Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

thực trạng kiến thức thực hành về quy trình tiêm an toàn của điều dưỡng các khoa lâm sàng bv thanh nhàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.67 KB, 70 trang )

BỘYTẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

NGUYỄN THỊ THANH THỦY

THỰC TRẠNG KIẾN THỨC THỰC HÀNH VỀ QUY TRÌNH
TIÊM AN TỒN CỦA ĐIỀU DƯỠNG CÁC KHOA LÂM SÀNG
BV THANH NHÀN

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

NAM ĐỊNH - 2020


BỘYTẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

NGUYỄN THỊ THANH THỦY

THỰC TRẠNG KIẾN THỨC THỰC HÀNH VỀ QUY TRÌNH
TIÊM AN TỒN CỦA ĐIỀU DƯỠNG CÁC KHOA LÂM SÀNG
BV THANH NHÀN
Chuyên ngành: Điều dưỡng Nội người lớn

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THS.VŨ THỊ LÀ

NAM ĐỊNH - 2020


i



LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, phòng Đào tạo Sau đại học
trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ
em trong quá trình học tập, nghiên cứu để em có thể hồn thành chun đề này.

Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Bệnh viện Thanh Nhàn,
phòng Điều dưỡng, khoa Tim Mạch nơi tôi công tác đã tạo điều kiện
cho tôi đi học trong thời gian qua.
Xin cảm ơn Trưởng khoa, điều dưỡng trưởng và điều dưỡng viên
các khoa lâm sàng nơi tôi tiến hành nghiên cứu đã tạo điều kiện giúp
đỡ cung cấp các thông tin cần thiết trong quá trình nghiên cứu.
Với tất cả sự kính trọng và biết ơn sâu sắc của người học trò, em
xin bày tỏ lòng biết ơn tới ThS. Vũ Thị Là người Thầy kính mến đã dạy dỗ,
tận tình chỉ bảo, định hướng và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Và cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với gia đình,
bạn bè đã luôn bên cạnh dành cho em mọi sự động viên, khích lệ và hỗ trợ
để em vượt qua mọi khó khăn trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Nam Định, ngày 15 tháng 01 năm 2021

Học viên

Nguyễn Thị Thanh Thủy


ii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là báo cáo chuyên đề của riêng tôi. Nội dung trong bài báo cáo
này hoàn toàn trung thực, khách quan và chưa được cơng bố ng bất cứ một cơng

trình nào khác. Báo cáo này do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo
viên hướng dẫn. Nếu có điều gì sai trái tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.

Nam Định, ngày 15 tháng 01 năm 2021

Người làm cam đoan

Nguyễn Thị Thanh Thủy


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN................................................................................................................................ i
LỜI CAM ĐOAN......................................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG.................................................................................................................. iv
DANH MỤC BIỂU ĐỒ.............................................................................................................. v
ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN...................................................................................... …..3
1.1. Cơ sở lý luận............................................................................................................... 3
1.1.1. Các định nghĩa và khái niệm sử dụng trong nghiên cứu...........3
1.1.1.1 Các định nghĩa về tiêm an toàn.............................................................. 3
1.1.1.2 Định nghĩa về tiêm tĩnh mạch................................................................. 3
1.1.1.3 Một số khái niệm sử dụng trong nghiên cứu................................. 3
1.1.1.4 Hậu quả và gánh nặng bệnh tật của tiêm khơng an tồn ........7
1.1.1.5 Các nguy cơ dẫn đến tiêm khơng an tồn..................................... 11
1.2. Cơ sở thực tiễn........................................................................................................ 11
1.2.1. Thực trạng sử dụng thuốc tiêm và hiện tượng lạm dụng tiêm
............................................................................................................................................... 11

1.2.2.Thực trạng cung cấp trang thiết bị, phương tiện phục vụ tiêm

............................................................................................................................................... 12

1.2.3.Thực trạng tiêm an toàn.............................................................................. 13
1.2.4. Các định nghĩa và khái niệm sử dụng trong nghiên cứu........16
1.2.4.1 Một số yếu tố liên quan đến kiến thức Tiêm an toàn...............15
1.2.4.2 Một số yếu tố liên quan đến thực hành Tiêm an tồn.............16
1.3.3. Một số thơng tin về bệnh viện Thanh Nhàn..................................... 20
Chương 2: MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT....................................................... 22
2.1. Một số thông tin về Bệnh viện Thanh Nhàn............................................. 20
2.2.Thực trạng kiến thức thực hành về quy trình tiêm an tồn của điều dưỡng các

khoa lâm sàng......................................................................................................................... 22
2.2.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu.......................................... 22
2.2.2. Kiến thức chung về tiêm an toàn của điều dưỡng…………………….….24

2.2.2.1. Kiến thức chung về tiêm an toàn........................................................... 25
2.2.2.2. Kiến thức chung về chuẩn bị người bệnh của điều dưỡng viên 25


2.2.2.. Kiến thức chung về chuẩn bị dụng cụ thuốc tiêm.......................... 26
2.2.3. Thực hành của điều dưỡng về tiêm an toàn........................................ 29
Chương 3: BÀN LUẬN........................................................................................................ 32
3.1. Thực trạng kiến thức của điều dưỡng về tiêm an toàn.....................33
3.2. Thực trạng thực hành của điều dưỡng về tiêm an toàn................... 34
3.3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao kiến thức thực hành về quy trình tiêm an

tồn của điều dưỡng các khoa lâm sàng tại BV Thanh Nhàn...................... 36
KẾT LUẬN............................................................................................................................... 317
4.1. Thực trạng kiến thức và thực hành về quy trình tiêm an toàn của điều dưỡng


các khoa lâm sàng bệnh viện Thanh Nhàn............................................................. 31
4.2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao kiến thức thực hành về quy trình tiêm an

toàn của điều dưỡng các khoa lâm sàng tại bệnh viện Thanh Nhàn .......32
KHUYẾN NGHỊ......................................................................................................................... 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BKT

: Bơm kim tiêm

BV

: Bệnh viện

BVĐK

: Bệnh viện đa khoa

CTSN

: Chất thải sắc nhọn

ĐD


: Điều dưỡng

ĐDV

: Điều dưỡng viên

ĐTNC

: Đối tượng nghiên cứu

KBCB

: Khám bệnh, chữa bệnh

KSNK

: Kiểm soát nhiễm khuẩn

NCV

: Nghiên cứu viên

NVYT

: Nhân viên y tế

SK

: Sát khuẩn


TAT

: Tiêm an toàn

VST

: Vệ sinh tay

WHO

: Tổ chức Y tế Thế giới

KHHGĐ

: Kế hoạch hóa gia đình

TTTT

: Thu thập thơng tin


iv

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu................................... 21
Bảng 2.2. Kiến thức chung về tiêm an tồn đạt theo từng tiêu chí ..........22
Bảng 2.3. Kiến thức chuẩn bị người bệnh của điều dưỡng viên đạt theo từng tiêu

chí


23

Bảng 2.4. Kiến thức của điều dưỡng về dụng cụ và thuốc tiêm đạt theo từng tiêu

chí

24

Bảng 2.5. Các bước thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng...................27


v

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Sự phân bố đối tượng nghiên cứu tại các khoa lâm sàng.21
Biều đồ 2.2. Kiến thức chung về tiêm an toàn của ĐDV................................. 26
Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ đạt kiến thức TAT của các ĐDV tại các khoa lâm sàng
26

Biểu đồ 2.4. Thực hành chung tiêm an toàn của các điều dưỡng viên..29
Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ đạt thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng tại các khoa lâm
sàng 29


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong Y tế an toàn là nền tảng của chất lượng trong chăm sóc sức khỏe con
người và an toàn bệnh nhân là một vấn đề ưu tiên hàng đầu đối với thực hành y
khoa. Một trong những tiêu chí quan tâm nhất để đảm bảo an tồn người bệnh

chính là Tiêm an tồn. Tiêm có vai trị rất quan trọng trong cơng tác chăm sóc và
điều trị đặc biệt là đối với bệnh nhân cấp cứu hoặc bệnh nặng đe doạ đến tính
mạng.Tổ chức Y tế thế giới WHO định nghĩa: Mũi tiêm an toàn (TAT) là an toàn cho
người bệnh, an toàn cho nhân viên y tế và an tồn cho cộng đồng[1].

Tiêm khơng an tồn gây ra các tác động mang tính tồn cầu bao gồm:
sức khỏe, kinh tế, gánh nặng tâm lý, xã hội và các lĩnh vực khác ở nhiều cấp
độ khác nhau (cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia…). Trên thế giới, hàng
năm có khoảng 16 tỷ mũi tiêm được thực hiện và có tới 50% mũi tiêm tại các
nước đang phát triển khơng đạt đủ tiêu chí mũi tiêm an tồn. Năm 2000, tiêm
khơng an tồn là ngun nhân dẫn đến 21 triệu người nhiễm bệnh viêm gan B,
2 triệu người nhiễm viêm gan C và 260 nghìn người nhiễm HIV [2].
Tại Việt Nam, một số tai biến trong tiêm xảy ra tại các cơ sở y tế đã gây hậu
quả khơng nhỏ làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của NB, nhân viên y tế
(NVYT) và cộng đồng làm ảnh hưởng đến chất lượng khám bệnh, chữa bệnh
(KBCB) và uy tín của ngành. Đã có rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra 2 rằng kiến thức
và thực hành TAT của ĐDV tại các BV còn nhiều hạn chế. Vì vậy, trước thực trạng
đó, Bộ Y tế đã ban hành Hướng dẫn tiêm an toàn tại Quyết định số 3671/QĐ-BYT
ngày 27 tháng 9 năm 2012 nhằm cung cấp những kiến thức và kỹ năng trong thực
hành TAT để triển khai áp dụng thống nhất trong tất cả các cơ sở KBCB, cơ sở
đào tạo cán bộ y tế và các cá nhân liên quan. Ngày 18 tháng 11 năm 2016 Bộ Y tế
đã ban hành Quyết định 6858/QĐ - BYT về bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh
viện phiên bản 2.0 gồm 83 tiêu chí. Trong đó chỉ số tiêm an toàn là một trong mười
một chỉ số chăm sóc của cơng tác điều dưỡng.
Tại Bệnh viện Thanh Nhàn, năm 2010 đã tiến hành nghiên cứu thực trạng mũi
tiêm an toàn của ĐDV. Tuy nhiên trong những năm gần đây qua các đợt kiểm tra quy
chế đánh giá chất lượng bệnh viện và các báo cáo hàng tháng lên phòng điều dưỡng
cho thấy các mũi tiêm đạt an toàn chưa cao do nhiều yếu tố tác động vào việc đảm



2
bảo thực hiện các mũi tiêm an toàn của ĐDV. Tại thời điểm hiện tại, Bệnh viện Thanh
Nhàn đang trong thời gian sửa chữa nâng cấp hạ tầng do đó mặt bằng các khoa điều
trị bị thu hẹp lại rất nhiều, số lượng bệnh nhân ln trong tình trạng q tải, thời gian
làm việc chuyên môn của điều dưỡng bị thu hẹp do tăng số lượng công việc thủ tục
hành chính và áp dụng phần mềm máy tính vào cơng tác quản lý và điều trị bệnh nhân
nội trú chưa thay thế được hoàn toàn hồ sơ bệnh án giấy… Những vấn đề này đã trực
tiếp ảnh hưởng tới thời gian công tác chuyên môn của điều dưỡng và gây ra những
hạn chế trong thực hành Tiêm an toàn. Mặt khác tiêm an toàn là một chỉ số quan trọng
trong công tác đánh giá chất lượng của bệnh viện hàng năm. Đại đa số các mũi tiêm

ở các khoa lâm sàng chủ yếu là tiêm tĩnh mạch. Vì vậy nhóm nghiên cứu chúng tôi
tiến hành thực hiện nghiên cứu về tiêm an tồn với quy trình tiêm tĩnh mạch và
tìm hiểu các yếu tố liên quan đến việc thực hiện các mũi tiêm an toàn đối với ĐDV
trong khối lâm sàng của bệnh viện Thanh Nhàn với mục tiêu như sau:

1.

Mô tả thực trạng kiến thức thực hành về quy trình tiêm an tồn

của điều dưỡng các khoa lâm sàng bệnh viện Thanh Nhàn năm 2020
2.

Đề xuất một số giải pháp nâng cao kiến thức thực hành về quy

trình tiêm an toàn của điều dưỡng các khoa lâm sàng tại BV Thanh Nhàn


3
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các định nghĩa và khái niệm sử dụng trong nghiên cứu
1.1.1.1. Định nghĩa tiêm an toàn
Tiêm an toàn là quy trình tiêm khơng gây nguy hại cho người nhận
mũi tiêm, không gây phơi nhiễm cho người thực hiện mũi tiêm và
không tạo chất thải nguy hại cho người khác và cộng đồng [1].
1.1.1.2. Định nghĩa về tiêm tĩnh mạch
Là kỹ thuật dùng kim đưa thuốc, dịch vào tĩnh mạch với góc tiêm
30° so với mặt da. Khi tiêm chọn tĩnh mạch nổi rõ, mềm mại, không di
động, da vùng tiêm nguyên vẹn [1].
1.1.1.3.Một số khái niệm sử dụng trong
nghiên cứu * Bơm tiêm vô khuẩn:
Là bơm tiêm đã được tiệt khuẩn, còn hạn dùng, được đựng trong
túi còn nguyên vẹn, kim tiêm không chạm vào các đồ vật hoặc tay trước
khi tiêm [Error! Reference source not found.].
* Vệ sinh tay:
Thực hiện theo hướng dẫn tại công văn số 7517/BYT-ĐT: Hướng
dẫn quy trình rửa tay thường quy và sát khuẩn tay nhanh bằng dung
dịch chứa cồn và 05 thời điểm rửa tay:

-

-

Trước khi tiếp xúc với người bệnh;

-

Trước khi làm thủ thuật vô khuẩn;


-

Sau khi tiếp xúc với máu và dịch tiết;

-

Sau khi tiếp xúc với người bệnh;

Sau khi tiếp xúc với những vùng xung quanh bệnh

nhân [3]. * Chất sát khuẩn
Các chất chống vi khuẩn (ngăn ngừa nhiễm khuẩn với mô sống hoặc da).
Chất này khác với chất kháng sinh sử dụng để tiêu diệt hoặc kìm hãm sự phát
triển của vi khuẩn một cách đặc hiệu và khác với chất khử khuẩn dụng cụ. Một
số loại chất sát khuẩn (SK) là chất diệt khuẩn thực sự, có khả năng tiêu diệt vi


4
khuẩn trong khi một số loại chất SK khác chỉ có tính năng kìm hãm,
ngăn ngừa và ức chế sự phát triển của chúng [1].
* Sát khuẩn và chuẩn bị vùng da tiêm
+

Sử dụng kẹp không mấu vô khuẩn để gắp bông gạc tẩm cồn:

Khi sát khuẩn không được chạm kẹp vào da người bệnh.
+

Sát khuẩn da vùng tiêm theo hình xốy ốc từ trong ra ngồi với


đường kính 10cm cho đến khi sạch.
+ Thời gian sát khuẩn 30 giây, để da tự khơ hồn tồn rồi mới tiêm.
+ Khơng chạm tay hoặc vật dụng không vô khuẩn vào vùng da đã được
sát

khuẩn.
*Dung dịch sát khuẩn tay có chứa cồn
Dịch pha chế có chứa cồn dưới dạng chất lỏng, gel hoặc kem bọt
dùng để xoa/chà tay nhằm tiêu diệt hoặc làm giảm sự phát triển của vi
sinh vật. Các loại dung dịch này có thể chứa một hoặc nhiều loại cồn
pha theo công thức được công nhận của các hãng dược phẩm [1].
* Dự phòng sau phơi nhiễm
Biện pháp ngăn ngừa lây truyền các tác nhân gây bệnh đường máu
sau phơi nhiễm.
* Kỹ thuật vô khuẩn
Là các kỹ thuật không làm phát sinh sự lan truyền của vi khuẩn trong quá trình
thực hiện như: vệ sinh tay (VST), mang trang phục phòng hộ cá nhân, sử dụng chất
khử khuẩn da, cách mở các bao gói vơ khuẩn, cách sử dụng dụng cụ vơ khuẩn.

* Mũi tiêm an tồn trong nghiên cứu
Mũi tiêm an toàn trong nghiên cứu là mũi tiêm đạt đủ 17 tiêu chuẩn
thực hành trong bảng kiểm đánh giá thực hành TAT [4]. Cụ thể:
1. Bơm kim tiêm vơ khuẩn
2. Có sử dụng xe tiêm khi đi tiêm
3. Có sử dụng khay tiêm khi đi tiêm
4. Có hộp đựng vật sắc nhọn ở gần nơi tiêm
5. Rửa tay, sát khuẩn tay nhanh trước khi chuẩn bị thuốc
6. Rửa tay, sát khuẩn tay nhanh trước khi đưa kim tiêm qua da
7. Mang găng khi tiêm tĩnh mạch, truyền dịch, truyền máu



5
8. Kim lấy thuốc đảm bảo vô khuẩn
9. Tiêm thuốc đúng chỉ định

17.

10.

Tiêm thuốc đúng thời gian

11.

Tiêm đúng vị trí

12.

Tiêm đúng góc kim so với mặt da

13.

Tiêm đúng độ sâu

14.

Rút pittông kiểm tra trước khi bơm thuốc

15.


Bơm thuốc đảm bảo hai nhanh một chậm

16.

Không dùng hai tay đậy nắp kim

Cô lập ngay bơm kim tiêm đã nhiễm khuẩn trong

hộp an tồn. *Ngun tắc thực hành tiêm:[1]
-

Khơng gây nguy hại cho người nhận mũi tiêm:
+Chuẩn bị đầy đủ phương tiện, dụng cụ thuốc tiêm.
+Thực hiện 05 đúng bao gồm: đúng người bệnh, đúng

thuốc, đúng liều lượng, đúng thời điểm, đúng đường tiêm.
+Phòng và chống sốc: Trước khi tiêm cần hỏi về tiền sử dị ứng
của người bệnh.Luôn mang theo hộp chống sốc khi tiêm. Khi tiêm cần
bơm chậm, vừa bơm vừa quan sát sắc mặt người bệnh. Sau khi tiêm
nên để người bệnh nằm hoặc ngồi tại chỗ 10-15 phút.
+

Phòng tránh xơ hóa cơ hoặc đâm kim vào dây thần kinh: Xác

định đúng vị trí tiêm, tiêm đúng góc độ và độ sâu.
+

Các phòng ngừa khác: Đảm bảo đúng kỹ thuật vô khuẩn trong tiêm truyền,

hỏi người bệnh về tiền sử dùng thuốc để tránh tương tác thuốc. Sử dụng thuốc tiêm

một liều. Nếu phải sử dụng thuốc tiêm nhiều liều, cần sử dụng kim lấy thuốc vô khuẩn
và không lưu kim trên lọ thuốc. Không pha trộn 2 hoặc nhiều loại thuốc vào một loại
bơm kim tiêm (BKT). Không dùng một kim tiêm để lấy nhiều loại thuốc.

-

Không gây nguy hại cho người tiêm:

+Nguy cơ bị phơi nhiễm do máu hoặc do kim tiêm/vật sắc nhọn đâm
Mang găng khi có nguy cơ tiếp xúc với máu hoặc dịch tiết
của người bệnh Dùng gạc bẻ ống thuốc
Không dùng tay đậy nắp kim


6
Bỏ BKT vào thùng kháng thủng ngay sau khi tiêm. Không tháo
rời kim tiêm ra khỏi bơm tiêm sau khi tiêm
Không để vật sắc nhọn (VSN) đầy quá 3/4 hộp kháng
thủng Khi bị phơi nhiễm VSN, cần xử lý, khi báo ngay.

+ Nguy cơ bị đổ lỗi trách nhiệm cho người tiêm
Thơng báo, giải thích rõ cho người nhà hoặc người bệnh trước khi
tiêm Kiểm tra y lệnh trong hồ sơ bệnh án (trừ trường hợp cấp cứu)
Đánh giá tình trạng người bệnh trước, trong và sau khi tiêm
Pha thuốc trước sự chứng kiến của người nhà, người bệnh

Giữ lại lọ thuốc có ghi tên người bệnh đến hết ngày tiêm để
làm vật chứng Ghi phiếu chăm sóc
+ Khơng gây nguy hại cho cộng đồng:
Chuẩn bị hộp kháng thủng để đựng VSN.

Tạo thói quen cho người tiêm: bỏ ngay BKT vào hộp kháng thủng
ngay sau khi tiêm.
Thu gom và bảo quản BKT đã sử dụng theo đúng quy chế quản lý chất thải y

tế.
*Mũi tiêm khơng an tồn trong nghiên cứu
Mũi tiêm khơng an tồn trong nghiên cứu là mũi tiêm có từ một tiêu chí thực
hành khơng đạt trở lên bao gồm những đặc tính sau: dùng bơm tiêm, kim tiêm (BKT)
không vô khuẩn, tiêm không đúng thuốc theo chỉ định; khơng thục hiện đúng các
buớc của quy trình tiêm; các chất thải, đặc biệt là chất thải sắc nhọn (CTSN) sau khi
tiêm không phân loại và cô lập ngay theo quy chế quản lý chất thải của Bộ Y tế.

* Người điều dưỡng thực hành tiêm an toàn đúng trong nghiên cứu
Người điều dưỡng thực hành tiêm an tồn đúng trong nghiên cứu
là người điều dưỡng có cả 2 mũi tiêm quan sát đạt mũi tiêm an toàn.
*Phơi nhiễm nghề nghiệp
Phơi nhiễm nghề nghiệp là sự tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết,
chất bài tiết (trừ mồ hơi) có chứa tác nhân gây bệnh trong khi NB thực
hiện nhiệm vụ dẫn đến nguy cơ lây nhiễm bệnh [1].
*Phương tiện phòng hộ cá nhân


7
Phương tiện phòng hộ cá nhân (PPE) bao gồm găng tay, khẩu trang,
áo khốc phịng thí nghiệm, áo chồng, tạp dề, bao giày, kính bảo hộ, kính
có tấm chắn bên, mặt nạ. Mục đích sử dụng PPE là để bảo vệ NVYT, NB,
người nhà NB và NVYT khỏi bị nguy cơ phơi nhiễm và hạn chế phát tán
mầm bệnh ra mơi trường bên ngồi. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khơng
khuyến cáo sử dụng khẩu trang, găng tay, kính bảo vệ mắt, quần áo bảo vệ
trong thực hiện tiêm. Các PPE này chỉ sử dụng trong trường hợp người

tiêm có nguy cơ phơi nhiễm với máu, dịch tiết, chất tiết (trừ mồ hôi) [1].

* Thùng đựng chất thải sắc nhọn
Còn gọi là “hộp đựng chất thải sác nhọn (CTSN)”, “hộp kháng thủng”
hay “hộp an toàn”. Hộp đựng CTSN được sản xuất bằng chất liệu cứng,
chống thủng, chống rò rỉ được thiết kế để chứa CTSN một cách an toàn
trong quá trình thu gom, hủy bỏ và tiêu hủy. Thùng này phải được thiết kế
và quản lý theo đúng Quy chế Quản lý chất thải y tế của Bộ Y tế [5].

* Xử lý các vật sắc nhọn sau khi tiêm
Phân loại chất thải ngay tại nguồn, cô lập ngay vật sắc nhọn vào hộp kháng
thủng đủ tiêu chuẩn, không đậy lại nắp kim, không uốn cong, bẻ gẫy kim [1].

1.1.1.4. Hậu quả và gánh nặng bệnh tật của tiêm khơng an tồn
Tiêm khơng an tồn có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng ảnh
hưởng trực tiếp tới tính mạng con người, kinh tế, xã hội, tâm lý và một số
các lĩnh vực khác. Thực tế là gây ra hậu quả và gánh nặng bệnh tật cho cả
người nhận mũi tiêm, người thực hiện tiêm và cộng đồng nếu như khơng
có những giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện mũi tiêm an toàn[1].
Những nguy hại về sức khỏe và kinh tế do tiêm đã được khẳng định qua
nhiều nghiên cứu. Người ta ước tính rằng việc tiêm khơng an toàn gây thiệt
hại khoảng 535 triệu USD mỗi năm cho chi phí y tế trực tiếp cho việc giải
quyết những hậu quả do tiêm khơng an tồn gây ra, tiêm khơng an tồn cũng
gây nên khoảng 1,3 triệu cái chết và làm mất đi 26 triệu năm sống [6].

* Đối với người bệnh:
Những hậu quả gây ra với tình mạng con người do tiêm khơng an tồn là nguy
cơ bị áp xe tại vị trí tiêm, chứng liệt thần kinh, phản ứng dị ứng, sốc phản vệ và đặc
biệt là nguy cơ truyền các virus qua đường máu cho người bệnh, NVYT và cộng



8
đồng.
Theo nghiên cứu “Gánh nặng toàn cầu của bệnh do tiêm bị ô nhiễm được đưa ra
trong các thiết lập chăm sóc sức khỏe” của Hauri và cộng sự cho thấy trung bình mỗi
người nhận 3,4 mũi tiêm, trong đó 39,3% sử dụng bơm tiêm dùng lại.

Tổ chức Y tế Thế giới WHO (2004) cho thấy 50% số bơm kim tiêm vẫn được
thiêu ngoài trời hoặc bán ở chợ đen và trong năm 2000 trên tồn cầu có khoảng
21triệu ca nhiễm mới viêm gan B chiếm 32%, 2 triệu ca nhiễm mới viêm gan C
chiếm 40% và 260.000 ca nhiễm mới HIV chiếm 5% so với tổng số ca nhiễm mới
của từng loại virus đó. Tại các nước phát triển, tiêm khơng an tồn gây nên
khoảng 1/3 những trường hợp nhiễm mới HBV và là nguyên nhân chủ yếu của
những trường hợp nhiễm HCV, gây nên khoảng 2 triệu trường hợp nhiễm mới mỗi
năm chiếm trên 40% những trường hợp nhiễm HCV.

* Đối với nhân viên y tế:
Đối với nhân viên Y tế, nếu mũi tiêm khơng an tồn có thể dẫn đến những hậu
quả khó lường mà chủ yếu là các bệnh lây qua đường máu như viêm gan B; HIV...

Một mắt xích quan trọng của q trình lây bệnh từ người bệnh sang nhân
viên y tế qua đường máu là các tai nạn do vật sắc nhọn. Theo WHO, đối
tượng bị tai nạn nghề nghiệp do kim đâm vào tay chiếm tỷ lệ cao nhất là
điều dưỡng (44 -72%); tiếp theo là bác sỹ (28%); kỹ thuật viên xét nghiệm là
15%; hộ lý là 3 - 16% và nhân viên hành chính chiếm khoảng 1 - 6% [7],[8].
Điều dưỡng là đối tượng nhân viên y tế đáng được quan tâm nhất khi đề
cập tới chủ đề tiêm an tồn bởi vì đây là đối tượng có ảnh hưởng lớn tới bản
thân họ và các đối tượng còn lại là người được tiêm và cộng đồng [9]. Một số
nghiên cứu trước đây về chấn thương do kim đâm cho thấy khoảng 10% đến
25% chấn thương xẩy ra do lắp lại nắp đậy kim tiêm sau khi sử dụng. Theo

nghiên cứu tại Anh năm 2004 của Mehta trong vòng 1 năm, tỷ lệ NVYT bị kim
đâm là 4-5% trong đó điều dưỡng bị kim đâm thì 23% ĐDV bị nhiễm viêm gan
B, bác sĩ 15%, kỹ thuật viên 11% nhiễm viêm gan B [2].
Trong số các NVYT không được điều trị dự phòng sau phơi nhiễm, nguy cơ
nhiễm khuẩn sau khi bị tổn thương do kim tiêm là 23%- 62% đối với HBV và 0-7% đối
với HCV [10]. Nhiễm khuẩn chéo sang NB khác và sang NVYT có thể từ tay của NVYT,
thuốc, thiết bị và dụng cụ y tế hoặc bề mặt môi trường. Nghiên cứu đánh giá


9
tình hình lây nhiễm viêm gan C ở nhân viên y tế tại BV Trung ương
Hungary (2001) cho thấy trong số 477 nhân viên y tế được xét nghiệm máu
tìm kháng thể kháng vi rút viêm gan C thì có 2,7% nhân viên y tế có HCV
dương tính, trong đó 2,7% là điều dưỡng và 2,9% là nhân viên khác của
BV, tỷ lệ nhiễm HCV có liên quan đến yếu tố nghề nghiệp, nghĩa là thời
gian làm việc tại BV càng dài thì tỷ lệ nhiễm HCV càng lớn [11].
Việt Nam là một nước đang phát triển nằm trong khu vực Đơng Nam Á - nơi
có tỷ lệ nhiễm khuẩn do tiêm khơng an tồn cao nhất thế giới (tỷ lệ nhiễm mới
HBV là 22,4%-53,6%, nhiễm mới HCV là 30,8%-59,5%, nhiễm mới HIV là 7,0%24,3%). Theo thống kê chưa đầy đủ của ủy ban phòng chống AIDS cho thấy số tai
nạn nghề nghiệp ở các phòng xét nghiệm HIV, riêng trong năm 1999 có tới 62 vụ
(trong số 695.097 mẫu xét nghiệm HIV), đây là một loại tai nạn do kim lấy máu đâm
vào tay NVYT, như vậy nguy cơ lây nhiễm bệnh HIV qua đường máu là rất cao [8].
Bên cạnh đó, một loạt các hậu quả khác do tiêm khơng an tồn đã được ghi nhận
tại Việt Nam như tỷ lệ người bệnh bị áp xe tại vị trí tiêm, chứng liệt thần kinh, phản
ứng dị ứng, sốc phản vệ do tiêm khơng an tồn.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thúy Quỳnh năm 2008, cho thấy: điều
dưỡng có tần suất phơi nhiễm cao nhất (79,6/1000 người/4 tháng, trong đó tổn
thương xuyên da là 66,7/1000 người/4tháng); đứng thứ 2 là nhóm bác sĩ (26,9/1000
người/4 tháng, trong đó tổn thương xuyên da 22,2/1000 người/4 tháng). NVYT thường
xuyên thực hiện các cơng việc tiêm, truyền có tần suất phơi nhiễm cao nhất và 100%

các trường hợp là tổn thương xuyên da (43,3/1000 người/4tháng) [12].
Năm 2009, tại BV Xanh Pôn nghiên cứu trên 669 nhân viên của 33 khoa phòng
lâm sàng và cận lâm sàng cho thấy tỷ lệ NVYT có xét nghiệm dương tính HBsAg là
7,3%, tần suất phơi nhiễm chung trong quá trình làm việc là 241,5/người/năm. Tần
suất phơi nhiễm cao nhất là trong nhóm NVYT phải thường xuyên thực hiện tiêm
truyền là 55,5 người/năm, nhóm điều dưỡng có tần xuất phơi nhiễm cao nhất là 146,1
người/năm, vị trí tổn thương ngón tay chiếm 42%, thời điểm tổn thương thường vào
buổi sáng 54% trong tổng số các phơi nhiễm [13].
Các tác nhân gây bệnh qua đường máu cũng có thể là nguyên nhân gây bệnh
cho cán bộ NVYT. Theo Cục quản lý khám chữa bệnh ước tính 44% ca nhiễm HIV, 39%
ca nhiễm HBV và HCV đều do tai nạn nghề nghiệp, nhiễm khuẩn chéo trong


10
bệnh viện gây lên. Vì vậy tuân thủ các quy trình kỹ thuật trong TAT góp phần
đảm bảo an tồn cho người bệnh và cả nhân viên y tế. Theo khỏa sát của hội
điều dưỡng Việt Nam năm 2005, chỉ có 22,5% mũi tiêm đạt thực hành an tồn.
Ngun nhân chủ yếu là do kỹ thuật tiêm, truyền chưa đảm bảo an tồn, kỹ
thuật vơ khuẩn kém, thiếu thốn dụng cụ tiêm, dung dịch sát khuẩn tay và sự
cập nhật thông tin không kịp thời của nhân viên y tế về hướng dẫn TAT[4].

* Đối với cộng đồng:
Tiêm không an tồn khơng những chỉ gây hại cho NB, NVYT mà cịn
gây hại cho cộng đồng. Hiện tại chưa có số liệu thống kê một cách đầy đủ
về tác hại gây ra cho cộng đồng nhưng bằng chứng thực tế cho thấy
những nguy hại từ việc xử lý BKT sau tiêm không đúng, người trong cộng
đồng đã nhặt đem về tái sử dụng hoặc bị tổn thương trong quá trình nhặt
bới rác do việc phân loại và thiêu đốt BKT không đúng quy trình.
Việc thu gom, xử lý khơng đúng dụng cụ tiêm truyền nhiễm bẩn, dẫn đến
NVYT và cộng đồng có thể phơi nhiễm nguy cơ bị thương tích do kim đâm. Tiêm

khơng an tồn gây ra tâm lý lo lắng cả người được tiêm, người thực hành tiêm và
cộng đồng về nguy cơ lây nhiễm bệnh qua đường máu, dịch, nguy cơ bị tổn
thương do VSN… Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng không tốt về xử lý rác thải y tế là
ngun nhân khiến tiêm khơng an tồn gây tổn hại đến cộng đồng.
Tiêm khơng an tồn gây những hậu quả nghiêm trọng là những điều đã
được chứng minh, tuy nhiên một trong những điểm rất đáng chú ý của vấn đề
tiêm an tồn là khả năng phịng tránh khơng để xẩy ra mất an tồn. Theo nhận
định của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật của Hoa Kỳ (CDC) và WHO thì có tới 80%
các rủi ro do kim tiêm có thể phịng ngừa được bằng việc phối hợp các biện pháp
hết sức đơn giản pháp như: sử dụng trang thiết bị tiêm vô khuẩn; thực hiện đúng
quy trình tiêm. Những sự mất an tồn trong tiêm có thể được giảm nhẹ đi rất
nhiều nếu mọi cá nhân và cộng đồng hiểu rõ thực trạng về tiêm và chủ động kiểm
sốt các hành vi có có nguy cơ gây hại và tiến tới loại trừ chúng ra khỏi đời sống.

1.1.1.5. Các nguy cơ dẫn đến tiêm không an toàn
Việc thực hiện các kỹ thuật tiêm truyền cho người bệnh có thao tác chưa đúng
trong quy trình tiêm truyền là ngun nhân chính dẫn đến mũi tiêm khơng an tồn.
Cơng tác kiểm sốt nhiễm khuẩn khơng đảm bảo trong thực hiện kỹ thuật tiêm


11
truyền có nguy cơ cao dẫn đến mũi tiêm khơng an tồn.
Kiến thức và thực hành tiêm an tồn cịn nhiều hạn chế cho cách
tiếp cận và cập nhật thông tin và hướng dẫn tiêm an toàn chưa đúng, đủ.

Số lượng bệnh nhân quá tải, khối lượng công việc quá nhiều dẫn
đến việc làm tắt hoặc làm theo thói quen của điều dưỡng cắt bớt một số
bước khi thực hiện tiêm, truyền cho người bệnh.
Phương tiện, dụng cụ, vật tư y tế không đảm bảo hoặc không đủ
cho điều dưỡng sử dụng trong q trình thực hiện chun mơn.

Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị chưa hiện đại, điều kiện môi trường làm việc
không thuận tiện làm giảm ý thức tuân thủ quy trình kỹ thuật của điều dưỡng.

1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng sử dụng thuốc tiêm và hiện tượng lạm dụng tiêm
Tiêm, truyền đang trở thành một thủ thuật xâm lấn phổ biến, với số lượng mũi
tiêm lớn trong chẩn đốn, phịng bệnh và chữa bệnh. Kết quả nghiên cứu của Yan Y
và cộng sự được tiến hành tại Trung Quốc nhằm đánh giá về TAT của người dân ở
huyện Kinh Châu, Hồ Bắc cho thấy trong số 595 đối tượng nghiên cứu có 192 người
đã được tiêm ít nhất 1 lần trong 3 tháng chiếm 32,3%, trung bình 0,93 mũi tiêm/người
[14]. Hauri và cộng sự năm 2004 cũng cho thấy tỷ lệ tiêm hàng năm cho mỗi người
dao động từ 1,7 đến 11,3 [7]. Tại Việt Nam, năm 2005, nghiên cứu của Đào Thành và
cộng sự được tiến hành với mục tiêu đánh giá toàn diện trên phạm vi toàn quốc về kết
quả sau 5 năm thực hiện cuộc vận động TAT toàn quốc. Qua quan sát ngẫu nhiên 776
mũi tiêm cho thấy: tỷ lệ mũi tiêm trung bình của NB là 2,2 mũi tiêm/người/ngày

[15]. Nghiên cứu của Trần Thị Minh Phượng tại BV đa khoa Hà Đông
năm 2012 cho thấy tỷ lệ NB nội trú có tiêm chiếm 64%, trung bình mỗi
NB nhận tới 3,1 mũi tiêm/ngày [16].
Thực tế cho thấy, việc lạm dụng tiêm truyền đang trở thành một vấn đề báo động tại
một số nước đang phát triển. Lạm dụng tiêm gây nên những thiệt hại lớn về mặt kinh tế và
làm tăng nguy cơ khơng an tồn trong q trình thực hiện tiêm. Tại Indonesia và Tanzania,
trên 70% những mũi tiêm được cho là khơng cần thiết hoặc có thể thay thế bằng thuốc
uống, cái được cho là an toàn và rẻ tiền hơn rất nhiều [2]. Theo nghiên cứu của Hauri và
cộng sự năm 2004 cũng đưa ra kết luận lạm dụng tiêm và thực hành khơng an tồn đưa
đến một gánh nặng đáng kể về tử vong và khuyết tật trên toàn


12
thế giới [7]. Nghiên cứu tại Jingzhou, Trung Quốc về thực hành tiêm tại các cơ sở

y tế cho thấy có tới 52% đơn thuốc của NB ngoại trú có chỉ định tiêm, trong đó
57% số mũi tiêm là khơng cần thiết [14]. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Đào Thành
năm 2010 về thực trạng TAT trước và sau can thiệp tại 13 BV đại diện cho 3 vùng
Bắc, Trung, Nam kết quả cho thấy trên 85% nhân viên y tế cho rằng có tình trạng
lạm dụng thuốc tiêm trong đó hơn một nửa số người cho rằng đó là tình trạng
phổ biến và quan điểm này khơng thay đổi ở đánh giá trước và sau [17].

Nguyên nhân dẫn đến lạm dụng tiêm bắt nguồn từ cả phía người được
tiêm, người tiêm và cộng đồng. Do thiếu thông tin về những nguy hại do tiêm
truyền; có niềm tin mơ hồ về tác dụng hiệu quả dùng thuốc theo đường tiêm
so với uống; một số NB thích được tiêm hơn, đề nghị hoặc yêu cầu bác sỹ
cho thuốc tiêm, truyền trong khi có thể dùng thuốc uống thay thế. Bên cạnh
đó bác sỹ cũng kê đơn lạm dụng thuốc tiêm để làm hài lịng NB và thêm nữa,
lợi nhuận, tiền cơng thu được từ thuốc tiêm cũng cao hơn thuốc uống.

1.2.2.Thực trạng cung cấp trang thiết bị, phương tiện phục vụ tiêm
Nhiều quốc gia chưa thực sự quan tâm đầu tư trang thiết bị phục vụ cơng tác
tiêm an tồn nhằm bảo đảm an toàn cho nhân viên y tế và cộng đồng. Irina Mikheeva

- Viện nghiên cứu dịch tễ học quốc gia liên bang Nga và cộng sự đã tiến
hành nghiên cứu về quản lý chất thải y tế trên 65.415 cơ sở y tế ở 50 vùng
lãnh thổ khác nhau của liên bang Nga năm 2005 cho thấy: 61,5% cơ sở y tế
sử dụng chai nhựa để chứa bơm kim tiêm. Chỉ có 1,4% cơ sở y tế sử dụng
máy cắt kim; 14% cơ sở y tế tái sử dụng các vật dụng thải bỏ.
Thiếu phương tiện, dụng cụ tiêm hoặc phương tiện, dụng cụ tiêm không phù
hợp. Thiếu BKT hoặc BKT khơng phù hợp về mặt kích cỡ, chủng loại hay không
bảo đảm chất lượng cho việc tái sử dụng. Một số cơ sở y tế dùng chung BKT cho
những loại thuốc khác nhau, cho những NB khác nhau, dùng một kim lấy thuốc
để pha thuốc và rút thuốc nhiều lần. Theo báo cáo của WHO, dựa trên kết quả
nghiên cứu về hiện trạng tiêm tại 19 nước đại diện cho 5 vùng trên thế giới, có

40% mũi tiêm được thực hiện bằng BKT dùng lại mà không được tiệt khuẩn [2].
Nghiên cứu tại 80 cơ sở y tế ở Philippin năm 2007 (theo bộ công cụ đánh giá
tiêm an toàn của WHO) cho thấy: tỷ lệ sử dụng lại bơm kim tiêm xấp xỉ 16%, khoảng
49% các cơ sở y tế chưa có hệ thống xử lý rác thải, chỉ có 17% số cơ sở y tế có thùng


13
chứa vật sắc nhọn đảm bảo tiêu chuẩn. Tại Gujarat, Indian, 77% số
người cung cấp mũi tiêm có những mũi tiêm được thực hành một cách
khơng an tồn bao gồm luộc bơm kim tiêm để dùng lại, đậy lại nắp kim
tiêm bằng hai tay và tiếp xúc trực tiếp với dịch cơ thể.
Tại Việt Nam, thiếu các phương tiện vệ sinh tay: Không đủ bồn rửa tay tại các
buồng bệnh, buồng thủ thuật, khơng cung cấp đủ nước, xà phịng, khăn lau tay sạch
hoặc dung dịch SK tay nhanh có chứa cồn làm ảnh hưởng đến quy trình TAT của ĐDV.
Giải pháp trang bị đủ các phương tiện vệ sinh tay như lắp đặt đủ các bồn rửa tay ở
buồng bệnh, buồng thủ thuật; cung cấp đủ nước, xà phòng, khăn lau tay sạch cho mỗi
lần rửa tay hoặc dung dịch SK tay nhanh có chứa cồn treo hoặc đặt sẵn trên các xe
tiêm đã được đề cập đến trong Hướng dẫn TAT của Bộ Y tế [1];
Thiếu các phương tiện thu gom chất thải y tế sau tiêm theo đúng quy định tại
Quyết định 43/2007/QĐ-BYT ngày 30/11/2007 của Bộ Y tế ban hành Quy chế Quản lý
chất thải y tế. Rất nhiều các cơ sở KBCB hiện nay sử dụng hộp đựng CTSN sau tiêm
không đạt yêu cầu, không đủ hộp, hộp khơng có tính kháng thấm, kháng thủng, khơng
phù hợp về kích cỡ, hoặc sử dụng khơng đúng như đựng q đầy, để hộp khơng đúng
vị trí gây tai biến cho người thực hành tiêm và người thu gom chất thải sau tiêm.
Nghiên cứu đánh giá kiến thức về TAT và tần suất rủi ro do vật sắc nhọn đối với điều
dưỡng, hộ sinh tại 8 tỉnh đại diện, 6 tháng đầu năm 2005 của Phạm Đức Mục và cộng
sự đã cho thấy có 63,1% và 62,6% số người được hỏi cho rằng thiếu dụng cụ xử lý
chất thải và thiếu hộp đựng CTSN chuẩn là nguyên nhân dẫn đến mũi tiêm khơng an
tồn [18]. Để thực hiện tốt nội dung này trong tiêm truyền, Bộ Y tế đã khuyến cáo các
cơ sở KBCB phải bảo đảm phương tiện đựng CTSN phù hợp với phương pháp tiêu

hủy cuối cùng. Hộp đựng CTSN phải bảo đảm các tiêu chuẩn: thành và đáy cứng
khơng bị xun thủng; có khả năng chống thấm; kích thước phù hợp; có nắp đóng
mở dễ dàng; miệng hộp đủ lớn để cho vật sắc nhọn vào mà khơng cần dùng lực đẩy;
có dịng chữ “chỉ đựng chất thải sắc nhọn” và có vạch báo hiệu ở mức 3/4 hộp và có
dịng chữ “Khơng được đựng quá vạch này”; màu vàng; có quai hoặc kèm hệ thống
cố định; khi di chuyển vật sắc nhọn bên trong khơng bị đổ ra ngồi [1].

1.2.3.Thực trạng tiêm an tồn
Kiến thức, thực hành TAT chưa tốt đặc biệt là tại các nước đang phát triển đang
là một vấn đề được rất nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm. Theo WHO có tới 50% các


14
mũi tiêm ở các nước đang phát triển chưa bảo đảm an tồn, WHO cảnh
báo tiêm khơng an tồn đã trở thành thông lệ ở các nước đang phát triển
[2]. Đã có rất nhiều thao tác thực hành tiêm chưa đúng được ghi nhận qua
các nghiên cứu của các nước: chỉ có 12,5% rửa tay bằng xà phịng và
nước trước khi thực hành tiêm [10]; 23% trả lời vẫn đậy nắp kim thường
xuyên và 32,8% trả lời thỉnh thoảng vẫn đậy lại nắp kim sau tiêm [1].
Tại Việt Nam, việc thực hiện tiêm truyền cho NB trong các cơ sở KBCB chủ yếu
do ĐDV thực hiện. Từ năm 2001 đến nay, được sự quan tâm của Bộ Y tế, Hội Điều
dưỡng Việt Nam đã phát động phong trào TAT trong toàn quốc, đồng thời tiến hành
những khảo sát về thực trạng TAT vào những thời điểm khác nhau (2002; 2005; 2008).
Kết quả những khảo sát cho thấy: 55% nhân viên y tế cịn chưa cập nhật thơng tin về
TAT liên quan đến KSNK; phần lớn nhân viên y tế chưa tuân thủ quy trình kỹ thuật và
các thao tác KSNK trong thực hành tiêm (vệ sinh tay, mang găng, sử dụng panh, phân
loại và thu gom vật sắc nhọn sau tiêm, dùng tay để đậy nắp kim sau tiêm...), chưa báo
cáo và theo dõi rủi ro do vật sắc nhọn (87,7%) [17].
Hiện tại, thực hành tiêm của ĐDV tại các BV rất khác nhau và một số thực hành
chưa phù hợp. Thiếu kiến thức về phân loại chất thải sau tiêm: sau khi tiêm xong,

dùng tay để tháo BKT bằng tay; bẻ cong kim tiêm; đậy nắp kim tiêm; không rửa tay
sau khi tiêm; không lường trước được những phản ứng bất ngờ của NB đặc biệt là
đối với những bệnh nhi, NB có những rối loạn về tâm thần hay những NB bất hợp tác

[17]. Thực hành TAT không đúng được phản ánh qua rất nhiều nghiên cứu tại các
thời điểm và các vùng miền khác nhau: 50,1% ĐDV sát khuẩn da nơi tiêm không
đúng quy định [19]; 37,7% không rửa tay, sát khuẩn tay nhanh trước khi chuẩn bị
dụng cụ tiêm [20], 51% không sát khuẩn tay trước khi tiêm [21]; 38,3% dùng hai
tay đậy lại nắp kim tiêm [20]. Hiện tại, ViệtNam chưa có nghiên cứu nào đánh giá
hậu quả tồn diện do tiêm khơng an tồn gây ra tuy nhiên vẫn có một số tai biến
xảy ra tại các cơ sở KBCB mà hậu quả của tiêm khơng an tồn là rất lớn.
Thu gom BKT đã sử dụng để tái sử dụng hoặc bán ra thị trường bên ngồi theo
những cách khơng an tồn. Những sai phạm này là hết sức trầm trọng bởi chúng có
thể gây hại cho cộng đồng dân cư rộng lớn. Thải bỏ BKT bừa bãi ra môi trường. Tiêu
hủy không đúng cách như thiêu đốt gây ơ nhiễm khơng khí, tạo ra những chất sau tiêu
hủy chưa thực sự an toàn hoặc chôn lấp không đạt tiêu chuẩn độ sâu gây hại cho


15
những người khác [17].
Tình trạng quá tải NB, quá tải công việc đang là những rào cản lớn đối
với việc thực hiện TAT. Tình trạng thiếu nhân lực, bố trí công việc không
hợp lý khiến ĐDV phải thực hiện quá nhiều công việc dưới nhiều áp lực và
việc tuân thủ TAT khơng được thực thi một cách tồn diện [17].
Cơng tác quản lý chưa hiệu quả: thiếu kiểm tra giám sát, thiếu chế tài thưởng
phạt, chưa tạo phong trào thi đua, tạo môi trường điều kiện thuận lợi cho TAT [17].

Năm 2012, Bộ Y tế Việt Nam đã ban hành Hướng dẫn TAT với nhiều nội dung
cập nhật so với quy trình tiêm hiện đang được thực hiện và yêu cầu triển khai
thực hiện tại tất cả các BV trong toàn quốc nhằm bảo đảm thực hiện mũi tiêm an

toàn cho người nhận mũi tiêm, người tiêm và cộng đồng. Đến nay nhiều BV đã
cập nhật quy trình tiêm theo Hướng dẫn TAT để ĐDV thực hiện tại BV song chưa
có nghiên cứu nào đánh giá việc thực hiện TAT tại các BV theo Hướng dẫn này.
1.2.4. Các nghiên cứu về yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành Tiêm an toàn

1.2.4.1.Một số yếu tố liên quan đến kiến thức Tiêm an toàn
Nghiên cứu so sánh kiến thức, thái độ thực hành tiêm an toàn của điều
dưỡng được tiến hành tại BV Đại học y và BV Sản ở Ibadan, trên tổng số 385
ĐDV cho thấy 100% ĐDV đã nghe nói về TAT, mức độ kiến thức được đánh giá
là cao và khơng có sự khác biệt đáng kể giữa hai BV, 70,4% biết được tiêm
khơng an tồn có nguy cơ lây nhiễm bệnh qua đường máu, 55,9% cho rằng
dùng hai tay đậy nắp kim tiêm không phải là thực hành TAT đúng, 76,1% cho
rằng BKT sau sử dụng phải được bỏ vào thùng đựng CTSN [22].


Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về kiến thức TAT tại các thời điểm khác

nhau, quy mô khác nhau tuy nhiên bộ công cụ để đánh giá kiến thức của ĐDV trong
các nghiên cứu rất khác nhau, một số câu hỏi có nội dung chưa cập nhật, chưa đi sâu
vào kiến thức trọng tâm về TAT. Năm 2005, Phạm Đức Mục đã tiến hành nghiên cứu
mô tả cắt ngang 529 Điều dưỡng - hộ sinh đang công tác tại các khoa lâm sàng trong
một số cơ sở y tế tại 8 tỉnh trong thời gian từ 15/6/2005 đến 15/7/2005 nhằm đánh giá
kiến thức của điều dưỡng, hộ sinh về TAT sau 5 năm thực hiện cuộc vận động TAT
toàn quốc của Hội Điều dưỡng Việt Nam bằng bộ câu hỏi phát vấn gồm 11 câu hỏi về
kiến thức và nguyên nhân tiêm khơng an tồn, kết quả 95,3% ĐDV trả lời đúng TAT có
thể lây truyền HIV, 97,4% trả lời đúng có thể lây truyền viêm gan B và 74,4%


×