Viết Nghệ Tĩnh
năm 1930- 1931. Đây cũng là một trong ba bảo tàng được thành lập sớm nhất
12


trong hệ thống bảo tàng Việt Nam. Bảo tàng đã Sưu tầm được gần 15.000 hiện
vật, tài liệu với hơn 1/3 là tài liệu, hiện vật gốc có giá trị và đến nay đã có 47 di
tích Xơ Viết Nghệ Tĩnh được cơng nhận di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia.
Nội dung trưng bày của bảo tàng có 3 phần chính:
Phần thứ nhất: Nguyên nhân dẫn đến phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Phần thứ hai: Diễn biến và thành quả của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Phần Thứ ba: Ảnh hưởng và ý nghĩa của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
1.3.Bảo tàng tổng hợp Nghệ An
1.3.1.Lịch sử hình thành
Bảo tàng tổng hợp Nghệ An ( hay bảo tàng Nghệ An) là nơi gìn giữ, bảo tồn,
giới thiệu tồn bộ đất nước, con người, lịch sử, văn hóa và các hoạt động liên
tục, tiêu biểu của nhân dân Nghệ An từ xưa đến nay.
Ngày 17 tháng 10 năm 1979 Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh đã có
quyết định số 1103/TCUB _ QĐ _ UB về việc thành lập Bảo tàng Nghệ Tĩnh.
Tên gọi này gắn liền với thời kỳ nhập tỉnh của 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Bảo
tàng Nghệ Tĩnh từ khi ra đời và hoạt động đã mang tính chất là một bảo tàng
loại hình khảo cứu địa phương, một bảo tàng tổng hợp. Và do đó sau một thời
gian hoạt động để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của loại hình bảo tàng này
nó đã điều chỉnh tên gọi là Bảo tàng tổng hợp Nghệ An đến nay đổi lại là Bảo
tàng Nghệ An. Bảo tàng Nghệ An là một thiết chế văn hóa khơng thể thiếu được

trong cơ cấu tổ chức xã hội của tỉnh Nghệ An, có tầm quan trọng chiến lựơc và
vai trị, ý nghĩa to lớn, trong đó có phát triển du lịch.
1.3.2.Vị trí và quy mơ
*Vị trí:
Bảo tàng Nghệ An tọa lạc trên một vùng đất cao. Xa xưa, các nhà phong
thủy, địa lý đã chọn nơi cát địa để xây tịa thành cổ, bên trong có cơ quan đầu
não, có trại lính, kho lương với quan niệm thành cao, hào sâu sẽ chế ngự được
giặc ngoại xâm để yên ổn sản xuất, phát triển kinh tế. Người ta đã chon được
một vùng đất để xây dựng bảo tàng, một cơng trình kiến trúc mang tầm vóc thế
kỷ có sự kết hợp giữa nhu cầu phát triển văn hóa- du lịch.
13


*Quy mơ:
So với các cơng trình cổ và cơng trình hiện đại, bảo tàng Nghệ An đồ sộ,
khang trang xứng đáng là một địa chỉ đỏ, một cơng trình văn hóa đẹp về về kiến
trúc, khá hấp dẫn về chủ đề, nghệ thuật trưng bày.
Nhìn tổng thể, mặt bằng của bảo tàng có 3 cơng trình: sân vườn, nhà trưng
bày và nhà kho. Trong đó, nhà trưng bày là cơng trình chính với diện tích
3.900m2, ngơi nhà 3 tầng với kết cấu bền vững.
1.3.3. Cơ cấu tổ chức
PB
na
ccnn
k
bg
qi
á
m


h
ứứ


g

i

h



u

n
i

uu

,,

m

g
ê

n
k

ê


,

o


n

đ

c

Trong đó:
- Ban giám đốc gồm: 1 giám đốc và 2 phó giám đốc.
- Phòng nghiên cứu, kiểm kê, bảo quản gồm: 1 trưởng phịng, 1 phó
phịng ( tổng số là 10 cán bộ ).
- Phòng sưu tầm, trưng bày, tuyên truyền gồm: 1 trưởng phịng, 1 phó
phịng ( tổng số cán bộ là 10 người).
- Phịng hành chính, quản trị gồm: 6 người.
1.3.4. Chức năng, nhiệm vụ
*Chức năng: Bảo tàng Nghệ An là một thiết chế văn hóa đặc biệt khơng thể
thiếu được của ngành văn hóa thơng tin. Với chức năng chính của một cơ quan
nghiên cứu khoa học và giáo dục khoa học, hoạt động của nó xoay quanh các
hiện vật gốc. Với tư cách một bảo tàng tỉnh, thành phố, bảo tàng Nghệ An cũng
thực hiện đầy đủ các chức năng xã hội của mình: chức năng nghiên cứu khoa
học; chức năng giáo dục tuyên truyền; chức năng bảo vệ, bảo quản di sản văn
hóa; chức năng tài liệu hóa khoa học; chức năng thơng tin, giải trí và thưởng
thức.
14



*Nhiệm vụ: Bảo tàng có nhiệm vụ nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, trưng bày các
hiện vật, tư liệu tiêu biểu về lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội giúp cho nhân dân
Nghệ An hiểu biết thêm, tự hào về truyền thống lịch sử quê hương.
1.3.5. Nội dung trưng bày
Với hơn 1,7 vạn tài liệu, hiện vật; xếp hạng được nhiều di tích: trưng bày
được hơn 30 chuyên đề về lịch sử, văn hóa, phục vụ hàng triệu lượt khách tham
quan ( năm 2001). Đến nay bảo tàng có hơn 20 nghìn tài liệu, hiện vật bằng giấy,
thể khối khác nhau.
Vào bảo tàng, phòng khánh tiết là một không gian tương đối rộng, trang
trọng, đặt bức tượng Hồ Chí Minh bằng đồng với dáng người thanh thản, đơi
mắt hiền từ, vầng trán cao như dẫn bước cho cả dân tộc đi lên, phía sau là bức
phù điêu phản ánh khái quát về đất nước, con người Nghệ An.
Dựa trên khối lượng hiện vật lớn như vậy, bảo tàng trưng bày với 7 chủ đề
thương trực và 5 chủ đề mang tính triển lãm:
Chủ đề 1: Đất nước- con người Nghệ An ( hay điều kiện địa lý- tài
nguyên) .
Chủ đề 2: Nghệ An thời kỳ tiền sử.
Chủ đề 3: Các dân tộc Nghệ An- đời sống kinh tế và bản sắc văn hóa.
Chủ đề 4: Nghệ An đấu tranh, xây dựng dưới thời phong kiến.
Chủ đề 5: Nghệ An đấu tranh giành độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Chủ đề 6- 7: Nghệ An xây dựng chủ nghĩa xã hội- đổi mới.
Ngoài chủ đề trưng bày chính, bảo tàng cịn trưng bày chun đề mang
tính triển lãm như: danh nhân Nghệ An, ngành nghề truyền thống Nghệ An, điêu
khắc- mỹ thuật- kiến trúc cổ Nghệ An,….

15



Chương 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VÀ THU HÚT KHÁCH THAM
QUAN CỦA HỆ THỐNG BẢO TÀNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ VINH
2.1. Những mặt thuận lợi và kết quả đạt được
2.1.1. Thuận lợi
Trong xu thế hịa bình, hợp tác phát triển, đất nước ngày càng đổi mới,
nhu cầu của người dân cũng ngày một tăng cao, trong đó có nhu cầu về du lịch.
Du khách khơng chỉ thích du lịch nghỉ ngơi, tham quan, tắm biển mà nhu cầu du
lịch văn hóa cũng ngày càng đóng một vai trị quan trọng. Dựa trên xu thế phát
triển chung ấy, bảo tàng ở thành phố Vinh ( Nghệ An) đã được đầu tư nâng cấp,
đổi mới trưng bày với trang thiết bị hiện đại.
Bảo tàng ở thành phố Vinh là một trong những bảo tàng ra đời sớm nhất
cả nước: bảo tàng Quân khu 4 ( 1966), bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh ( 1960) và
bảo tàng Tổng hợp Nghệ An ( 1979). Trong suốt quá trình hình thành, phát triển,
ba bảo tàng này đã góp phần quan trọng trong việc gìn giữ, trưng bày, giáo dục
khoa học, giáo dục truyền thống cho nhân dân.
Được xây dựng ngay khu vực trung tâm của tỉnh Nghệ An- vùng đất lịch
sử, văn hiến, bảo tàng ở đây có điều kiện thuận lợi để phát triển, thu hút đơng
đảo khách đến tham quan tìm hiểu, nghiên cứu, học tập.
Những năm qua du lịch Nghệ An đã có bước đổi thay nhanh chóng, kết
cấu hạ tầng du lịch được quan tâm đầu tư, nâng cấp và phát triển. Nhiều tuyến
đường giao thông tiếp cận các khu du lịch trọng điểm của tỉnh được đầu tư xây
dựng, nhất là đối với khu vực ven biển. Sân bay Vinh được nâng cấp đủ khả
năng đón máy bay lớn hơn; hệ thống bưu chính viễn thơng, điện, cấp thốt nước
ngày càng hồn thiện và hiện đại hóa.
Nhiều cơng trình văn hóa, di tích lịch sử, di tích cách mạng được quan
tâm đầu tư xây dựng và bảo tồn tôn tạo, trong đó một số cơng trình như Dự án
Bảo tồn tơn tạo Khu di tích lịch sử văn hố Kim Liên, Khu mộ Bà Hồng Thị
Loan, Quảng trường Hồ Chí Minh và Tượng đài Bác Hồ, Đền thờ vua Quang

16


Trung, thành cổ Vinh, chùa Đảo Ngư…đã hoàn thành đưa vào hoạt động trở
thành những điểm du lịch văn hoá, tâm linh hấp dẫn đối với du khách và nhân
dân cả nước.
Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ du lịch phát triển nhanh chóng cả về quy
mơ và chất lượng, góp phần làm thay đổi bộ mặt của nhiều vùng quê, đô thị.
Đến thời điểm hiện tại trên địa bàn tồn tỉnh có 549 cơ sở lưu trú với 12.043
phịng, 22.487 giường, trong đó có 4 khách sạn 4 sao, 8 khách sạn 3 sao và gần
50 khách sạn 1- 2 sao. Tồn tỉnh có 26 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, trong
đó có 09 đơn vị lữ hành quốc tế, 17 đơn vị lữ hành nội địa. Sản phẩm du lịch,
dịch vụ từng bước được đa dạng hóa và nâng cao chất lượng với trọng tâm là du
lịch văn hoá lịch sử gắn với lễ hội và tâm linh, du lịch nghỉ dưỡng, trong đó Khu
di tích Kim Liên, Bãi biển Cửa Lò đã trở thành điểm đến hấp dẫn và là địa chỉ
đỏ trên bản đồ du lịch Việt Nam.
Công tác tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch được đẩy mạnh và đem
lại hiệu quả thiết thực, tổ chức được nhiều hoạt động văn hoá, du lịch gắn với
các sự kiện chính trị trọng đại của đất nước để quảng bá hình ảnh Nghệ An đến
với du khách và nhân dân cả nước. Hoạt động liên kết hợp tác phát triển du lịch
với các tỉnh trong nước, trong khu vực ngày càng được mở rộng.
Đội ngũ lao động có bước trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Hệ
thống trường có đào tạo nghề du lịch phát triển khá nhanh, chất lượng đào tạo
từng bước được cải thiện như trường Đại học Vinh, trường cao đẳng du lịch
Nghệ An,... Hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh Nghệ An ngày càng
tăng trưởng nhanh và hiệu quả ngày càng rõ. Tổng lượng khách du lịch đến
Nghệ An giai đoạn 2006 - 2010 tăng bình quân 14,4% năm, tổng doanh thu dịch
vụ du lịch tăng bình quân 23,7%/năm. Riêng năm 2011, mặc dù gặp nhiều khó
khăn do lạm phát kinh tế tồn cầu, du lịch Nghệ An vẫn đạt mức tăng trưởng
khá, tổng lượng khách du lịch đạt 2,95 triệu lượt, trong đó có trên 98.000 lượt

khách quốc tế, tổng doanh thu dịch vụ du lịch toàn ngành đạt 1.317 tỷ đồng,
bằng 130% so với năm 2010, trong đó danh thu khách quốc tế ước đạt 17 triệu
17


USD. Hoạt động du lịch cũng tạo việc làm cho gần 13.000 lao động trực tiếp và
gián tiếp trên địa bàn.
Riêng về hoạt động của bảo tàng, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước
và tỉnh nhà, bảo tàng ở thành phố Vinh đã được đầu tư nâng cấp, tu sửa để phục
vụ nhu cầu ngày càng cao của mọi đối tượng du khách.
2.1.2. Kết quả đạt được
 Công tác nghiên cứu khoa học:
Công tác nghiên cứu khoa học được các bảo tàng ở thành phố Vinh đặc
biệt quan tâm. Năm 2013, bảo tàng Tổng hợp Nghệ An đã phối hợp với đoàn
chuyên gia nghiên cứu Viện Việt Nam học và khoa học phát triển nghiên cứu
giao thương buôn bán Việt- Nhật làm việc tại huyện Hưng Nguyên. Bảo tàng
cũng đã phối hợp với các chuyên gia Nhật Bản, Đoàn chuyên gia người Đức
nghiên cứu hiện vật; phục vụ đoàn tăng ni Thiền Viện Phật giáo Đà Lạt, Hồng
Lĩnh nghiên cứu hiện vật liên quan đến Phật giáo; phối kết hợp với đài truyền
hình trong và ngồi tỉnh quy phim, chụp ảnh, nghiên cứu tư liệu hiện vật. Ngoài
ra, bảo tàng đã nghiên cứu và hoàn thành dịch thuật tài liệu chưc Hán với 11.201
chữ tương ứng 128 trang.
Trong những năm qua, các bảo tàng ở thành phố Vinh đã thực hiện tốt
công tác nghiên cứu khoa học và áp dụng kết quả nghiên cứu vảo tổ chức trưng
bày, bảo quản hiện vật…Hoàn thành các đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
như: Công tác kiểm kê bảo quản của bảo tàng Quân khu. Thực trạng và giải
pháp ( bảo tàng Quân khu 4), đề tài khoa học cấp tỉnh của bảo tàng Xô Viết
Nghệ Tĩnh “ Đưa Xô Viết Nghệ Tĩnh vào trường học.
 Công tác sưu tầm:
Từ khi thành lập, các bảo tàng đã chú trọng công tác sưu tầm hiện vật và

đã thu được một số lượng hiện vật, tài liệu lớn: bảo tàng Quân khu 4 là 10.000
hiện vật, tài liệu; bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh là 15.000; bảo tàng tổng hợp
Nghệ An là 20.000 tài liệu, hiện vật. Riêng năm 2013, công tác sưu tầm ở các
bảo tàng thu được kết quả to lớn:
18


Bảo tàng Quân khu 4 đã sưu tầm được trên 1.000 hiện vật trong kháng
chiến, di vật liệt sỹ, hình ảnh, sáng kiến kỹ thuật trong các hoạt động của lực
lượng vũ trang quân khu.
Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã tổ chức sưu tầm hiện vật, tài liệu tại các
tỉnh Khánh Hịa, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi và Bộ cơng an đã thu được 40 hiện vật
thể khối, 150 hồ sơ và ảnh, dịch thuật tài liệu tiếng Hán, tiếng Pháp ra tiếng Việt
với 200 trang.
Bảo tàng Tổng hợp Nghệ An đã triển khai sưu tầm được 96 ảnh, 9 bản tài
liệu, 1 hiện vật Lịch Dọi người Mường, 1.8 kg đồng tiền cổ tại xã Nghi ThiếtNghi Lộc, 3 mẫu xương cá voi tại xã Diễn Kỷ- Diễn Châu.
 Công tác kiểm kê, bảo quản:
Trong suốt thời gian tồn tại và hoạt động, các bảo tàng đã có những kế
hoạch nhằm xây dựng kho bảo quản hiện vật, tổ chức bảo quản hiện vật định kỳ.
Tiến hành kiểm kê khoa học và viết lý lịch hoàn thiện hồ sơ khoa học đối với
những hiện vật mới sưu tầm được.
Bảo tàng Quân khu 4 viết lý lịch hoàn thiện 250 bộ hồ sơ khoa học hiện
vật bảo tàng, bảo quản trên 15.000 hiện vật kho cơ sở, hiện vật phòng trưng bày,
sữa chữa 2 hiện vật thể khối trưng bày ngồi trời ( năm 2013).
Bảo tàng Xơ Viết Nghệ Tĩnh thực hiện công tác kiểm kê, bảo quản định
kỳ khối lượng hiện vật đồ sộ trong kho và trong nhà trưng bày, với hơn 20.000
hiện vật, tài liệu. Để bảo quản tốt hơn nữa hiện vật quý giá về phong trào Xô
Viết Nghệ Tĩnh, kho bảo quản được đầu tư xây dựng mới với diện tích 300 m2,
bổ sung phương tiện bảo quản hiện đại hơn; tạo điều kiện cho kho mở hoạt
động.

Cơng tác kiểm kê hồn thiện đã giúp cho công tác sưu tầm định hướng
được chất lượng và sưu tầm những hiện vật thuộc các chuyên đề còn thiếu.
Ngoài việc lưu giữ những hiện vật minh chứng cho một thời kỳ cách mạng hào
hùng của cha ông, kho hiện vật Bảo tàng cịn lưu giữ khơng ít những tư liệu do
mật thám Pháp để lại. Những tư liệu này đã góp phần khơng nhỏ cho cơng tác
nghiên cứu khoa học. Ngoài hơn 6.000 hiện vật gốc(đơn vị kiểm kê), bảo tàng
19


còn lưu giữ hơn 3.000 ảnh chân dung và 6.000 hồ sơ của những người hoạt động
cách mạng bị thực dân Pháp bắt giam năm 1930-1945; hơn 3.000 trang tài liệu
của mật thám Pháp viết về các cuộc đấu tranh của nhân dân Nghệ Tĩnh và hoạt
động của Đảng cộng sản ở các huyện, tỉnh, cũng như những lời thú nhận thất bại
chua cay của chính quyền Pháp ở vùng này.
Năm 2013, bảo tàng Tổng hợp Nghệ An đã vào sổ đăng ký, sổ phân loại
thêm 69 hiện vật; làm lý lịch hiện vật, hộ chiếu hiện vật, đánh số được 69 hiện
vật; đặc biệt bảo tàng đã vào phần mềm vi tính quản lý thêm 575 hiện vật; vào
sổ phân loại ảnh được 417 ảnh; hoàn thành chụp ảnh hoàn thiện hộ chiếu cho
275 hiện vật; triển khai vệ sinh kho theo định kỳ hàng. Đặc biệt, bảo tàng đã
hoàn thành việc sữa chữa hệ thống cửa bảo vệ nhà kho bảo quản hiện vật tránh
tình trạng bị mất trộm và mưa bão.
 Công tác trưng bày:
Các khâu công tác nghiên cứu khoa học, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản đều
nhằm mục đích đưa hiện vật ra trưng bày. Bên cạnh không gian trưng bày cố
đinh, các bảo tàng thường xuyên tổ chức trưng bày lưu động, triên lãm theo
chun đề để phục vụ cơng chúng. Ví dụ: trưng bày chuyên đề “ Đại tướng Võ
Nguyên Giáp với lực lượng vữ trang quân khu 4 dịp quốc tang đại tướng ở bảo
tàng Quân khu 4 thu hút hơn 3.000 lượt khách tham quan; triển lãm chuên đề “
Biển đảo- chủ đề thiêng liêng của tổ quốc” phục vụ 75 đoàn khách tham quan
với 15.000 lượt khách.

Năm 2013 và đầu năm 2014, bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã tổ chức 8 đợt
trưng bày lưu động tại các nơi như: trưng bày phục vụ lễ hội đền Nguyễn Xí
( Nghi Lộc), đền Cờn ( Quỳnh Lưu), lễ hội Hang Bua ( Qùy Châu), đạt tổng số
khách tham quan trưng bày lưu động hơn 500.000 lượt người/ năm.
 Công tác giáo dục, tuyên truyền:
Chức năng chính của bảo tàng Quân khu 4, bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh
và bảo tàng Tổng hợp Nghệ An chính là chức năng giáo dục. Trong những năm
qua, bảo tàng đã phối hợp với các địa phương, đơn vị tuyên truyền nhân dịp kỷ
niệm các ngày lễ lớn, lễ hội trong năm. Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh phối hợp
20


với sở Giáo dục và đào tạo đưa phong trào Xô Viết vào trường phổ thông nhằm
giáo dục thế hệ trẻ niềm tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước.
2.2. Thực trạng và những mặt hạn chế
Bên cạnh thuận lợi và những gì đã làm được, hệ thống bảo tàng ở Vinh
cũng bộc lộ những hạn chế, thực trạng đáng lo ngại. Bảo tàng Dân tộc học, bảo
tàng phụ nữ mới thành lập nhưng đã lấy mục tiêu thu hút khách tham quan là
trọng tâm, vì thế đã tạo sự liên kết chặt chẽ giữa bảo tàng và du lịch, thoát khỏi
tư duy thành lập bảo tàng theo kiểu “cũ”. Còn bảo tàng ở Nghệ An vẫn chưa “
mặn mà” với việc làm du lịch, bộc lộ nhiều hạn chế từ khâu tổ chức đến thu hút
khách tham quan. Nó thể hiện rõ qua các thực trạng sau:
Bảo tàng trong tình trạng “ đóng cửa cài then”
Một thực tế đang diễn ra trong những năm gần đây là bảo tàng ở thành
phố Vinh ln trong tình trạng “ đóng cửa cài then”. Nếu như nhìn từ phía ngồi
bảo tàng khơng ai biết rằng nó vẫn hoạt động nhưng không tổ chức trưng bày.
Theo những người dân sinh sống và làm việc xung quanh bảo tàng Xô Viết
Nghệ Tĩnh và bảo tàng Tổng hợp Nghệ An “ Bảo tàng đã đóng cửa mấy năm nay
”. Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu, điền dã, tơi được biết bảo tàng đang trong
quá trình nâng cấp, sửa chữa và cán bộ bảo tàng vẫn hoạt động như bình

thường .
Nói về ngun nhân của tình trạng trên, cán bộ bảo tàng cũng như Sở văn
hóa thể thao và du lịch tỉnh Nghệ An cho rằng đó là do nguồn vốn đầu tư hạn
hẹp.
Đối với bảo tàng Tổng hợp Nghệ An, ngày 18/ 6/ 2010, UBND tỉnh đã ký
quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng cơng trình trưng bày nội ngoại thất .
Dự án đầu tư với kinh phí 44,2 tỷ đồng, thời gian thực hiện trong 3 năm. Theo
kế hoạch thì cuối năm 2013 sẽ hồn thành và đưa vào phục vụ khách tham quan.
Có thể nói, với việc tổ chức lại Bảo tàng kể trên chính là động lực quan trọng để
hoạt động của bảo tàng được chuẩn hóa hơn, phát huy tốt nhất vai trị của mình
góp vào sự phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội chung của tỉnh.
21


Dự án phê duyệt từ năm 2010 nhưng năm 2011 mới bắt đầu có tiền đầu
tư. Năm 2011 cấp 4 tỷ đồng ( chiếm 9% tổng nguồn vốn đầu tư), năm 2012 cấp
3,5 tỷ đồng ( chiếm 7,9%) , năm 2013 cấp thêm 3,5 tỷ đồng. Như vậy, trong 3
năm, số vốn được cấp mới chỉ có 11 tỷ đồng , chưa đến 1/3 tổng số vốn theo dự
án.Nhưng tính đến tháng 4 năm 2014, cơng trình chỉ mới hồn thành 1/4. Cứ
theo tiến độ như vậy thì phải mất hơn 3 năm nữa bảo tàng mới có thể mở cửa trở
lại. đây là lo ngại lớn nhất của lãnh đạo cũng như cán bộ bảo tàng. Hơn thế nữa,
qua thời gian phần cơng trình đã xây cũng đang bị xuống cấp như mối ăn từ
móng, tường bong tróc, hệ thống các cửa kính bị bể... Ngồi ra, do việc thiết kế
xây dựng hệ thống phần mái của dự án phần vỏ này không hợp lý nên gặp mưa
lớn, nước đã tràn vào phía trong nhà. Năm 2012, tỉnh Nghệ An phải cấp thêm
1,6 tỷ đồng để sửa lại. Một việc đáng lo ngại đó là hiện vật lưu giữ trong bảo
tàng có nguy cơ bị đe dọa.
Cùng một hồn cảnh như vậy, bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh trong suốt 18
năm không được đầu tư đổi mới. Đến tháng 6 năm 2013, bảo tàng đã được đầu
tư nâng cấp, tu sửa nội, ngoại thất. Dự kiến tháng 5-6 năm nay sẽ hồn thành. Vì

vậy, đến nay cả 2 bảo tàng này vẫn ln trong tình trạng đóng cửa.
Khơng phải đầu tư nâng cấp, tu sửa nhưng bảo tàng Quân khu 4 vẫn
thường xuyên đóng cửa. Bảo tàng chỉ mở cửa thường xuyên vào ngày thứ 3, thứ
5, chủ nhật và các ngày lễ như 8/3, 30/4, 1/5,…Còn những ngày thường, bảo
tàng hầu như khơng có khách đến tham quan. Có chăng chỉ là những người đến
vì mục đích nghiên cứu, học tập. Theo cán bộ bảo tàng cho biết: bảo tàng chỉ mở
cửa phịng trưng bày khi có đồn khách đăng ký trước, cịn những ngày khác
khơng mở cửa.
Lối tư duy “ bao cấp”
Các bảo tàng trên địa bàn thành phố Vinh đều thuộc sở hữu của Nhà nước.
Căn cứ theo điều 8, chương I của “ Quy chế tổ chức và hoạt động của bảo tàng”
do đồng chí Nguyễn Khoa Điềm ký ngày 6/ 2/ 1998 nêu rõ: “ Bộ văn hóa thơng
tin ( nay là Bộ văn hóa thể thao và du lịch) thực hiện quyền quản lý của Nhà
nước, chỉ đạo và hướng dẫn các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ đối với các
22


bảo tàng”. Theo đó ở thành phố Vinh, bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh và bảo tàng
Tổng hợp Nghệ An thuộc quyền quản lý trực tiếp của Sở văn hóa thể thao và du
lịch tỉnh Nghệ An và UBND tỉnh Nghệ An. Riêng bảo tàng Quân khu 4 là bảo
tàng thuộc lực lượng vũ trang, là chi nhánh của bảo tàng cách mạng Việt Nam
nên nó cịn chịu sự quản lý trực tiếp từ cấp trung ương. Đồng thời, các bảo tàng
này phải hoạt động theo các quy định của hiến pháp và pháp luật.
Một thực tế chung đang diễn ra hiện nay, đó là hệ thống bảo tàng của Việt
Nam hầu hết là bảo tàng thuộc sở hữu Nhà nước. Nó có vai trị quan trọng trong
việc thống nhất quản lý trong cả nước. Nhà nước đưa ra các quy chế, chính sách,
hướng dẫn tổ chức, thực hiện, kiểm tra cũng như giám sát, xử phát đối với các
bảo tàng. Qua đó, sẽ tạo được sự nhất quán trong tổ chức cũng như các khâu
công tác của bảo tàng. Nhà nước như một cơ quan giám sát mọi hoạt động của
bảo tàng để kịp thời tìm ra hướng đi phù hợp. Tuy nhiên, cũng chính điều này đã

dẫn đến tình trạng “ thụ động” của các bảo tàng. Từ trước tới nay, các bảo tàng ở
nước ta nói chung và ở Nghệ An nói riêng đều hoạt động theo cơ chế bao cấp.
Vận hành theo cơ chế này, tức mọi hoạt động của bảo tàng sẽ chịu sự quản lý
của Nhà nước mà trực tiếp là Sở văn hóa thể thao du lịch và UBND tỉnh. Nhà
nước sẽ thông qua tỉnh để đầu tư xây dựng, nâng cấp, tu sửa đồng thời trả lương
cho cán bộ, nhân viên trong bảo tàng. Đó là ngun nhân làm mất đi tính chủ
động của các bảo tàng.
Ngoài ra, cách nghĩ thụ động, chờ đợi khách đến tham quan vẫn đè nặng ở
các bảo tàng trên địa bàn thành phố Vinh và hầu hết bảo tàng trong cả nước. Đây
là hệ quả của việc nguồn nhân lực khơng đủ trình độ, năng lực để theo kịp bước
tiến của xã hội trong điều kiện trình độ dân trí ngày càng cao, có điều kiện đi
nhiều nước trên thế giới.
Qua cuộc trao đổi với ông Nguyễn Công Thành- giám đốc bảo tàng Quân
khu 4, được biết: nhân viên bảo tàng chủ yếu là những người được đào tạo từ
trường quân sự, một số cán bộ học chun ngành lịch sử, văn hóa, khơng có ai
học du lịch và bản thân ông cũng chuyển từ quân đội qua hoạt động ngành bảo
tàng. Thiết nghĩ, với nguồn cán bộ như vậy, trong tương lai liệu bảo tàng có theo
23


kịp xu thế phát triển chung của bảo tàng thế giới, trở thành một bảo tàng theo
hướng hiện đại?
Có mặt trước bảo tàng Tổng hợp Nghệ An lúc 7h sáng- là giờ làm việc
của cán bộ bảo tàng đã ghi rõ trong thông báo đặt trước cổng, nhưng phải đến 8h
mọi người mới bắt đầu có mặt. Chưa kể đến trong giờ làm việc mà mọi người
kéo nhau đi mua sắm, thêu thùa,…Tình trạng ấy lặp lại hàng ngày làm lãng phí
thời gian, tiền của từ Nhà nước, làm con người trì trệ, khơng muốn tư duy, sáng
tạo.
Theo thống kê của bảo tàng Quân khu 4, trong 3 tháng đầu năm 2014, bảo
tàng đã đón tiếp và phục vụ hơn 9.000 lượt khách. Nhưng qua khảo sát thực thực

tế, con số ít hơn rất nhiều. Bảo tàng chỉ có khách tham quan vào các ngày lễ, dịp
kỉ niệm, còn những ngày thường hầu như khơng có khách. Nếu có, chỉ là khách
tự do đến tham quan khu vực trưng bày ngồi trời và chụp ảnh. Theo số liệu
thống kê có được nhờ khảo sát thực địa trong suốt tháng 3 vừa qua tại bảo tàng
Quân khu 4, tổng số lượt khách đến tham quan bảo tàng là hơn 1.000 lượt, trong
đó hầu hết là đối tượng cựu chiến binh, cán bộ, chiến sỹ quân khu và học sinh từ
các trường trên địa bàn thành phố Vinh, khơng có vị khách nước ngoài nào. Lối
tư duy bao cấp đã đè nặng lên cán bộ bảo tàng, thể hiện ở việc đưa ra các con số
thống kê “ ảo”. Nguyên nhân sâu xa của việc này là bảo tàng không thu vé hay
nói cách khác là khơng có lợi nhuận nên khách đơng hay ít cũng khơng ảnh
hưởng tới hoạt động của bảo tàng. Nó khiến cho các bảo tàng ngày càng trì trệ,
vẫn “ dẫm chân tại chỗ” mà khơng thốt ra được.
Bảo tàng vẫn chưa thu hút khách tham quan
Một thực tế dễ nhận thấy ở các bảo tàng trên địa bàn thành phố Vinh là sự
vắng bóng khách tham quan, nhất là khách du lịch quốc tế.
Năm 2013, ba bảo tàng ở thành phố Vinh đón tiếp và phục vụ khoảng
777.500 lượt khách, trong đó: bảo tàng Quân khu 4 là 76.500 lượt, bảo tàng Xô
Viết Nghệ Tĩnh là 600.000 lượt ( khách tham quan tại bảo tàng là 20.000 lượt),
bảo tàng Tổng hợp Nghệ An là 101.000 lượt ( khách lưu động là 100.000 lượt,
khách tại chỗ là 1.000 lượt). Trong khi đó bảo tàng ở thành phố Hồ Chí Minh là
24


3 triệu lượt khách, cao gấp 3,8 lần so với bảo tàng ở thành phố Vinh. Đặc biệt,
khách du lịch nước ngoài đến với bảo tàng được xem như “ của hiếm”. Cũng
trong năm 2013, bảo tàng quân khu 4 chỉ đón tiếp 100 lượt khách quốc tế ( riêng
3 tháng đầu năm 2014, bảo tàng khơng có vị khách quốc tế nào), bảo tàng Tổng
hợp Nghệ An là 70 người. Riêng bảo tàng Chững tích chiến tranh năm 2013 đón
khoảng 600.000 lượt, trong đó hơn 70% là khác du lịch quốc tế, cao gấp hàng
nghìn lần so với bảo tàng ở Vinh. Hơn thế nữa, hơn 75% khách đến bảo tàng ở

Vinh là khách du lịch trong tỉnh.
So sánh như vậy để thấy được bảo tàng ở thành phố Vinh vẫn chưa thu hút
được sự quan tâm của khách du lịch trong nước cũng như khách du lịch quốc tế.
Nguyên nhân của thực trạng trên là do chiến lược phát triển của bảo tàng cũng
như sự đơn điệu, tẻ nhạt trong trưng bày, sự nhàm chán trong thuyết minh và
chưa có sự kết nối, quảng bá.
- Chiến lược phát triển của bảo tàng:
Với câu hỏi dành cho giám đốc ba bảo tàng trên địa bàn thành phố Vinh: “
Mục đích hoạt động chính của bảo tàng là gì?” đều nhận được câu trả lời là “
giáo dục” và họ đều khẳng định rằng “ bảo tàng không làm du lịch và khơng có
doanh thu”. Qua đó, có thể thấy rằng: ngay trong định hướng, chiến lược phát
triển của các bảo tàng đã khơng có mục tiêu thu hút khách tham quan. Vì dù
khách nhiều hay ít cũng khơng ảnh hưởng gì đến hoạt động của bảo tàng. Theo
ơng Nguyễn Cơng Thành- giám đốc bảo tàng Qn khu 4, thì trong thời gian tới
bảo tàng khơng có kế hoạch xây dựng thêm các cơng trình phục vụ khách tham
quan như: cửa hàng lưu niệm hay dịch vụ phục vụ ăn uống cho khách tham quan
bảo tàng. Như vậy, khi đã khơng có định hướng, khơng có mục tiêu thì làm thế
nào để thu hút được khách đến với bảo tàng?
- Sự đơn điệu, tẻ nhạt trong trưng bày:
Hầu như phần trưng bày cố khơng hề thay đổi, đó là điều khiến du khách
thất vọng khi đến với bảo tàng ở thành phố Vinh. Trưng bày cịn mạng tính
truyền thống, trùng lắp, đơn điệu và không hấp dẫn được du khách. Các bảo tàng
còn trưng bày theo lối cổ điển nên sức hấp dẫn hạn chế. Hệ thống trưng bày của
25


×